Mục Lục
Tóm tắt đề tài 1
Lời mở đầu 2
1. Khái quát chung về quỹ đầu tư
1.1 Lược sử quỹ đầu tư trên thế giới 3
1.2 Khái niệm và chức năng của quỹ đầu tư 5
1.3 Phân loại quỹ đầu tư 5
1.3.1 Căn cứ vào nguồn vốn huy động 5
1.3.2 Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn 6
1.3.3 Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ: 6
1.4 Mô hình tổ chức 7
1.5 Tiêu chuẩn đán giá kết quả hoạt động của quỹ đầu tư 8
2. Thực trạng quỹ đầu tư từ năm 2000 đến nay ở Việt Nam 10
2.1 Quỹ đầu tư ở Việt Nam: hình thành và nở rộ 10
2.2 Một số văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quỹ đầu tư ở Việt Nam: 18
2.3 Thực trạng quỹ đầu tư ở Việt Nam
2.3.1 Một số quỹ đầu tư niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay: 23 2.3.2 Những mặt hạn chế trong họat động đầu tư của quỹ đầu tư 33
2.3.3 Nguyên nhân một số hạn chế trong họat động đầu tư của quỹ 33
3. Giải pháp cho quỹ đầu tư
3.1 Kinh nghiệm quản lý quỹ đầu tư ở Mỹ 34
3.2 Kinh nghiệm quản lý đầu tư ở các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan
3.2.1 Hàn Quốc 35
3.2.2 Thái Lan 35
3.3 Một số bài học rút ra cho việc phát triển quỹ đầu tư ở Việt
Nam 36
KẾT LUẬN 37
Phụ lục 1 38
Tài liệu tham khảo 40
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12685 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o dịch chứng khoán Ireland. Công ty quản lý quỹ là Vietnam Fund Management Ltd., đã đầu tư vào 11 dự án và thu hồi vốn hai lần.
Vietnam Frontier Fund (VFF): phát hành cổ phiếu gọi vốn vào tháng 10/1994, là quỹ dạng đóng, quy mô vốn của quỹ 50 triệu USD, số tiền đã đầu tư 30 triệu USD, thời gian hoạt động 10 năm, niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Dublin – Ireland. Công ty quản lý quỹ là: Finansa, quỹ đã đầu tư vào 9 dự án, thu hồi vốn 01 lần.
Beta Mekong Fund (BMF) và Beta Vietnam Fund (BVF): phát hành cổ phiếu gọi vốn vào tháng 10 và 11 năm 1994, là quỹ dạng đóng, thời gian hoạt động 10 năm, quy mô vốn của quỹ 80 triệu USD, số tiền đưa vào đầu tư là 50 triệu USD, niêm yết tại thị trường chứng khoán Ireland. Công ty quản lý quỹ là: Indochina Asset Management Ltd., Quỹ đã đầu tư vào 17 dự án.
Lazard Vietnam Fund (LVF): phát hành cổ phiếu gọi vốn vào tháng 11 năm 1994, số vốn huy động 55 triệu USD, niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Dublin – Ireland. Công ty quản lý quỹ là: Vietnam Vest Ltd.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay:
Sự ra đời của thị trường giao dịch, chứng khoán tập trung đã đánh dấu biến động đáng kể về chất lượng hoạt động của các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ. Khác với các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm 1990, với sự kỳ vọng vào sự ra đời cuả thị trường chứng khoán ngay sau đó, xong cuối cùng đều không thành công và lần lượt rời khỏi Việt Nam (Vietnam Fund (1991), Beta Vietnam Fund (1994), Vietnam Frontier Fund (1994), Lazard Vietnam Fund (1994), Templeton Vietnam Opportunities Fund (1994)).
