Số khẩu bình quân/hộ của các nhóm hộ biến động từ 4.75-6.27 khẩu/hộ như vậy là quá lớn. Từ thực tế điều tra ta thấy rằng số hộ được phỏng vấn thì hầu hết đều là các hộ trẻ-rất ít người già, nhưng số người trẻ đang trong độ tuổi đi học lại rất nhiều-họ đã bỏ học và ở nhà làm rẫy. Điều này cho thấy trình độ dân trí của người dân nơi đây nhìn chung còn thấp. Vả lại theo bảng thống kê trên thì số khẩu bình quân trên mỗi hộ là khá đông (nếu chưa muốn nói là quá đông). Tổng hợp từ các phiếu điều tra ta thấy rằng những hộ có số nhân khẩu là 4 trở xuống là rất ít, mà có rất nhiều hộ có tới 9 khẩu, còn nhiều khẩu đang trong độ tuổi đi học và chưa đi học (những gia đình này còn trẻ), như vậy cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề dân số và kế hoạch hoá gia đình ở buôn này
42 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1857 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình phát triển kinh tế của các nông hộ tại buôn Tiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana Tỉnh Dak Lak, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân dân ngày càng được nâng lên đáng kể.
3.1.2.2 Xã hội
a. Tình hình an ninh trật tự
Xuất phát từ tình hình đặc điểm của địa phương công tác an ninh được coi trọng đặc biệt là an ninh chính trị, tích cực triển khai Nghị quyết 09/NQ-CP và Quyết định 138/QD-CT của chính phủ về chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm, phối hợp trên của ban chỉ huy quân sự xã lực lượng bảo vệ của Nông trường Cà Phê Êatiêu, Nông trường cao su 19/08.
Trong công tác giữ gìn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, lực lượng công an xã, công an thôn Buôn được kiện toàn củng cố và không ngừng củng cố tăng cường lực lượng quốc phòng an ninh. Xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Phát huy sức mạnh hệ thống chính trị trong việc củng cố quốc phòng và an ninh nhân dân.
Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây tình hình trật tự của Buôn ÊaTiêu xã Êatiêu huyện Krông Ana rất phức tạp. Nguyên nhân là do sự ảnh hưởng của thời đại mở cửa mang tính chất đua đòi, trộm cắp. Đấy là một trong những “khe hở” để kẻ địch luồn lách dụ dỗ các đối tượng này đi theo con đường phản động. Trước tình hình diễn biến phức tạp này, Đảng và Nhà Nước đã thể hiện sự quan tâm giúp đỡ đó là tăng cường về cùng chung sống với đồng bào nhằm tuyên truyền, vận động, thuyết phục, làm rõ âm mưu của bọn phản động lôi kéo đồng bào phản cách mạng, từ đó nhân dân trong Buôn ÊaTiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana đã giác ngộ nhận ra sự sai trái và hiện nay tình hình an ninh trật tự, đã đi vào trật tự vốn có của nơi này.
b. Văn hoá, giáo dục
Sự nghiệp giáo dục có những chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng dạy và học được phủ kín trong toàn Buôn, về chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao, đa số giáo viên đã được chuẩn hoá, tỉ lệ học sinh đạt khá giỏi bình quân năm sau cao hơn năm trước, Tỉ lệ học sinh bỏ học từ đầu nhiệm kỳ đến nay giảm số lượng đáng kể.
Về phổ cập giáo dục trong đầu nhiệm kỳ đến nay đã tiến hành điều tra hoàn chỉnh phổ cập trung học cơ sỏ.
c. Y tế
Công tác y tế nhìn chung từ đầu nhiệm kỳ đến nay, mặc dù Buôn ÊaTiêu xã Êatiêu huyện Krông Ana chưa có trạm y tế riêng nhưng trạm y tế xã đã cố nhiều cố gắng trong công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, chú trọng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, thực hiện tốt các chương trình quốc gia về phòng chống các loại bệnh, làm tốt công tác vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch đặc biệt dịch cúm gà và dịch lở mồm long móng vừa qua. Kịp thời nắm bắt các diễn biến của dịch bệnh để có kế hoạch ngăn ngừa, đảm bảo công tác khám chữa bệnh, cấp phát thuốc …
3.2 Kết quả nghiên cứu
3.2.1 Tình hình sử dụng đất đai
Tình hình sử dụng đất đai của các hộ thuộc Buôn ÊaTiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất đai
Chỉ tiêu
Diện tích (ha)
Tỉ lệ(%)
Đất thổ cư
75
42.86
Đất nông nghiệp
62
35043
Đồi trọc
5
2.86
Nghĩa địa
15
8.57
Hồ nước
13
7.43
Ruộng nước
5
2.86
Tổng
175
100.00
(Nguồn tin : Từ báo cáo của Buôn ÊaTiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana).
