Ở Việt Nam nguồn vốn ODA đã có từ rất lâu, song nguồn vốn này có một thời gian bị gián đoạn đó là từ khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, cho đến cuối năm 1993 với việc bình thường hoá quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế IMF, nối lại quan hệ với ngân hàng thế giới WB và ngân hàng phát triển châu Á ADB. Các nguồn vốn ODA chuyển vào Việt Nam có triển vọng tăng nhanh.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình huy động và sử dụng vốn nước ngoài từ 1988 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong những năm qua.
3. Xu hướng vận động của FDI
Bất chấp những dấu hiệu thiểu phát của nền kinh tế thế giới trong một vài năm trở lại đây và có thể sẽ còn tiếp diễn trong thời gian tới, luồng vốn FDI vẫn không ngừng tăng lên và đang trở thành một nhân tố kích thích quá trình toàn cầu hoá và tự do hoá kinh tế.
Các nền kinh tế mới nổi và đang chuyển đổi sẽ tiếp tục gia tăng được lượng đầu tư tiếp nhận, Mỹ Latinh và châu Phi sẽ là nơi được dự báo sẽ tiến bộ hơn cả (Mỹ Latinh: 83 tỷ USD năm 2000 so với 38 tỷ USD năm 1999).
Luồng vốn đầu tư vào châu á đang trên đà phục hồi, có lẽ trong khoảng 2-3 năm nữa sẽ đạt mức của năm 1997. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu á tuy đã tạm thời cản trở luồng đầu tư vào khu vực và liên khu vực, tuy nhiên tự do hoá đầu tư đã trở thành một xu thế lớn trong khu vực và trên thế giới mà cuộc khủng hoảng này không thể đảo ngược, trái lại còn là một nhân tố thúc đẩy nó.
Xét về mặt lâu dài, luồng FDI vào châu á nói chung và vào Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng của hai yếu tố: sự cạnh tranh của khu vực với bên ngoài và sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực. Các nền kinh tế lớn của thế giới là Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu vẫn sẽ là những nơi chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư. Phần còn lại sẽ được phân định bằng sự cạnh tranh của các nước đang phát triển mà gay gắt nhất là khu vực Đông Nam á, Trung Quốc, ấn Độ, Mỹ - Latinh. Nhiều tổ chức tài chính dự báo rằng tốc độ phát triển của Đông á và ASEAN sẽ dương và đạt cao vào các năm của tận thế kỷ XXI, tiếp tục duy trì được sự năng động vốn có của mình, như vậy: châu á - TBD vẫn là một mối quan tâm của các nhà đầu tư.
III. Tác động của VNN
1. Những tác động tích cực
Gia tăng tiềm lực tài chính góp phần tạo đà tăng trưởng mạnh trong thời gian tới. Hiện nay tuy VNN vào Việt Nam chưa nhiều, đóng góp vào GDP còn khiêm tốn, nhưng với tốc độ gia tăng nhanh cho phép dự đoán trong những năm tới VNN sẽ tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng của Việt Nam.
VNN cũng đang có sự tác động thúc đẩy chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế theo hướng tiến tới một cơ cấu công nghiệp và dịch vụ cao cấp, hiện đại, góp phần tạo nên một môi trường đầu tư ngày càng tốt hơn để tiếp tục thu hút VNN mạnh mẽ hơn trong thời gian tới.
Nhiều dự án có VNN đặt ở các vùng ngoại thành cũng đang là hạt nhân tạo nên những khu đô thị mới, thúc đẩy giảm mật độ dân số nội thành. Sự chuyển dịch dân số ra ngoại thành tuy chúng ta đã có chủ trương từ lâu nhưng vẫn chưa thực hiện được, nay sẽ được thực hiện dưới tác động này.
VNN đã gia tăng mức nhân dụng cho nên kinh tế cả về chất lượng lẫn số lượng, tạo nguồn thu ngoại tệ và tăng thu cho ngân sách nhà nước, góp phần duy trì và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo nên sự ổn định về công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động trên phạm vi cả nước.