Các quỹ đầu tư mới, thành lập sau năm 2000 đã tỏ ra thận trọng hơn, có được kinh nghiệm nhiều hơn từ các quỹ đi trước. nếu như các quỹ đầu tư trước năm 2000 thường tìm đến những dự án lớn, doanh nghiệp quy mô với những khoảng đầu tư từ 5 đến 7 triệu Đô-la Mỹ, các quỹ mới hiện nay lập ra mục tiêu rất rõ ràng: Hiệu quả là quyết định không quan trong quy mô dự án, công ty nhỏ hay lớn. Các quỹ đầu tư nước ngoài điển hình nhất hiện nay gồm:
Vietnam Interprise Investment Limited (VEIL) do Dragon Capital quản lý, với tổng số vốn đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam cho đến nay đã lên đến gần 190 triệu USD. Quỹ VEIL đã được thành lập tại Việt Nam trước năm 2000, hiện đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Dublin, và có thể được coi là đại diện duy nhất của làn sóng đầu tư gián tiếp lần thứ nhất của các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tiếp đến 2004, Dragon Capital đã cho ra đời Vietnam Growth Fund với số vốn 90 triệu USD. Vừa qua Dragon Capital còn nhận thêm, quản lý một quỹ đầu tư mới, Vietnam Dragon Fund, với số vốn lên đến 35 triệu USD.
Công ty quản lý quỹ Mekong Capital thành lập Mekong Enterprise Fund, hiện đã đầu tư khoảng 18,5 triệu USD vào các doanh nghiệp cổ phần của Việt Nam ( như công ty nhựa Tân Đại Hưng, công ty trang trí thiết kế nội thất AA, công ty cổ phần tin học Lạc Việt quản lý quỹ Lạc Việt…) dự kiến vào tháng 5/2006 sẽ thành lập thêm một quỹ đầu tư mới với số tiền 40 triệu USD.
Công ty Vina Capital thành lập Vietnam Opportunity Fund (VOF) vào một ngày 11/11/2003, VOF là quỹ đầu tư dạng đóng niêm yết tại thị trường chứng khoán London, với bốn cổ đông chính là Millenium Partners (New York), Deustche Bank Securities, SunWah Group (Hồng Kông) và Pacific Alliance Group. Năm 2004, VOF đã công bố khoảng đầu tư đầu tiên vào công ty kem Kinh Đô. Tháng 3/2006, Vina capital chính thức khai trương quỹ đầu tư bất động sản Vinaland Fund với số tiền mà các nhà đầu tư nước ngoài rót vào quỹ đã lên đến 65 triệu USD vượt mức dự kiến 15 triệu USD. Vina Capital không giấu tham vọng tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam dự định cuối năm 2006 công ty sẽ thành lập thêm quỹ Technology Fund để đầu tư vào các dự án công nghệ cao ở Việt Nam.
Quỹ đầu tư chứng khoán Phan-xi-păng do Jadine Matheson Vietnam quản lý, với mức vốn tối thiểu là 07 triệu USD, tối đa là 25 triệu USD. Đây là quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, hiện đã huy động được khoảng 03 triệu USD và đang tham gia giao dịch các cổ phiếu niêm yết trên thị trường tập trung. Theo kế hoạch, Phan-xi-păng sẽ được niêm yết tại một thị trường chứng khoán nước ngoài, nhưng toàn bộ nguồn vốn của quỹ sẽ được đầu tư vào Việt Nam. Dự kiến trong quý 2006, Phan-xi-păng phát hành thêm 3,5 triệu cổ phiếu để tăng vốn.
Năm 2004, Dragon capital đã liên doanh với Ngân hàng cổ phần thương mại Sài gòn Thương Tín (Sacombank) để thành lập công ty quản lý quỹ Vietfund (VFN). Hiện nay, VFN đã tiến hành thành công đợt phát hành chứng chỉ quỹ cho Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VF1), là quỹ đầu tư dạng đóng đầu tiên Việt Nam với quy mô vốn là 300 tỷ đồng. Tháng 11 năm 2004, VF1 đã được phép niêm yết chứng chỉ quỹ tại Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. HCM.
Quỹ đầu tư Finansa với số vốn đầu tư 18 triệu USD với những cổ đông chính như Propaco (Pháp) và DIG (Đức) mới hình thành 8/2005, nhưng cũng đã đầu tư thành công vào một số doanh nghiệp vừa và nhỏ.