Biểu đồ 3.1 : Tình hình sử dụng đất đai (diện tích ):
Qua số liệu trên ta thây diện tích đất thổ cư là khá cao, chiếm 42.86% tổng diện tích của cả Buôn, trung bình đất thổ cư trên đầu người là: 0.42 ha/người, chiếm 0.24%. Như vậy, diện tích đất không sử dụng vẫn còn nhiều, đó là một trong những vấn đề cần được giải quyết trước mắt để nguồn đất không được lãng phí .
Đất nông nghiệp là 62 ha chiếm 35043% trong khi đó diện tích đất ruộng nước là 5 ha chiếm 2.86%, điều đó cho thấy người dân nơi đây sống chủ yếu là nhờ cây công nghiệp đặc biệt là cây Cà Phê. Như vậy người dân ở đây đã biết trồng những cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao. Song những năm qua sản lượng Cà Phê còn thấp do tình hình khí hậu khắc nghiệt, hạn hán kéo dài, nước tưới chủ yếu từ các hồ nhưng trong những năm đó thì mực nước quá cạn, không đủ tưới, trong khi đó thì người dân lại không có vốn để đầu tư cho việc nạo vét giếng.
Trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai là đặc biệt quan trọng, nó vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động. việc sử dụng vốn trong sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào đất đai.
Bảng 3.2 :Tình hình phân bổ đất đai của các hộ điều tra :
(Đơn vị tính: ha)
STT
Nhóm hộ
Số hộ
Thổ cư
Ruộng
TB/hộ
CàPhê
TB/hộ
Rẫy
TB/
hộ
1
Khá giàu
4
2.68
0.5
0.125
4.8
1.2
2
T.Bình
15
3.72
1.71
0.08
13.55
0.9
0.5
0.033
4
Nghèo
6
0.4
0.8
0.128
0.77
0.13
1.6
0.4
5
Tổng
25
6.8
3.1
0.333
19.12
2.23
2.1
0.433
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Qua bảng thống kê trên thì ta thấy rằng diện tích đất (bình quân/hộ) để canh tác cho các hộ nơi đây là không cao. Các hộ không đủ nhiều đất để sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là các hộ trung bình và các hộ nghèo, họ đều rất ít đất. Ở đây việc phát triển kinh tế chủ yếu là nhờ vào cây công nghiệp là Cà Phê nhưng diện tích bình quân/hộ của họ đều thấp, có đỡ hơn là ở các hộ khá giàu còn được 1.2 ha/ hộ, còn các hộ trung bình là 0.9 và nghèo là 0.13, với số đất như vậy thì khó có điều kiện để mở mang quy mô sản xuất. Đất trống để làm rẫy nơi này cũng chỉ còn 0.433 ha. nơi đây việc phát triển lúa nước rất thấp do diện tích rất ít, điều này là do tài nguyên về đất ruộng là nghèo nàn. Như vậy để khắc phục vấn đề đất đai là các hộ phải tiến hành thâm canh trên mảnh đất của mình sao cho năng suất cao nhất, đạt hiệu quả về kinh tế trên diện tích đất của mình là cao nhất, góp phần nâng cao đời sống và đổi mới bộ mặt nông thôn.
3.2.2 Nhân khẩu và lao động
Trong sản xuất thì phương thức sản xuất là quan trọng nhất, việc lựa chọn phương thức sản xuất thế nào thì sẽ đem lại hiệu quả lao động thế đó. Tuy nhiên trong mọi phương thức sản xuất thì lao động vẫn là một yếu tố không thể thiếu, việc quản lý, sử dụng lao động hợp lý là việc rất quan trọng góp phần vào năng suất cũng như thu nhập của người nông dân. Đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp- lao động có tính thời vụ, lao động sẽ dư thừa sau mùa vụ, vì vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để tận dụng nguồn lao động một cách hợp lý nhất nhằm đem lại hiệu quả lao động cao nhất và vòng tuần hoàn vốn một cách liên tục và nhanh nhất.