Sự hiện diện của VNN còn được xem như chất kích thích cho môi trường kinh doanh trong nước vốn đã năng động lại càng năng động hơn. Tuy rằng trình độ kỹ thuật công nghệ của các doanh nghiệp có VNN chưa thật hiện đại như mong đợi, nhưng nó đã đặt cho các doanh nghiệp trong nước đứng trước những thách thức mới, buộc mọi thành phần kinh tế phải xét lại phương thức kinh doanh, phải nâng cao năng lực cạnh tranh, phải nhanh chóng đổi mới máy móc thiết bị, phải nâng cao trình độ kiến thức quản trị doanh nghiệp, phải nghĩ đến chiến lược dài hạn...
Chuyển giao công nghệ - kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn, bí quyết và trình độ quản lý tiên tiến cũng như năng lực thị trường mà chúng ta có thể tiếp nhận được của các nước đi trước nhờ đi theo luồng VNN đổ vào.
2. Những tác động tiêu cực:
VNN với ưu thế về tiềm lực tài chính, kỹ thuật công nghệ hiện đại, quản trị tiên tiến đang dần dần chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm cả thị trường nội địa và thị trường xuất nhập khẩu. Những nguồn lực của chúng ta như chất xám, tay nghề kỹ thuật, vị trí đất đai... đang bị các doanh nghiệp có VNN thu hút.
Dòng chảy của vốn tư bản vận động theo quy luật từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp đến nơi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Vì vậy khi nước tiếp nhận VNN không đáp ứng được điều này thì dòng VNN bất ngờ có thể rút ra khỏi nơi không có triển vọng mong đợi. Đặc biệt là nguồn đầu tư gián tiếp và ngắn hạn, nó có tính linh hoạt cao, có thể vào nhanh và tháo chạy cũng rất nhanh, tạo cú "sốc" cho nền kinh tế nước sở tại. Thực tế trong năm 1998, chỉ trong vòng 3-4 tháng, các nhà tư bản đã rút ra khỏi Đông Nam á trên 250 tỷ USD.
Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều và chủ yếu là vốn ngắn hạn và sử dụng nó không hiệu quả dẫn tới việc nợ nước ngoài chồng chất, thậm chí mặt khả năng thanh toán, đồng thời để đáp ứng các yêu cầu để nhận viện trợ, có thể dẫn tới lệ thuộc bên ngoài không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, làm suy giảm tính độc lập dân tộc.
Do vốn đầu tư nước ngoài chiếm một phần quan trọng trong khu vực doanh nghiệp và việc chuyển thu nhập và lợi nhuận ra nước ngoài ngày càng tăng của các nhà đầu tư nước ngoài là yếu tố chính tạo nên mất cân đối nghiêm trọng thâm hụt tài khoản vãng lai, khi tư bản nước ngoài chẳng những không đổ vào để bù đắp thiếu hụt mà còn rút ra ồ ạt như vừa qua thì các đồng nội tệ buộc phải phá giá và hậu quả của nó là các ngân hàng thương mại và các công ty ở nước này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Việc chuyển giao công nghệ là việc tích cực mà VNN mang lại nhưng hiện các công nghệ được chuyển giao lạc hậu so với hiện thời lại đang phổ biến ở nước ta. Khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài thường góp vốn bằng các thiết bị và vật tư, lợi dụng sự yếu kém về trình độ của bên đối tác Việt Nam, các nhà đầu tư đã chuyển vào Việt Nam những thiết bị cũ đã hết thời hạn thanh lý, họ chuyển vào Việt Nam và tiếp tục khai thác những tài sản cố định này.
Trong quá trình thu hút và sử dụng VNN đã kéo theo các tệ nạn, các vấn đề xã hội như là tham nhũng, buôn lậu, làm gia tăng sự phân hoá giàu nghèo... làm chúng ta mất nhiều cán bộ có kinh nghiệm, đồng thời gây nên những mầm mống mâu thuẫn nội bộ, tự phá vỡ trật tự kỷ cương và tự làm suy yếu hiệu lực quản lý nhà nước.