So với các quỹ đầu tư trước thời điểm năm 2000, hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài trong giai đoạn sau năm 2000 có một đặc điểm khác biệt rất dễ nhận thấy đó là quy mô vốn đầu tư so với quy mô vài chục triệu USD của các quỹ đầu tư trước năm 2000, các quỹ đầu tư mới thành lập ngoại trừ VEIL, đều có quy mô vốn khoảng từ 10 – 20 triệu USD. Tất nhiên các quỹ đầu tư này sẽ không ngừng lại ở quy mô vốn hiện tại nhưng việc huy động thêm vốn đầu tư đang được tiến hành theo từng giai đoạn, khi quá trình đầu tư trong giai đoạn đã hoàn tất và đạt kết quả tốt. Hoạt đông của các quỹ đầu tư nước ngoài hiện nay trên thị trường chứng khoản Việt Nam có thể được coi là yếu tố quan trọng, đóng vai trò là chất xúc tác cho sự phát triển của thị trường. Việc phục hồi hoạt động giao dịch trên thị trường vào khoảng cuối năm 2003, cho thấy có sự đóng góp rất lớn của các quỹ đầu tư nước ngoài. Sự trỗi dậy và phát triển các quỹ đầu tư nước ngoài đã tạo chất xúc tác khởi động sự phát triển các quỹ đầu tư trong nước. Cách đây 2 năm, quỹ đầu tư chứng khoán VF1 đầu tiên được thành lập vào 20/5/2004 có tổng giá trị chứng chỉ của quỹ niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM là 300 tỷ đồng. Sau đó, Ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV hợp tác với các đối tác Mỹ Việt Nam Partner thành lập quỹ đầu tư có vốn là 300 tỷ đồng. Ra đời muộn hơn nhưng quỹ đầu tư Vietcombank1 (VBF1) thuộc Ngân hàng Ngoại Thương có số vốn tăng lên khá nhanh với 200 tỷ đồng, trong đó các nhà đầu tư Hong Kong, Singapore, Nhật đã góp hơn 33% số vốn; quỹ này đầu tư hơn 70% vốn vào các doanh nghiệp chưa niêm yết như Ngân hàng dầu khí Nguyễn Thông, Ngân Hàng Ngoại thương dự kiến cho ra đời thêm Vietcombank2 và Vietcombank3 với sự tham gia của các nhà đầu tư 49%
Tín hiệu tăng trưởng khả quan của nền kinh tế Viêt Nam trong những năm gần đây được cộng đồng tài chính quốc tế đánh giá cao. Những tên tuổi tài chính hàng đầu như Merill Lynch, Goldman Sachs, JP Morgan Chase đều dành mối quan tâm lớn hơn cho thị trường Việt Nam với nhiều hoạt động khảo sát. Liên tiếp các báo cáo nghiên cứu của các tổ chức này có chung đánh giá cổ vũ, dòng vốn đầu tư tiếp tục chảy vào Viêt Nam trong nhiều năm tới. Trên thực tế, kết quả các đợt huy động vốn cả trong và ngoài nước đều vượt kỳ vọng ban đầu.
Quỹ đầu tư ở Việt Nam
Quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Công ty quản lý quỹ Vina Capital:
Công ty quản lý quỹ Quỹ Dragon Capital: công ty quản lý quỹ có thâm niên đầu tư ở Việt Nam, xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1995. Công ty hiện đang quản lý 3 quỹ: Vietnam Enterprise Invesment Limited (VEIL), Vietnam Growth Fund (VGF), Vietnam Dragon Fund (VDF).
VEIL thành lập từ năm 1996 với số vốn 16 triệu USD đến nay đã lên 500 triệu USD, quỹ đầu tư vào các lĩnh vực tài chính ngân hàng, bất động sản, cơ sở hạ tầng…, cổ phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán Dublin, được giao dịch trên thị trường OTC của Luân Đôn, Newyork.
VGF: được thành lập năm 2005 với số vốn huy động lên đến 75 triệu USD, số vốn hiện tại lên đến 260 triệu USD, cũng được niêm yết trên thị trường chứng khoán Dublin.