Bảng 3.3:Nhân khẩu và lao động:
STT
Nhóm hộ
Số hộ
Số nhân khẩu
BQ khẩu
/hộ
Lao động
Tỉ lệ(%)
LĐ/số NK
LĐBQ
/hộ
1
Khá giàu
4
19
4.75
10
52.63
2.5
2
T.Bình
15
94
6.27
61
64.89
4.1
3
Nghèo
6
36
6
23
63.88
3.8
4
Tổng
25
149
5.96
94
63.08
3.76
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Từ bảng thống kê trên ta có nhận xét như sau: Có 25 hộ được phỏng vấn nhưng có tới 149 nhân khẩu, số khẩu bình quân trên hộ biến đông từ 4.75-6.27 (khẩu/hộ). Nhưng số lao động chỉ có 94 khẩu trên tổng số 149 khẩu, chiếm 63.08% trên tổng số khẩu của 25 hộ điều tra, số còn lại là 36.92% bao gồm những người già và trẻ em chưa đến tuổi lao động, con số nhân khẩu ăn theo này là khá lớn trong ngành sản xuất nông nghiệp có nhiều rủi ro này, đặc biệt là nơi đây các ngành dịch vụ chưa phát triển .
Vấn đề tạo công ăn việc làm cho người dân vào những thời điểm nhàn rỗi là hết sức cần thiết. Vào thời điểm này thì cũng là điều kiện thuận lợi cho các cán bộ khuyến nông-khuyến lâm tranh thủ thời gian tổ chức các lớp tập huấn nhằm truyền đạt các kỹ thuật trong sản xuất cho người dân. Mặt khác, trong quá trình sản xuất, sự giúp đỡ họ về nguồn vốn cũng hết sức quan trọng trong việc đầu tư sản xuất và thay đổi phương thức sản xuất của họ.
Số khẩu bình quân/hộ của các nhóm hộ biến động từ 4.75-6.27 khẩu/hộ như vậy là quá lớn. Từ thực tế điều tra ta thấy rằng số hộ được phỏng vấn thì hầu hết đều là các hộ trẻ-rất ít người già, nhưng số người trẻ đang trong độ tuổi đi học lại rất nhiều-họ đã bỏ học và ở nhà làm rẫy. Điều này cho thấy trình độ dân trí của người dân nơi đây nhìn chung còn thấp. Vả lại theo bảng thống kê trên thì số khẩu bình quân trên mỗi hộ là khá đông (nếu chưa muốn nói là quá đông). Tổng hợp từ các phiếu điều tra ta thấy rằng những hộ có số nhân khẩu là 4 trở xuống là rất ít, mà có rất nhiều hộ có tới 9 khẩu, còn nhiều khẩu đang trong độ tuổi đi học và chưa đi học (những gia đình này còn trẻ), như vậy cần quan tâm nhiều hơn đến vấn đề dân số và kế hoạch hoá gia đình ở buôn này.
3.2.3 Tình hình tiêu thụ sản phẩm
Thị trường là lĩnh vực lưu thông hàng hoá, toàn bộ những hoạt động mua bán; việc cung cấp hàng hoá và nhu cầu có khả năng thanh toán đối với các loại hàng hoá hoặc một loại hàng hoá nhất định nào đó. Hầu hết các hộ nông dân ở đây đều là những nông hộ nhỏ. Trong sản xuất nông nghiệp các hộ nông dân còn mang tính tự cung tự cấp, chỉ riêng sản xuất Cà Phê thì các hộ sản xuất ra để bán vì đó là nguồn thu nhập chính của hộ gia đình của Buôn ÊaTiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana nên thị trường nông sản phẩm nơi có rất ít - chỉ có khoảng ba đại lý nhỏ thu mua nông sản Cà Phê do tư nhân quản lý các nông sản do nông dân làm ra thường bị các thương Buôn ép giá, thông tin về thị trường chưa tốt. Mặt khác giá cảc nông sản không ổn định.
3.2.4 Ngành trồng trọt
3.2.4.1 Năng suất bình quân của các loại cây trồng của các hộ điều tra
Bảng 3.4:Năng suất bình quân của các loại cây trồng
(Đơn vị tính: Tấn/ha)
STT
Nhóm hộ
Cà Phê
Lúa
Bắp
1
Khá Giàu
3.9
8.012
2
Trung bình
3.2
8.115
6.17
3
Nghèo
1.94
7.802
6.03
(Nguồn tin : Tổng hợp từ phiếu điêu tra).