3. Một số giải pháp để phát huy tích cực, hạn chế tiêu cực của VNN.
Thứ nhất, cần phải có một chiến lược tài chính quốc gia làm chính, trong đó xác định rõ mục đích của chính sách huy động và sử dụng VNN vào việc đẩy mạnh tiến trình CNH - HĐH đất nước theo hướng:
- Huy động đủ vốn với các điều kiện vay, trả thuận lợi.
- VNN được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ cho nước ngoài.
- VNN không có tác động xấu đến sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và tính độc lập dân tộc.
Thứ hai, cần xác định đúng giới hạn lợi dụng VNN.
Sử dụng VNN nhất định phải nghĩ đến khả năng tiếp nhận của nước sử dụng vốn. Do đó, phải thường xuyên xem xét giới hạn mắc nợ, nắm chắc số lượng, điều kiện mắc nợ để điều chỉnh về mặt vĩ mô. Trong đó cần chú ý giới hạn số lượng sau:
- Chỉ tiêu tỷ suất mắc nợ: Tức là tỷ lệ giữa tổng số nợ và lãi của một nước phải trả cho nước ngoài với tổng giá trị sản lượng quốc dân nước đó cùng năm. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ cho thấy mức độ dựa vào VNN nhỏ, ngược lại tỷ lệ đó lớn chứng tỏ khả năng tự lực cánh sinh nước đó kém.
- Chỉ tiêu tỷ suất vay nợ: Là tỷ lệ giữa số dư mắc nợ còn lại sau khi trả nợ và lãi trong năm so với thu nhập ngoại tệ từ xuất nhập khẩu của nước ấy cùng năm. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng vay nợ từ nay về sau lớn hay nhỏ, do đó thu hút VNN không thể không xem xét chỉ tiêu này.
- Tỷ lệ giữa số lượng dự trữ ngoại tệ với hạn ngạch nhập khẩu mỗi năm, lượng dự trữ ngoại tệ mỗi nước để ứng phó những nhu cầu khẩn cấp của Nhà nước. Khả năng vay nợ nhiều hay ít có liên quan chặt chẽ với lượng dự trữ ngoại tệ lớn hay nhỏ.
Thứ ba, chỉ khi nào có một hệ thống tài chính - ngân hàng và cơ chế kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán có hiệu quả thì mới thành lập và mở rộng thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, những hoạt động và chuẩn bị cho thị trường chứng khoán vẫn tiến hành bình thường và tích cực để tránh ảnh hưởng xấu đối với các nhà đầu tư nước ngoài và thị trường chứng khoán cũng đã được ra đời ở nước ta.
Thứ tư, huy động tối đa các nguồn vốn trong nước để phát triển kinh tế, trong đó cần có chính sách bảo hiểm rủi ro tiền gửi và các chính sách khuyến khích để huy động tối đa nguồn tiết kiệm trong nước cho đầu tư phát triển. Sự thiếu hụt vốn đầu tư trong nước cần được bổ sung chủ yếu bằng nguồn FDI, nên hạn chế vay ngắn hạn, kể cả nguồn ODA cũng cần được cân nhắc và sử dụng một cách thận trọng.
Chương II
Kinh nghiệm của các nước trong việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài
Trong quá trình huy động và sử dụng vốn nước ngoài, đã có nhiều nước thành công như Singapore, Đài Loan chẳng hạn. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những nước kém thành công hơn, thậm chí là rất không thành công, chẳng hạn như Argentina, Brazil là một ví dụ điển hình: sau một thời kỳ tăng trưởng rực rỡ đã bị rơi vào tình trạng bất ổn định và suy thoái nghiêm trọng, thậm chí còn tụt xuống thấp hơn mức xuất phát như Nigeria.