VDF: Dragon Capital cùng với Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín thành lập quỹ đầu tư đầu tiên của Việt Nam, số vốn hiện tại lên đến 100 triệu USD
Công ty quản lý quỹ Mekong Capital: Mekong Capital là công ty quản lý đầu tư tập trung vào Private Equity tại Việt Nam các quỹ do Mekong capital quản lý:
Mekong Enterprise Fund, Ltd. là quỹ Private Equity với vốn cam kết là 18,5 triệu đô-la Mỹ, tập trung đầu tư vốn cổ phần vào các công ty tăng trưởng thuộc thế hệ đầu tiên các công ty tư nhân tại Việt Nam. Quỹ đã đầu tư vào 10 công ty trong giai đoạn từ 2003-2005.
Mekong Enterprise Fund II, Ltd. là quỹ Private Equity với vốn cam kết là 50 triệu đô-la Mỹ, tập trung đầu tư vốn cổ phần vào các công ty tăng trưởng thuộc thế hệ mới các công ty tư nhân tại Việt Nam. Các công ty này thường có mức tăng trưởng nhanh hơn so với các công ty thuộc thế hệ trước.
Vietnam Azalea Fund Limited là quỹ 100 triệu đô-la Mỹ tập trung thực hiện các khoản đầu tư thiểu số vào các phân khúc trước niêm yết và đã niêm yết của thị trường đầu tư private equity. Quỹ nhắm đến các công ty sẽ dẫn đầu Việt Nam trong tương lai, bao gồm các công ty tư nhân và công ty nhà nước cổ phần hóa.
Mekong Capital sẽ khai trương quỹ Mekong Enterprise Fund III, Ltd. trong năm 2010.
Công ty quản lý quỹ Quỹ Indochina Capital: chủ yếu đầu tư vào bất động sản, chứng khoán, quản lý 2 quỹ: Indochina Land Holding với số vốn 42 triệu USD, quỹ đầu tư chứng khoán với số vốn 50 triệu USD
Quỹ đầu tư Việt Nam (VIF)
Ngày 14/3, Quỹ Đầu tư Việt Nam (VIF), liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư -Phát triển Việt Nam (BIDV) và đối tác Mỹ Vietnam Partners LLC, chính thức khai trương tại Hà Nội với quy mô vốn 1.600 tỷ đồng - tương đương khoảng 100 triệu USD.
Vì là một quỹ đầu tư thành viên dạng đóng thành lập tại Việt Nam với quy mô tối đa được phép huy động là 1.600 tỷ VNĐ (100 triệu USD). Thời gian hoạt động của quỹ này là 10 năm
Quỹ cũng sẽ đầu tư vào các dự án công nghiệp khai khoáng (titan, bôxit nhôm...), bưu chính - viễn thông, và những dự án cơ sở hạ tầng có triển vọng trong tương lai.
Do đó mục tiêu đầu tư của Quỹ Đầu tư Việt Nam được xác định là tạo ra sự tăng trưởng giá trị dài hạn của vốn đầu tư bằng cách đầu tư nắm cổ phần tại Việt Nam.
Quỹ Đầu tư Việt Nam sẽ do Công ty Liên doanh Quản lý Đầu tư BIDV - Vietnam Partners (BVIM) quản lý. Quỹ sẽ đầu tư vào cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá, cổ phần phát hành lần đầu của các công ty, các loại chứng khoán niêm yết có triển vọng tăng trưởng và có tính thanh khoản tốt, trên cơ sở tối ưu hoá lợi nhuận, quản lý chặt chẽ rủi ro. Quỹ cũng sẽ đầu tư vào một số dự án chọn lọc có tiềm năng sinh lời cao để nắm quyền sáng lập và sở hữu các công ty mới thành lập, công ty phát hành cổ phiếu lần đầu khi thành lập công ty.
Quỹ đầu tư cân bằng Prudential
Quỹ đầu tư cân bằng Prudential được thành lập tháng 10/2006 với vốn điều lệ ban đầu 500 tỷ đồng và chính thức niêm yết chứng chỉ quỹ ngày 4/12/2006 . Sau hơn 3 năm giao dịch, đến nay, PRUBF1 là một trong 4 chứng chỉ quỹ đầu tư lớn trên HoSE.