Qua bảng thống kê trên ta thấy rằng năng suất đối với mọi cây trồng đều còn có thể tăng thêm nhờ vào việc thâm canh của các nông hộ. Ngay cả đối với các hộ khá giàu thì việc chăm sóc cho Cà Phê với năng suất 3.9 tấn/ ha như vậy còn vẫn là chưa tốt, các hộ trung bình lại chỉ đạt 3.2 tấn/ ha, đặc biệt là các hộ nghèo năng suất của họ thật quá thấp chỉ đạt 1.94 tấn/ha. Cà Phê của vùng tây nguyên chúng ta hoàn toàn có thể đạt được năng suất 5 tấn/ ha hoặc có thể còn hơn nữa nếu tiến hành thâm canh tốt, như vậy cần đặc biệt phát huy về đầu tư thâm canh cây Cà Phê nơi đây, vì cây Cà Phê chính là nguồn thu nhập chính cho các hộ gia đình và chủ yếu nguồn đất thì đã ưu tiên cho Cà Phê. Còn về lúa và bắp với năng suất như vậy còn có thể tạm chấp nhận được, tuy nhiên năng suất của cây lúa mới đạt 7.802-8.012 tấn/ha chưa đạt được năng suất tốt là 1 tấn/ ha trở lên, riêng năng suất của cây bắp vẫn còn yếu mới được 6.03-6.17 tấn/ ha trong khi quy cách về năng suất của cây bắp lai là 10-13 tấn/ ha , nhưng do diện tích quá ít nên có thể nghĩ tới việc chuyển đổi cây trồng một cách hợp lý hơn, trồng bắp, lúa cũng là góp phần vào sự đa dạng hoá các loại cây trồng nhằm tránh những rủi ro nhưng lại với diện tích quá ít như vậy thì lại trở nên sản xuất manh mún và không đạt hiệu quả kinh tế cao.
3.2.4.2 Thu nhập từ trồng trọt của các nhóm hộ qua các năm điều tra
Mức thu nhập ngành trồng trọt sẽ cho ta biết được quy mô của sản xuất cũng như trình độ thâm canh cây trồng của các nhóm hộ điều tra.
Bảng 3.5: Mức thu nhập nghành trồng trọt
(Đơn vị tính: triệu đồng)
STT
Nhóm hộ
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
149
149
195
204
286
2
Trung bình
155.75
146.95
193
221.6
386.3
3
Nghèo
6.8
5.6
7.4
20.7
21.28
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Biểu đồ 3.2: Tổng mức thu nhập ngành trồng trọt của các nhóm hộ
Bảng 3.6: Tốc độ phát triển liên hoàn về thu nhập ngành trồng trọt của các nhóm hộ
STT
Nhóm hộ
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
0
4600
900
8200
2
Trung bình
-880
4605
2860
16470
3
Nghèo
-120
180
1330
58
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Tại Buôn ÊaTiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana thì tình hình đất làm rẫy là không còn nhiều, thu nhập của ngành trồng trọt vẫn chủ yếu là Cà Phê, thêm vào đó một phần nhỏ của lúa ,bắp, đậu.
Thông qua biểu đồ thể hiện tổng mức thu nhập ngành trồng trọt của các nhóm hộ và bảng thể hiện tốc độ phát triển liên hoàn trên thì ta nhận thấy rằng tổng thu nhập của hai nhóm khá giàu và trung bình là tương đương nhau thậm chí nhóm hộ trung bình còn nhỉnh hơn nhóm hộ khá giàu, điều đó được giải thích như sau: tuy tổng thu nhập ngành trồng trọt của nhóm trung bình không thua gì nhóm hộ khá giàu là do nhóm hộ trung bình có tổng số hộ là 15 hộ trong khi nhóm hộ khá giàu chỉ có 4 hộ, sự thể hiện trên bảng và trên biểu đồ này vẫn giải thích rằng nhóm hộ giàu thì vẫn có thu nhập cao hơn nhiều so với nhóm hộ trung bình.