Qua tình hình thực tế mà các nước đã trải qua trong việc huy động và sử dụng VNN đã chỉ mang lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm sau:
1. Trong chiến lược phát triển
Về dài hạn, phải theo đuổi chiến lược tăng trưởng duy nhất đúng trong các điều kiện hiện đại là nỗ lực gia tăng xuất khẩu các sản phẩm chế tạo như mục tiêu ưu tiên hàng đầu chứ không phải bất cứ nỗ lực xuất khẩu nào. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn cụ thể chiến lược này cần được cụ thể hoá một cách thích hợp.
Để thu hút được nhiều VNN, cần duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân cao hơn tốc độ tăng trưởng VNN trong một thời gian dài. Nếu không như vậy có nghĩa là nợ và lãi sẽ tích đọng ngày càng lớn, đến một mức nào đó khối lượng nợ tích đọng này sẽ làm cho đất nước lâm vào cảnh không thể trả nợ được cũng như kinh tế không thể tăng trưởng. Việc thoát ra khỏi tình trạng này bằng cách đơn phương từ chối trả nợ, như Pêru đã làm, chỉ gây căng thẳng thêm cho quá trình phát triển. Khi đó, đất nước không thể xuất khẩu, do vậy cũng không thể nhập khẩu, đơn giản là nó bị loại khỏi các quan hệ kinh tế quốc tế, tức là bị loại ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng.
2. Về vấn đề kinh tế vĩ mô:
2.1. Vấn đề chống lạm phát:
Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó mục tiêu hàng đầu là chống lạm phát, là điều kiện thiết yếu để giải quyết vấn đề VNN. Trong chiến lược dài hạn, sự ổn định này lại giả định một định hướng tăng trưởng hợp lý và khả năng điều tiết vĩ mô có hiệu quả của chính phủ, với khâu trung tâm là điều hành chính sách tiền tệ. Việc điều hành chính sách tiền tệ, đến lượt nó, có quan hệ phụ thuộc trực tiếp và chủ yếu vào hoạt động của bộ máy ngân hàng trung ương.
2.2. Vấn đề tỷ giá hối đoái
Sự bất ổn định của tỷ giá, hay là xu hướng mất giá liên tục của đồng bản tệ do tình trạng lạm phát không kiểm soát được gây ra sẽ góp phần làm gia tăng bất ổn định trong nền kinh tế, phá hoại các cơ sở của sự tăng trưởng. Bằng cách đó, nó ảnh hưởng tới không chỉ khả năng trả nợ của đất nước mà còn cả con đường đi tới nguồn VNN. Việc duy trì sự ổn định tỷ giá là yếu tố đảm bảo cho sự ổn định và tăng trưởng vững chắc. Nó không làm tổn hại đến sự tăng trưởng xuất khẩu khi đi liền với nó là các biện pháp tăng trưởng hướng vào xuất khẩu đồng bộ khác, bằng cách đó, nó góp phần vào việc tạo ra triển vọng sáng sủa cho vấn đề huy động VNN.
2.3. Vấn đề thâm hụt ngân sách
Về dài hạn, bảo đảm hoàn trả lại thâm hụt ngân sách nhờ mức tăng trưởng cao. Tăng trưởng cao làm tăng nhu cầu về các tài sản tài chính. Nhờ đó, chính phủ có thể hấp thụ mức tài trợ bằng tiền mà không gây lạm phát. Tăng trưởng cao còn tạo cho chính phủ khả năng trả nợ lớn hơn nhiều so với các nền kinh tế tăng trưởng thấp hoặc đang trong tình trạng trì trệ và suy thoái.
Có sự hoàn trả từ tiết kiệm tài chính trong nước do vốn nội địa không chảy ra nước ngoài như các nước Mỹ Latinh. Nhờ đó, khả năng tài trợ cho thâm hụt ngân sách cũng khá hơn.
Tỷ lệ nợ/GDP ban đầu thấp, do đó, phần ngân sách mà chính phủ phải dành để trả nợ cũng thấp. Hơn thế, với mức độ nợ thấp, có thể vay mượn thêm của nước ngoài để tài trợ thâm hụt mà không gây quá tải về nợ.