Ban đầu, quỹ đầu tư đầu tư chủ yếu vào trái phiếu, sau đó có sự chuyển dịch trong danh mục đầu tư, đã chuyển sang đầu tư vào cổ phiếu. Cụ thể:
Đến cuối tháng 1/2009, PRUBF1 đầu tư 77% vào trái phiếu và 14% vào cổ phiếu, giữ 9% giá trị danh mục bằng tiền mặt và tiền gửi ngắn hạn. Tính đến 31/12/2009, tỷ lệ đầu tư là 60% vào trái phiếu, 39% vào cổ phiếu, còn 1% là tiền gửi. Kết thúc năm 2009, mã VNM vẫn đứng đầu nhóm cổ phiếu đầu tư của PRUBF1, chiếm tỷ lệ 5,5% giá trị tài sản ròng, mã FPT chiếm 5%, GMD chiếm 3,6%, NTP chiếm 3,3%...
Saigon Fund A1
:
Saigon Fund A1 là quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên của công ty cổ phần quản lý quỹ Thành Việt với quy mô khoảng 33,35 tỷ đồng, giá phát hành 10.200 đồng/chứng chỉ quỹ (gồm giá một đơn vị quỹ: 10.000đồng và phí phát hành: 200đồng/chứng chỉ quỹ), trong đó khoảng 49% do các nhà đầu tư nước ngoài đóng góp”.
50-60% vốn của Saigon Fund A1 sẽ được đầu tư vào các công ty đang niêm yết trên thị trường chứng khoán, phần 40-50% còn lại sẽ đầu tư vào các cổ phiếu chuẩn bị niêm yết. Toàn bộ danh mục đầu tư sẽ được thay đổi trong vòng 6 tháng đến 01 năm. Thời gian hoạt động của quỹ là 5 năm và được gia hạn khi cần thiết. Việc sử dụng vốn của Quỹ Sài Gòn A1 sẽ được đặt dưới sự giám sát của BIDV.
Danh mục đầu tư: xây dựng một danh mục đầu tư cân đối tập trung vào các công cụ nợ và cổ phiếu của các công ty có khả năng tăng trưởng cao
Chiến lược đầu tư
SFA1 theo đuổi chiến lược đầu tư đa dạng trên mọi lĩnh vực, đầu tư chú trọng vào các ngành như tài chính ngân hàng, dịch vụ, công nghệ thông tin, sản xuất công nghiệp và hàng tiêu dùng.
Tất cà các quyết định đầu tư đều đứng trên góc độ đầu tư dài hạn, tập trung vào những ngành có khả năng cạnh tranh, các công ty có tiềm năng, cơ hội phát triển và tốc độ tăng trưởng cao. Mục tiêu của SFA1 nhằm giảm thiểu rủi ro và đạt được tỷ suất lợi nhuận cao trong dài hạn
Saigon Fund A2
:
Do công ty cổ phần quản lý quỹ Thành Việt quản lý.
Quỹ Đầu Tư Chứng Khoán Sài Gòn A2 (SFA2) là quỹ đầu tư thành viên dạng đóng có thời hạn hoạt động là 5 năm, được thành lập và cấp phép hoạt động từ tháng 03 năm 2007, quy mô vốn ban đầu là 500.000.000.000 đồng (Năm trăm tỷ) với mục tiêu xây dựng một danh mục đầu tư tăng trưởng trên cả ba khía cạnh: lợi nhuận, giá trị tài sản và vốn. SFA2 định hướng đầu tư vào cổ phiếu của các công ty có tiềm năng tăng trưởng mạnh trong tương lai, có chiến lược phát triển rõ ràng và bộ máy quản trị tốt.
Chiến lược đầu tư
SFA2 với tiêu chí đầu tư năng động trên cơ sở xây dựng danh mục hợp lý phù hợp với biến động của thị trường, tận dụng tốt những cơ hội nhằm đạt được những khoản lợi nhuận ngắn hạn nhưng vẫn đảm bảo được những mục tiêu chiến lược dài hạn của quỹ.
Chú trọng tham gia đầu tư vào cổ phiếu của các công ty với tư cách là nhà đầu tư chiến lược, hổ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm làm gia tăng giá trị của các công ty này góp phần làm gia tăng giá trị các khoản đầu tư của SFA2.