Một điều đáng mừng ở đây là tốc độ phát triển liên hoàn của cả hai nhóm hộ khá giàu và trung bình đều tăng qua các năm điều tra. Nhóm hộ nghèo cũng tăng nhưng tóc độ tăng còn nhỏ và chưa có sự đột biến vươn lên. cần có những chính sách ưu đãi và quan tâm đúng mức cho các nhóm hộ này giảm khoảng cách giàu nghèo, nhằm đảm bảo công bằng xã hội.
3.2.4.3Hiệu quả đầu tư trong ngành trồng trọt
Trong sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng thì vấn đề hiệu quả sản xuất luôn là vấn đề được quan tâm đầu tiên, sản xuất phải có hiệu quả thì sản xuất mới có ý nghĩa kinh tế - vấn đề này luôn được các nhà đầu tư quan tâm ngay trước khi có những quyết định đầu tư và ra những chính sách của những nhà lãnh đạo – trong sản xuất của các hộ cũng thế. vậy ta hãy xem việc sản xuất của các hộ có hiệu quả hay không thông qua các bảng sau:
Bảng 3.7: Hiệu quả đầu tư trong trồng trọt
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
STT
C.Tiêu
Doanh thu trồng trọt
Cpsx trồng trọt
2001
2002
2003
2004
2005
2001
2002
2003
2004
2005
1
K.Giàu
149
149
195
204
286
86
79
79
86
92
2
T.Bình
155.75
146.95
193
221.6
386.3
95.18
90.45
92.5
95.18
102.5
3
Nghèo
6.8
5.6
7.4
20.7
21.28
0.35
1.85
2.15
6.65
7.4
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Doanh thu của hai nhóm hộ khá giàu và trung bình là tương đối cao, cao hơn nhiều nhóm hộ nghèo. Tuy nhiên để thấy rõ hiệu quả của việc sản xuất của các hộ thì ta xem lợi nhuận của các nhóm này như thế nào ta tiếp tục xem bảng lợi nhuận sau:
Bảng 3.8: Lợi nhuận từ trồng trọt:
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
STT
Chỉ tiêu
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
63
70
116
118
194
2
Trung bình
60.57
56.5
100.5
126.414
283.789
3
Nghèo
6.45
3.75
5.25
14.05
13.88
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Biểu đồ 3.3: Lợi nhuận trong trồng trọt của các nhóm hộ điều tra
Ta dễ nhận thấy trên biểu đồ hai nhóm khá giàu và trung bình đã có nhiều cố gắng trong sản xuất, trong việc quản lý nguồn vốn của mình. đặc biệt là nhóm hộ trung bình đã có sự vươn lên rất tốt trong năm vừa qua-2005.
Cũng như lời nhận xét ở trên, các hộ ở đây đã sử dụng tốt nguồn vốn đầu tư-cũng như vốn vay, hoạt động sản xuất đều đã có lợi nhuận, nhóm hộ nào có nguồn đầu tư cao thì lợi nhuận thu được cũng cao hơn. Điều đó càng làm rõ hơn vấn đề thiếu vốn trong sản xuất ở Buôn này.
Ta hãy xem bảng sau để thấy rõ hơn vấn đề này qua bảng Li nhuận từ trồng trọt bình quân/ hộ của các nhóm hộ điều tra sau:
Bảng 3.9: Lợi nhuận từ trồng trọt bình quân/ hộ của các nhóm hộ điều tra
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
STT
Chỉ tiêu
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
15.75
17.5
29
29.5
48.5
2
T.Bình
4.03
3.76
6.7
8.42
18.91
3
Nghèo
1.07
0.62
0.87
2.34
2.31
(Nguồn tin : Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Biểu đồ 3.4:Lợi nhuận từ trồng trọt bình quân/hộ của các nhóm hộ:
Các nhóm hộ có thu nhập cao hơn (khá giàu, trung bình) đều có lợi nhuận bình quân/hộ cao hơn qua các năm ( khá giàu > trung bình> nghèo ).
Ta nhận thấy có sự khác biệt trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư của các nhóm hộ, chính vì vậy mà có sự khác biệt trong lợi nhuận của các nhóm hộ: nhóm khá giàu cao hơn nhóm trung bình, nhóm trung bình cao hơn nhóm nghèo và đặc biệt khoảng cách giữa các nhóm ngày càng cách xa, đặc biệt nhìn vào hai nhóm giàu và nghèo.