3. Về hình thức huy động vốn
Vấn đề viện trợ hay vay bất kỳ một khoản tiền lớn hay nhỏ nào cũng cần phải được xem xét trong điều kiện tài chính tổng thể, nếu không thì việc nhận được khoản tiền đó có thể tạo ra gánh nặng nợ lâu dài cho nền kinh tế.
4. Vấn đề quản lý nợ nước ngoài
Hàn Quốc và Thái Lan là hai quốc gia có phương thức quản lý nợ nước ngoài thuộc loại có hiệu quả nhất trên thế giới, ta có thể dựa vào họ để mà áp dụng đối với nước ta.
Đối với Hàn Quốc: Trong thời gian đầu, khi nguồn vốn đối ứng (vốn nội địa) còn ít, là một nước có ý thức dân tộc cao, Hàn Quốc hết sức tránh vốn FDI là loại dễ gây đến chỗ nền kinh tế dân tộc phụ thuộc vào tư bản nước ngoài. Trong trường hợp chấp nhận FDI, Hàn Quốc cố gắng hạn chế tỷ lệ góp giành quyền khống chế của các công ty nước ngoài. Bên cạnh đó, chính phủ lại hướng FDI vào các khu chế xuất, là nơi dễ thiết lập sự kiểm soát.
Bước vào thập niên 1980, khi vốn nội địa đã tích luỹ đủ lớn, để thu hút kỹ thuật và công nghệ mũi nhọn cũng như tránh làm tăng thêm số nợ vốn đã quá lớn, Hàn Quốc cho phép tự do hoá đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Bằng cách làm đó, cạnh tranh quốc tế, có thặng dư thương mại để trả nợ nước ngoài trong khoảng thời gian ngắn.
Với Thái Lan, cho đến gần đây, với chủ trương thúc đẩy trước hết vào nông nghiệp và một số ngành có hàm lượng lao động cao, việc khống chế nước VNN ở một tỷ lệ vừa phải đối với khả năng tăng trưởng GDP và xuất khẩu, tức là phù hợp với năng lực trả nợ của đất nước đã có tác động là nền kinh tế không tiêu phí nguồn tăng trưởng cho việc trả nợ và lãi nợ tích luỹ, không phụ thuộc vào nước ngoài trong việc phát triển.
5. Vấn đề vốn đối ứng trong nước
Thông thường để có thể sử dụng có hiệu quả VNN thì ta cần phải có một tỷ lệ vốn trong nước thích hợp như vật đối ứng. Tỷ lệ này được xác định tuỳ theo từng ngành, từng giai đoạn, cụ thể: trong giai đoạn đầu, do nhu cầu vốn nghiêng về đầu tư cho cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp nên tỷ lệ này thường là thấp (1 đồng VNN cần 1-1,5 đồng vốn trong nước). ở giai đoạn sau, khi các chương trình đầu tư nghiêng về các ngành công nghiệp chế biến, có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này tăng lên (1/15, - 2,5).
Chương III
Tình hình huy động và sử dụng VNN từ 1988 đến nay
I. Đối với vốn ODA
ở Việt Nam nguồn vốn ODA đã có từ rất lâu, song nguồn vốn này có một thời gian bị gián đoạn đó là từ khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, cho đến cuối năm 1993 với việc bình thường hoá quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế IMF, nối lại quan hệ với ngân hàng thế giới WB và ngân hàng phát triển châu á ADB. Các nguồn vốn ODA chuyển vào Việt Nam có triển vọng tăng nhanh.