2.2 Một số văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quỹ đầu tư ở Việt Nam:
Theo Quyết định số 45/2007/QĐ-BTC về việc ban hành Quy chế thành lập và quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán, một số điểm cần lưu ý như sau:
Khoản 3 - Điều 3. Các quy định chung về chào bán chứng chỉ (quỹ đại chúng) về Điều kiện phát hành chứng chỉ quỹ lần đầu ra công chúng:
Giá trị chứng chỉ quỹ đăng ký chào bán ít nhất 50 (năm mươi) tỷ đồng Việt Nam;
Có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào bán chứng chỉ quỹ;
Có quy trình nghiệp vụ quản lý quỹ, quy trình kiểm soát nội bộ, quy trình quản lý rủi ro phù hợp.
Khoản 4 - Điều 3. Các quy định chung về chào bán chứng chỉ (quỹ đại chúng) về
Điều kiện phát hành chứng chỉ quỹ cho các lần tiếp theo:
Điều lệ Quỹ có quy định về việc tăng vốn của Quỹ;
Lợi nhuận của Quỹ trong năm liền trước năm đề nghị tăng vốn phải là số dương;
Công ty quản lý quỹ không bị xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán trong thời hạn hai (02) năm, tính đến thời điểm tăng vốn;
Phương án phát hành thêm chứng chỉ quỹ và phương án đầu tư số vốn thu được phải được Đại hội nhà đầu tư thông qua.
Khoản 2 - Điều 15. Danh mục đầu tư của quỹ đóng, quỹ đóng được phép đầu tư vào các loại tài sản tài chính sau
Cổ phiếu của công ty đại chúng.
Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu công ty;
Công cụ thị trường tiền tệ bao gồm chứng chỉ tiền gửi tại tổ chức tín dụng; tín phiếu kho bạc và thương phiếu với thời gian đáo hạn tính từ ngày phát hành không quá một (01) năm;
Các loại tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật và được Đại hội Nhà đầu tư chấp thuận bằng văn bản.
Khoản 3 - Điều 15 Vốn và tài sản của Quỹ đóng khi đầu tư phải tuân thủ các quy định sau:
Không đầu tư vào chứng chỉ quỹ của chính Quỹ đó hoặc vào chứng chỉ, vốn góp của Quỹ đầu tư chứng khoán khác;
Đầu tư vào chứng khoán của một tổ chức phát hành tối đa không vượt quá mười lăm phần trăm (15%) tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của tổ chức đó, ngoại trừ trái phiếu Chính phủ;
Tối đa không đầu tư vượt quá hai mươi phần trăm (20%) tổng giá trị tài sản của Quỹ vào chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành, ngoại trừ trái phiếu Chính phủ;
Tối đa không đầu tư vượt quá ba mươi phần trăm (30%) tổng giá trị tài sản của Quỹ vào các công ty trong cùng một nhóm công ty có quan hệ sở hữu với nhau;
Tối đa không đầu tư vượt quá mười phần trăm (10%) tổng giá trị tài sản của Quỹ vào bất động sản;
Không được sử dụng vốn và tài sản của Quỹ để cho vay hoặc bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào;
Trong trường hợp được Đại hội nhà đầu tư chấp thuận bằng văn bản, Quỹ đại chúng dạng đóng được đầu tư không quá mười phần trăm (10%) tổng giá trị tài sản của Quỹ vào cổ phiếu các tổ chức phát hành riêng lẻ, hoặc các tài sản tài chính khác theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều này.