Như vậy sự cần thiết trong đầu tư không chỉ là vốn đầu tư mà còn là vấn đề kinh nghiệm sản xuất, ngoài sự giúp đỡ các hộ về vốn vay, đưa các đội ngũ cán bộ khuyến nông về truyền đạt kinh nghiệm cho người dân còn phải khuyến khích nông dân cần thiết phải giúp đỡ lẫn nhau về kinh nghiệm địa phương trong sản xuất- những kinh nghiệm từ thực tế mà các hộ giàu đã rút ra được mới là quý báu và là sát thực, có hiệu quả.
3.2.5 Ngành chăn nuôi
Từ khảo sát thực tế ta thấy rằng người dân Buôn ÊaTiêu hầu hết chưa chú trọng gì về việc phát triển ngành chăn nuôi cả, tình hình chăn nuôi của các hộ Buôn ÊaTiêu thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.10: Tình hình chăn nuôi
STT
Nhóm hộ
Bò(con)
Heo nái(con)
Gia cầm(con)
Cá
1
Khá Giàu
2
2
T.Bình
5
8
22
3
Nghèo
2
20tr/2năm
(Nguồn tin:Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Cả 25 hộ được phỏng vấn thì không có hộ nào phát triển ngành chăn nuôi một cách có quy mô. Trong 25 hộ đó chỉ có 12 hộ là có gia súc, gia cầm, tuy nhiên mỗi hộ gia súc thì không quá 2 con, gia cầm thì không quá 10 con; tổng số con bò của các hộ được phỏng vấn này là 7 con, tổng số heo là 10 con, tổng số gia cầm là 22 con, chăn nuôi cá thì chỉ có một hộ đầu tư cho cái ao trong hai năm 2004 và 2005 mỗi năm được 10 triệu đồng , mặc dù việc về điều kiện tự nhiên ở đây rất thuận lợi cho ngành chăn nuôi, các con gia súc gia cầm đều khoẻ mạnh, qua cả mấy đợt dịch vừa rồi nơi này cũng vẫn chưa thấy bị ảnh hưởng. Ta hoàn toàn có thể khả quan về ngành chăn nuôi nơi này, mọi điều kiện để phát triển ngành chăn nuôi đều rất thuận lợi, như vậy nên chú trọng thật nhiều vào ngành quan trọng này.
3.2.5.1 Thu nhập từ chăn nuôi của các nhóm hộ qua các năm điều tra
Bảng 3.11: Mức thu nhập từ chăn nuôi
(Đơn vị tính: triệu đồng):
STT
Nhóm hộ
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
4.5
4.54
4.5
4.5
5
2
Trung bình
21
21
21
21
27
3
Nghèo
0
0
0
1.2
0
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Với tình hình chăn nuôi chưa được chú trọng như vậy nhưng thu nhập từ chăn nuôi cũng đáng để chú ý. ở đây việc phát triển chăn nuôi heo nái rất tốt, chi phí để nuôi một con heo nái một năm thì không nhiều nhưng nó có thể sinh ra trong một năm trên 20 con heo con, mà heo con nơi này lại đắt (từ 300-400 ngàn một con heo giống). Phát triển chăn nuôi đi đôi với trồng trọt là hướng phát triển chiến lược của quốc gia, để phòng trừ rủi ro trong sản xuất, vùng này hoàn toàn có thể phát triển ngành chăn nuôi một cách mạnh mẽ hơn.
So sánh mức thu nhập của các hộ điều tra qua các năm để thấy rõ tình hình chăn nuôi và mức thu nhâp như sau:
Bảng 3.12: Tốc độ phát triển liên hoàn về mức thu nhập từ chăn nuôi của các nhóm hộ điều tra
STT
Nhóm hộ
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
100.88
99.11
100
111.11
2
Trung bình
100
100
100
128.57
3
Nghèo
0
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Để thấy rõ hơn về tốc độ phát triển liên hoàn về mức thu nhập từ ngành chăn nuôi của các nhóm hộ điều tra thì hãy xem biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.5 : Tốc độ phát triển liên hoàn mức thu nhập từ chăn nuôi của các nhóm hộ điều tra
Nhìn vào bảng và biểu đồ được thể hiện ở trên thì ta nhận xét rằng chăn nuôi ở đây là có hiệu quả, dù chăn nuôi chưa phát triển nhưng nguồn thu từ chăn nuôi lại đáng để chú ý như vậy, nguồn thu từ chăn nuôi cũng đóng góp đáng kể vào tổng nguồn thu từ sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân. Nhóm hộ nghèo chưa chú trọng phát triển ngành này so với hai nhóm kia và cũng không có thu nhập ( ngoại trừ năm 2004 thu nhâp được 1.2 triệu đồng-là không đáng kể) nên đây cũng là một trong những lý do làm cho các hộ này chậm phát triển.