Tính từ năm 1993 tới hết tháng 12/1998, tổng số vốn ODA cam kết khoảng 13350 triệu USD, trong đó vốn thực hiện là 5278 triệu USD, số liệu cam kết và thực hiện cụ thể trong từng năm như sau:
Đơn vị: triệu USD
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Vốn cam kết
1860
1970
2310
2430
2400
2380
Vốn thực hiện
413
725
737
958
1015
1430
Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư
Riêng trong năm 1998, vốn ODA thực hiện khoảng 1,43 tỷ USD, tăng 12% so với năm 1997. Mặc dù bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, trong đó đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính đã nổ ra bắt đầu ở Thái Lan, nhưng mức thực hiện vốn ODA vẫn giữ được xu thế tiến bộ. Đây là cơ hội "ngàn vàng" tạo điều kiện để chúng ta khắc phục được những khó khăn tạm thời (trước mắt) mà cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đem lại.
Nguồn vốn ODA trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước thì được sử dụng chủ yếu vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, trong đó các lĩnh vực như năng lượng (chủ yếu là đập thuỷ điện và nhà máy nhiệt điện); giao thông (chủ yếu là đường bộ và cầu); hải cảng; phi cảng; viễn thông; cấp thoát nước đô thị, thuỷ lợi... là lĩnh vực có truyền thống được ưu tiên vay ODA.
Các dự án năng lượng điện: tuy vốn đầu tư của các hình thức khác cũng rất quan trọng, nhưng vốn ODA vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn về các công trình nhà máy điện như nhiệt điện Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, thuỷ điện YALY, Hàm Thuận - Đa Mi (650 triệu USD, 85% vốn ODA Nhật Bản)...
Các dự án giao thông: Ngành giao thông đã xác định nhu cầu cơ sở hạ tầng công cộng thuộc lĩnh vực giao thông lên đến 5 tỷ USD cho giai đoạn 1996-2000. Các dự án đường bộ chiếm 1/2 vốn đầu tư dự kiến cho toàn ngành giao thông vận tải là 6,2 tỷ USD, chiếm 15% tổng vốn đầu tư công trình công cộng, trong đó nguồn vốn quan trọng vẫn là ODA.
Xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội: Các dự án về hạ tầng xã hội trong đó phần lớn sử dụng vốn được thể hiện trong các chương trình quốc gia đã tiến hành được nhiều năm. Một số dự án có mục tiêu phát triển nông thôn và phát triển nguồn nhân lực mang tính chất thực hiện công bằng xã hội như xoá đói giảm nghèo, chương trình 327 trồng rừng phủ xanh đồi trọc, chương trình giáo dục tiểu học, định canh định cư, dân số - KHHGĐ.
Lĩnh vực y tế có sử dụng nhiều vốn ODA đa phương nhất. Giai đoạn 1991-1996 khoảng 100 triệu USD, giai đoạn 1996-2000 dự kiến là 135 triệu USD.
Nói chung cho đến nay chúng ta đã thực hiện vận động hơn 13 tỷ USD vốn ODA cam kết và đã hợp thức hoá bằng các hiệp định được ký kết trị giá hơn 9 tỷ USD, trong đó vốn vay ưu đãi khoảng 7.5 tỷ USD và vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 1,5 tỷ USD. Tính đến hết quý 1/1999 ta đã giải ngân khoảng hơn 5 tỷ USD, đạt hơn 55% số vốn ODA được cam kết. Nguồn vốn này đã được sử dụng chủ yếu để xây dựng các cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo, phát triển y tế - GD & ĐT...
II. Vốn FDI
FDI đầu tư vào nước ta chủ yếu dưới hình thức liên doanh, tập trung vào các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế. Cơ cấu đầu tư chủ yếu vào một số ngành như công nghiệp, khách sạn du lịch... Đầu tư vào nông - lâm - ngư nghiệp và các ngành khác còn hạn chế. Phần lớn các dự án đầu tư vào Việt Nam là từ các nước Đông á chiếm 68,2% tổng vốn đầu tư. Mặc dù khủng hoảng kinh tế - tài chính song đến ngày 31/12/1998 tỷ trọng này vẫn giữ ở mức gần 60%.