Điều 17. Nguyên tắc xác định giá trị tài sản ròng
1. Việc xác định giá trị các tài sản của Quỹ thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Đối với chứng khoán niêm yết, giá của các chứng khoán niêm yết được xác định là giá đóng cửa hoặc giá trung bình của ngày giao dịch gần nhất trước ngày định giá. Công ty quản lý quỹ chỉ được áp dụng thống nhất một trong hai loại giá nói trên làm cơ sở định giá tài sản Quỹ. Loại giá áp dụng phải được quy định rõ trong Bản Cáo bạch và Điều lệ Quỹ;
Đối với chứng khoán chưa niêm yết và giao dịch tại các công ty chứng khoán, giá của chứng khoán đó được xác định là giá trung bình trên cơ sở giá giao dịch cung cấp bởi ba (03) công ty chứng khoán không phải là người có liên quan của Công ty quản lý quỹ và Ngân hàng giám sát;
Đối với cổ phiếu niêm yết không có giao dịch trong thời gian ít hơn hai (02) tuần tính đến ngày định giá, giá của chứng khoán đó được xác định là giá trung bình trên cơ sở giá chào mua cung cấp bởi ba (03) công ty chứng khoán không phải là người có liên quan của Công ty quản lý quỹ và Ngân hàng giám sát;
Đối với cổ phiếu niêm yết không có giao dịch trong thời gian nhiều hơn hai (02) tuần tính đến ngày định giá, giá trị của chứng khoán đó được xác định như sau:
Bằng 80% giá trị thanh lý của một cổ phiếu tại ngày lập bảng cân đối kế toán gần nhất trong trường hợp tổ chức phát hành đang trong quá trình chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản;
Bằng giá mua trong các trường hợp khác; hoặc
Được xác định theo nguyên tắc định giá khác đã được Ngân hàng giám sát đồng ý và Đại hội nhà đầu tư chấp thuận.
Đối với các loại tài sản khác như tín phiếu kho bạc, hối phiếu ngân hàng, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, trái phiếu có thời gian đáo hạn dưới một (01) năm kể từ ngày định giá, giá các chứng khoán đó được xác định bằng giá mua cộng với lãi luỹ kế tính đến thời điểm định giá. Trường hợp tài sản là trái phiếu chiết khấu, giá trị tài sản được xác định theo phương pháp định giá theo dòng tiền hoặc theo phương pháp nội suy tuyến tính trên cơ sở giá mua và mệnh giá của trái phiếu;
Đối với trái phiếu có thời gian đáo hạn trên một (01) năm kể từ ngày định giá, trái phiếu chuyển đổi, giá của các chứng khoán đó được xác định bằng giá thị trường theo quy định tại điểm a, b Khoản này. Trường hợp các chứng khoán đó được giao dịch thỏa thuận và không có giá thị trường, giá các chứng khoán này được xác định theo các mô hình lý thuyết định giá trái phiếu phù hợp;
Đối với chứng khoán phái sinh, giá các chứng khoán này được xác định bằng giá thị trường theo quy định tại điểm a, b Khoản này. Trường hợp các chứng khoán đó được giao dịch thỏa thuận và không có giá thị trường, giá các chứng khoán này được xác định theo các mô hình lý thuyết định giá chứng khoán phái sinh phù hợp;
Đối với các loại tài sản khác của Quỹ như cổ tức, lãi nhận được, tiền mặt, tiền gửi ngắn hạn có kỳ hạn không quá một (01) năm ngày kể từ ngày định giá, giá trị của các tài sản này được tính theo giá trị thực tế tại thời điểm xác định;
Trường hợp tài sản của Quỹ là bất động sản, giá trị tài sản này phải được định giá bởi một tổ chức định giá độc lập được sự đồng ý của Ngân hàng giám sát và được Đại hội nhà đầu tư chấp thuận. Tổ chức định giá này không phải là người có liên quan của Công ty quản lý quỹ và Ngân hàng giám sát. Tài sản này phải được thẩm định và định giá định kỳ sáu (06) tháng một lần. Trường hợp xảy ra những sự kiện có thể ảnh hưởng đến giá trị của tài sản, Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng giám sát phải thông báo với tổ chức định giá;
Giá của các loại tài sản khác được xác định theo nguyên tắc định giá khoa học và khách quan khác đã được Ngân hàng giám sát phê duyệt và Đại hội nhà đầu tư chấp thuận.
2. Tổng nợ phải trả của Quỹ là các khoản nợ hoặc các nghĩa vụ thanh toán của Quỹ tính đến thời điểm xác định giá trị. Phương thức xác định giá trị các khoản nợ và nghĩa vụ thanh toán phải được Ngân hàng giám sát xác nhận là phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan.