Ta thấy các hộ trung bình qua các năm điều tra thì cũng đang góp phần vào phát triển ngành này cùng với các nhóm hộ giàu, so sánh số hộ trong nhóm (nhóm hộ giàu ít hộ hơn-chỉ có 4 hộ; còn nhóm hộ trung bình nhiều hơn-có 15 hộ) thì các hộ giàu vẫn có thu nhập bình quân trên hộ cao hơn.
3.2.5.2 Hiệu quả đầu tư trong chăn nuôi
Để biết hiệu quả đầu tư trong ngành chăn nuôi như thế nào, đầu tư cho chăn nuôi có thu về được hay không và mức thu về này có lớn hơn mức chi phí mà họ bỏ ra hay không, nghĩa là có lợi nhuận hay không thì ta xem bảng đã được xử lí sau:
Bảng 3.13: Hiệu quả đầu tư trong chăn nuôi
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
STT
Chỉ tiêu
Doanh thu từ chăn nuôi
Chi phí trong chăn nuôi
2001
2002
2003
2004
2005
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
4.5
4.54
4.5
4.5
5
2
2
2
2
2
2
Trung bình
17
17
17
17
23
4.25
4.25
4.25
1.45
1.488
3
Nghèo
4
4
4
5.2
4
1.5
1.5
1.5
1.8
1.5
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Mặc dù tình hình chăn nuôi Buôn ÊaTiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana còn kém phát triển nhưng thông qua bảng thống kê trên ta thấy rằng doanh thu từ chăn nuôi của các hộ đều cao hơn chi phí cho chăn nuôi, điều đó cho thấy tình hình chăn nuôi ở đây là có hiệu quả.
Nhưng vấn đề cần nói đến ở đây là sự đầu tư cho chăn nuôi là chưa thực sự đáng kể đến - nó còn quá ít ỏi.
*Lợi nhuận từ chăn nuôi
Bảng 3.14: Lợi nhuận từ chăn nuôi
STT
Chỉ tiêu
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
2.5
2.54
2.5
2.5
3
2
Trung bình
12.75
12.75
12.75
15.55
21.512
3
nghèo
2.5
2.5
2.5
3.4
2.5
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Chỉ có nhóm trung bình là chăn nuôi có hiệu qủa nhất- nhóm trung bình đã chăn nuôi nhiều heo nhất (8 con heo nái) và cũng nuôi nhiều bò nhất (5 con bò), đặc biệt chỉ có nhóm hộ trung bình là chăn nuôi gia cầm (22 con); hộ khá giàu thì chăn nuôi ít : Nhóm hộ giàu chỉ nuôi 2 con heo nái và không nuôi các gia súc, gia cầm khác; nhóm nghèo cũng thế, nuôi được 2 con bò và thả cá nhưng do chăm sóc không tốt nên cá chỉ đáp ứng cho cải thiện bữa ăn. Ta xem biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.6:Thể hiện lợi nhuận thu được từ chăn nuôi của các nhóm hộ điều tra
Vì lý do các hộ chăn nuôi rất ít nên lợi nhuận của các nhóm hộ là không cao nhưng so với đầu vật nuôi thì doanh số lợi nhuận này cũng là đáng kể rồi. Các con gia súc ở Buôn này chủ yếu là heo, rồi tơí bò, gia cầm cũng còn ít và chủ yếu để cải thiện bữa ăn. Nhưng điều đáng quan tâm là heo, các hộ nuôi heo nái rất có giá trị kinh tế, ta cần góp ý với các hộ về việc mở mang chăn nuôi , đặc biệt là heo nái- heo con ở Buôn này cũng khá đắt trong khi cả Buôn thì số lượng gia đình chăn nuôi heo lại quá ít, là thị trường rất tốt cho những hộ chăn nuôi heo nái và tạo điều kiện để cả Buôn phát triển ngành này.