Nhưng do các nước trong khu vực đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nên có một số dự án khó thực hiện đúng thời hạn, thậm chí có một số dự án phải huỷ bỏ như dự án khu biệt thự, nhà ở cao cấp An Phú (TP HCM) với số vốn đầu tư gần 1 tỷ USD, dự án BOT cảng biển quốc tế nước sâu Sao Mai- Bến Đình trên 600 triệu USD (Bà Rịa - Vũng Tàu) và một số dự án khác.
Trong khi đó, vốn đầu tư thu hút từ khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này. Đầu tư nước ngoài vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhưng so với viện trợ phát triển chính thức ODA thì nguồn vốn FDI lớn hơn 3,2 lần.
Với chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, trong thời gian từ 1991-2000, vốn FDI đã chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó thời kỳ 91-95 chiếm 26% và từ 1996 đến nay chiếm khoảng 29%.
Tình hình FDI từ 1988-1998
Đơn vị: triệu USD
1988-1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Tổng
Số dự án
363
206
281
374
392
367
336
260
2579
Tổng vốn đầu tư
3301
2151
3130
3626
6350
8582
4453
4059
35608
Vốn đầu tư tăng thêm
256
500
625
650
684
1095
549
4357
Vốn đầu tư thực hiện
207
463
1002
1500
2000
3028
4057
2480
14737
Nguồn: Vụ tài chính đối ngoại - Bộ Tài chính
Khu vực có vốn FDI ngày càng phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào CNH - HĐH đất nước. Đặc biệt công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh chóng, năm 1996: 21,7%, 1997: 23,2%, 1998: 13,3%. Tổng doanh thu khu vực này liên tục tăng lên qua các năm và các thời kỳ: 1991 đạt 151 triệu USD; 1992: 228; 1993: 505; 1994: 1026; 1995: 2065; tính chung 5 năm đạt 3973 triệu; và tính chung 5 năm 1996-2000 đạt 20568 triệu USD.
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có FDI nên 5 năm 91-95 là 1121 triệu USD, đạt 28,2% doanh thu thì 5 năm 96-2000 đạt 10437 triệu USD đạt 50,7% doanh thu.
Khu vực này cũng đóng góp cho ngân sách nhà nước trong thời kỳ 91-95 là 323 triệu USD. Trong thời kỳ 96-2000 là 1426 triệu, nó cũng thu hút số lao động làm việc trực tiếp khoảng 330 nghìn người, chưa kể số người làm việc gián tiếp như xây dựng, phục vụ.
III. Những hạn chế mà ta cần vượt qua khi tiếp nhận VNN
Thứ nhất, do thời gian "đóng cửa" trước đây, nên chúng ta hầu như hụt hẫng về nhiều mặt khi làm ăn với nước ngoài.
Thứ hai, công việc đổi mới kinh tế của chúng ta vì mới bắt đầu nên có lúc "mở" lúc "đóng", chưa đồng bộ trong việc thiết kế cơ chế thị trường, lúng túng trong việc xử lý vấn đề doanh nghiệp nước ngoài, do dự trong việc tạo các điều kiện cần thiết cho kinh tế tư nhân phát triển.
Thứ ba, tại các tỉnh - thành phố có điều kiện thuận lợi để thu hút VNN đã có những tính năng động, sáng tạo, nhạy bén với cái mới trong chủ trương chỉ đạo của mình nhưng lại bị kiềm toả trong khuôn khổ chung của đất nước.
Thứ tư, trong từng đơn vị cơ sở có hoạt động hợp tác đầu tư nước ngoài lại biểu hiện một sự năng động tự phát vì thiếu căn cứ định hướng chiến lược, thiếu cơ sở quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật và thiếu cả sự chỉ đạo nhất quán từ phía Nhà nước. Đặc biệt là những "sáng tạo" trong việc đối phó với những chính sách, luật pháp chưa được hợp lý và chặt chẽ của chúng ta.
Thứ năm, những danh nhân của chúng ta còn có những hạn chế trong việc xử lý "cái riêng" và cái "chung" hoặc vì thiếu thông tin, thiếu sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
Thứ sáu, tâm lý, tư tưởng trong hoạt động hợp tác, thu hút VNN như tính tự tin mặc cảm, xu hướng vọng ngoại - trọng ngoại hoặc những thành kiến đối với những nước lớn, tập đoàn lớn.