3. Giá trị đơn vị quỹ bằng giá trị tài sản ròng của Quỹ chia cho tổng số đơn vị quỹ đang lưu hành.
Theo quyết định số 35/2007/QĐ-BTCvề ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ
“Công ty quản lý quỹ là tổ chức có tư cách pháp nhân, hoạt động cung cấp dịch vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Ngoại trừ Công ty quản lý quỹ được cấp phép, các tổ chức kinh tế khác không được cung cấp dịch vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư”
Điều 10. Điều kiện hành nghề quản lý quỹ và các chức danh quản lý tại Công ty quản lý quỹ
Người hành nghề quản lý quỹ phải đáp ứng những quy định sau:
Có năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật đầy đủ;
Có ít nhất ba (03) năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng;
Có Chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp.
Điều 18. Các quy định về trách nhiệm và nghĩa vụ của Công ty quản lý quỹ
Công ty quản lý quỹ được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán sau đây:
Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán;
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
Điều 19. Hạn chế đối với hoạt động của Công ty quản lý quỹ và nhân viên làm việc tại Công ty quản lý quỹ
Công ty quản lý quỹ không được huy động và quản lý quỹ thành viên có từ ba mươi mốt (31) thành viên góp vốn trở lên.
Công ty quản lý quỹ không được là người có liên quan, có quan hệ sở hữu đối với Ngân hàng giám sát, Ngân hàng lưu ký của Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng mà Công ty đang quản lý. Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch, Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, người hành nghề quản lý quỹ của Công ty quản lý quỹ không được đồng thời làm việc cho Ngân hàng giám sát, Ngân hàng lưu ký của Quỹ, của Công ty đầu tư chứng khoán mà Công ty đang quản lý và ngược lại.
Người có liên quan của Công ty quản lý quỹ, người hành nghề quản lý quỹ, người làm việc tại Công ty quản lý quỹ chỉ được mua, bán các chứng chỉ quỹ đại chúng, cổ phiếu Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng mà Công ty đang quản lý thông qua hệ thống giao dịch theo phương thức khớp lệnh tập trung tại Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và khi Điều lệ Quỹ, Điều lệ Công ty đầu tư chứng khoán cho phép.
4. Công ty quản lý quỹ không được:
Sử dụng tài sản của Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán do mình quản lý để đầu tư vào chính Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán đó;
Sử dụng tài sản của Quỹ, Công ty đầu tư chứng khoán do mình quản lý để đầu tư vào các Quỹ đại chúng, Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng khác do mình quản lý;
Sử dụng tài sản của Quỹ đại chúng, Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng để đầu tư vào các Quỹ đầu tư, Công ty đầu tư chứng khoán khác do mình quản lý;
Sử dụng tài sản của Công ty, tài sản ủy thác theo danh mục đầu tư do mình quản lý để đầu tư vào các Quỹ đại chúng, Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng thành lập theo pháp luật Việt Nam do mình quản lý.
5. Công ty quản lý quỹ không được sử dụng tài sản của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng để góp vốn liên doanh, liên kết hoặc đầu tư vào chính Công ty quản lý quỹ, đầu tư vào tổ chức kinh tế là người có liên quan của Công ty quản lý quỹ, tổ chức kinh tế là người có liên quan của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch, Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc Công ty quản lý quỹ, người hành nghề quản lý quỹ. Công ty quản lý quỹ có thể sử dụng vốn của Quỹ thành viên, tài sản của nhà đầu tư ủy thác để thực hiện các hoạt động đầu tư này trong trường hợp Điều lệ Quỹ, Hợp đồng quản lý đầu tư, Biên bản thỏa thuận góp vốn có quy định cho phép Công ty quản lý quỹ thực hiện việc đầu tư này với mức phí quản lý phù hợp được nhà đầu tư chấp thuận.
Công ty quản lý quỹ không được sử dụng tài sản của quỹ, của công ty đầu tư chứng khoán tài sản ủy thác để cho vay, bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào của công ty, hoặc để thanh toán các nghĩa vụ nợ cho bản thân công ty, thanh toán các nghĩa vụ nợ của người có liên quan đến công ty hoặc thanh toán các nghĩa vụ nợ của bất kỳ đối tác nào.
Điều 24. An toàn tài chính đối với Công ty q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư ở Việt Nam Thực trạng và giải pháp.doc