3.2.6 Thu nhập khác của các nhóm hộ qua các năm điều tra như sau
Thu nhập khác cũng là một nguồn thu nhập hết sức quan trọng trong nền kinh tế hộ gia đình, nó đóng góp phần không nhỏ cho kinh tế hộ gia đình, như với các hộ là công nhân viên chức nhà nước thì họ không thể có thời gian làm nương rẫy nhưng so thu nhập với các hộ khác thì những hộ này cũng có thể là những hộ giàu có.
Để thấy rõ vấn đề này ta hãy xem bảng sau:
Bảng 3.15:Thu nhập khác của các nhóm hộ qua các năm điều tra
(Đơn vị tính: triệu đồng):
STT
Nhóm hộ
Lương nhà nước
Hỗ trợ từ nhà nước
Buôn bán
Làm thuê
1
Khá giàu
42
15
2
Trung bình
66
6
200
3
Nghèo
115
1.2
163.2
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều ra).
Lương và các nguồn hỗ trợ từ nhà nước của các hộ ở đây là ổn định. Nhưng việc phát triển các ngành nghề, dịch vụ ở đây còn kém. Quán xá vẫn còn ít. vấn đề làm thuê lại còn nhiều, điều đó không phải là tốt cho sự phát triển xã hội và đặc biệt là cho các hộ, không có được sự chủ động trong phát triển kinh tế hộ gia đình, nghề làm thuê thì không thể làm giàu, mà còn phụ thuộc vào tuổi tác và sức khoẻ nữa. cần tạo công ăn việc làm cho những người này để họ phát triển kinh tế chủ động trong những ngành nghề khác của mình được tốt hơn, điều này cũng liên quan đến việc phát triển kinh tế hộ gia đình và sự phát triển xã hội, tình hình an ninh trật tự.
Tình hình thu nhập của các nông hộ có vai trò rất quan trọng trong việc chọn phương án nào để tiếp tục đầu tư cho kỳ sản xuất sau, và nó còn phản ánh việc sử dụng đồng vốn có hiệu quả hay không.
3.2.7 Tổng thu nhập (Trồng trọt - Chăn nuôi - Thu nhập khác)
Tổng thu nhập sẽ ảnh hưởng đến mức sống và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến việc ra các quyết định đầu tư phát triển kinh tế của các nhóm hộ.
Tổng thu nhập của các nhóm hộ có cao thì mới tạo điều kiện tốt cho việc lựa chọn quy mô sản xuất và mức độ thâm canh mạnh được, mức sống của các nhóm hộ cũng bị chi phối không ít bởi tổng thu nhập hộ gia đình.
Bảng 3.16: Tổng thu nhập (trồng trọt-chăn nuôi-thu nhập khác) của các nhóm hộ
(Đơn vị tính:Triệu đồng)
STT
Chỉ tiêu
Năm
Tổng
2001
2002
2003
2004
2005
1
Khá Giàu
76.9
83.94
129.9
131.9
208.4
631.04
2
Trung bình
126.42
122.35
166.35
195.064
358.401
968.585
3
nghèo
64.35
61.65
63.15
73.45
73.58
336.18
(Nguồn tin: Tổng hợp từ phiếu điều tra).
Với tổng thu nhập của nhóm hộ giàu là: 631.04 thì thu nhập bình quân/ hộ/năm của nhóm hộ này là 31.55 ( triệu đồng) (634.04/ 4 hộ/ 5 năm),nhóm hộ trung bình là 968.585 thì thu nhập bình quân/ hộ/năm của nhóm hộ này là 12.9 ( triệu đồng), tổng thu nhập của nhóm hộ giàu là: 336.18 thì thu nhập bình quân/ hộ/năm của nhóm hộ này là 11.2 ( triệu đồng) .
Thu nhập của các nhóm hộ/ năm qua các năm điều tra giao động từ 11.2-31.55 triệu đồng như vậy không phải là cao. Nghĩa là trên thực tế thì các hộ được gọi là giàu ở Buôn này cũng không thể mang ra so sánh với các hộ giàu ở nơi khác, nói đúng hơn là cần phải quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển (cả về kinh tế lẫn văn hoá, giáo dục…) của Buôn ÊaTiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana tỉnh Đăclăc.
Lượng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình hình phát triển kinh tế của các nông hộ tại buôn Tiêu xã ÊaTiêu huyện Krông Ana Tỉnh Dak Lak.doc