Chương IV
Giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài cho quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam
I. Các giải pháp nhằm huy động VNN
1. Giải pháp huy động ODA
1.1. Ban hành hệ thống văn hoá pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, rõ ràng phù hợp với thông lệ quốc tế và tình hình cụ thể ở Việt Nam, có hiệu lực cao về quản lý nợ nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động vay trả nợ nước ngoài phù hợp với chiến lược vay nợ nước ngoài trung và dài hạn.
1.2. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc tiếp nhận, phân bổ, quản lý sử dụng ODA, nâng cao hiệu quả sử dụng ODA, đẩy nhanh việc phê duyệt dự án đầu tư và công tác thẩm định dự án. Có phương án bố trí vốn đối ứng khi tiếp nhận ODA.
Nâng cao chất lượng và tính khả thi của dự án, tập trung ODA vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao trình độ khoa học công nghệ và quản lý, đồng thời giành một phần đầu tư cho ngành nông lâm ngư, sản xuất hàng tiêu dùng.
1.3. Hoàn thiện cơ chế như tổ chức tư vấn, quản lý vay và trả nợ nước ngoài, quản lý nguồn hỗ trợ chính thức ODA, nhằm đảm bảo giải ngân kịp thời và kiểm soát được mọi khoản nợ, viện trợ nước ngoài. Hoạch định và thực hiện chiến lược vay, trả nợ nước ngoài trong giai đoạn mới, trong đó xác định rõ cơ cấu nợ, mức trần an toàn vay nợ và hình thành quỹ trả nợ quốc gia để chủ động trong việc thu hồi vốn cho vay lại, bố trí vốn trả các khoản nợ đến hạn để tổ chức quản lý nợ nước ngoài có hiệu quả.
2. Giải pháp thu hút FDI
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có được thực hiện hay không, điều đó tuỳ thuộc vào cả hai phía, bên nhận đầu tư và bên đầu tư. Vì vậy để thu hút có hiệu quả FDI, về phía mình - nước nhận đầu tư, Việt Nam cần phải làm tốt các vấn đề sau:
2.1. Xây dựng một chính sách đầu tư ổn định, nhất quán trên cơ sở hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cần sớm sửa đổi luật đầu tư nước ngoài... đặc biệt là chính sách thuế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các nhà đầu tư.
2.2. Tiếp tục cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, tài chính - ngân hàng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và phải coi đây là động lực thu hút đầu tư và phát triển.
2.3. Cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư phù hợp với yêu cầu hội nhập
Một khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của AFTA vào năm 2006, hàng rào thuế quan sẽ giảm xuống dưới 5%, thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bước vào một môi trường cạnh tranh quốc tế.
2.4. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa vào phát triển hạ tầng cơ sở đặc biệt là ở các khu vực kinh tế khó khăn về kinh nghiệm cho thấy muốn thu hút được 1 đồng vốn đầu tư nước ngoài thì nước chủ nhà cần 2 đồng để phát triển cơ sở hạ tầng.
2.5. Hoàn thiện hoạt động hải quan cho phù hợp với thông lệ quốc tế và khu vực, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động xuất nhập khẩu của các dự án FDI.
2.6. Sớm thông qua và ban hành công khai quy hoạch các dự án FDI trong những năm tới.
Đầu tư thoả đáng vào giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực để duy trì và phát huy lợi thế của Việt Nam.
2.7. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch vững mạnh; giữ vững sự ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân, kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả.
2.8. Tích cực chủ động tiến hành xúc tiến đầu tư, tạo lập và lựa chọn các đối tác đầu tư nước ngoài, lựa chọn các hình thức thu hút FDI phù hợp và có hiệu quả đa dạng và đa phương hoá trong hợp tác đầu tư. Tăng cường quan hệ ngoại giao với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62008.doc