MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
NỘI DUNG 4
1. Tổng quan về suy thoái đất 4
1.1 Thế nào là đất bị suy thoái? 4
1.2 Nguyên nhân gây ra suy thoái đất 4
1.3 Hiện trạng sử dụng đất ở nước ta 6
1.4 Những biểu hiện của sự suy thoái đất và thực trạng suy thoái đất hiện nay ở nước ta 7
1.4.1 Xói mòn, xói lở 9
1.4.2 Sa mạc hóa 11
1.4.3 Ô nhiễm đất 14
1.4.4 Laterit hóa 17
1.4.5 Nhiễm mặn 18
1.4.6 Nhiễm phèn 20
2. Sử dụng tài nguyên đất lâu dài bền vững 21
2.1 Một số biện pháp hạn chế suy thoái đất 21
2.1.1 Làm ruộng bậc thang 21
2.1.2 Các biện pháp nông nghiệp 23
2.1.3 Biện pháp lâm nghiệp 23
2.1.4 Biện pháp hóa học 24
2.2 Một số biện pháp cải tạo đất suy thoái 24
2.2.1 Biện pháp cải tạo đất xói mòn 24
2.2.2 Biện pháp cải tạo đất mặn 24
2.2.3 Biện pháp cải tạo đất phèn 25
2.3 Một số kết quả đã đạt được trong quá trình quản lý đất theo quan điểm bền vững 26
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
29 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 22330 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình suy thoái đất ở Việt Nam và những nỗ lực sử dụng tài nguyên đất lâu dài, bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ễm đất từ nước thải, chất thải rắn, ô nhiễm dầu, hóa chất độc hại, thuốc trừ sâu...
Từ các nguyên nhân trên đã dẫn đến các kiểu thoái hóa đất
Phèn hóa, nghèo kiệt dinh dưỡng trong đất
Nhiễm mặn
Laterit hóa
Ô nhiễm đất
Xói mòn, xói lở
Sa mạc hóa
Bảng 13. Quan hệ giữa cây che phủ và xói mòn
Đối tượng so sánh
Lượng xói mòn (tấn/ha)
Rừng
0,004
Trồng cỏ
0,694
Trồng ngô
31,897
Trồng bông
69,932
Đất bỏ hoang
148,288
1.3 Hiện trạng sử dụng đất ở nước ta
Diện đất tự nhiên nước ta khoảng 33 triệu ha, được xếp thứ 59/200 nước, nhưng dân số đông (khoảng 78 triệu người) nên diện tích đất bình quân mỗi người vào loại thấp (0,5 ha) và xếp vào thứ 159.
Đất vùng đồi núi, dốc chiếm 22 triệu ha (67% diện tích cả nước), đất tốt có đất bazan 2,4 triệu ha chiếm 7,2%, đất phù sa 3,0 triệu ha chiếm 8,7%. Nhìn chung đất tốt chỉ được xấp xỉ 20%.
Đất nông nghiệp khoảng 7,36 triệu ha, trong đó 5,9 triệu ha trồng cây ngắn ngày như lúa, hoa màu, lương thực thực phẩm (số liệu năm 1994). Đất rừng khoảng 9,91 triệu ha. Ngoài ra, có khoảng 13,58 triệu ha chưa được sử dụng trong đó chỉ có khoảng 400.000 ha có thể sử dụng vào nông nghiệp, còn lại là đồi núi trọc và mặt nước ao hồ sông suối.
Cơ cấu sử dụng đất ở Việt Nam cũng có xu hướng giống thế giới: tăng đất nông nghiệp, giảm đất rừng, tăng đất chuyên dùng và đất trống đồi trọc. 55% diện tích đất tự nhiên được sử dụng vào 4 mục đích cơ bản: nông nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dụng và các khu dân cư. Khoảng 7 triệu ha đất (21,13% diện tích đất tự nhiên) được sử dụng vào nông nghiệp như trồng cây hàng năm (5,5 triệu ha), trồng cây lâu năm (1,1 triệu ha), đồng cỏ chăn nuôi (0,35 triệu ha).
Bảng 11. Tình hình sử dụng đất tại Việt Nam (%)
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Tổng diện tích đất
: 33.104,22 triệu ha
Đất nông nghiệp
21,17
22,03
22,20
22,25
22,26
24,09
Đất rừng
29,05
28,77
29,12
29,95
32,61
32,84
Đất chuyên dụng
3,03
3,34
3,35
3,39
3,84
3,93
Đất định cư
2,44
2,34
2,34
2,17
2,50
2,62
Đất chưa sử dụng
44,31
43,52
42,99
42,24
38,80
36,52
Bảng 12. Diện tích đất nông nghiệp và đất rừng so với diện tích đất tự nhiên năm 1994 chia theo vùng
Đất
Tự nhiên (%)
Nông nghiệp (%)
Rừng (%)
Cả nước
100
22,3
30,0
Miền núi và trung du Bắc bộ
100
3,6
6,2
Đồng bằng sông Hồng
100
2,1
0,2
Khu Bốn cũ
100
2,0
5,7
Duyên hải miền Trung
100
1,6
5,6
Tây Nguyên
100
1,9
9,9
Đông Nam bộ
100
2,9
1,5
Đồng bằng sông Cửu Long
100
8,0
0,9
1.4 Những biểu hiện của sự suy thoái đất và thực trạng suy thoái đất hiện nay ở nước ta
Việt Nam còn khoảng 9 triệu ha đất bị hoang hóa (chiếm khoảng 28% tổng diện tích đất đai trên toàn quốc), trong đó có 5,06 triệu ha đất chưa sử dụng (Quyết định số 272/QĐ-TTg ngày 27/2/2007) và 2 triệu ha đất đang được sử dụng bị thoái hóa nặng.
Đó là con số do Văn phòng thực hiện Công ước chống sa mạc hóa của Liên hiệp quốc (UNCCD) tại Việt Nam thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cung cấp Nhân ngày Thế giới chống sa mạc hóa và hạn hán 17-6 năm nay.
Văn phòng UNCCD Việt Nam cho biết, độ phì nhiêu của đất ở Việt Nam đang có nguy cơ bị giảm xuống hoặc bị thoái hóa nghiêm trọng do xói mòn, rửa trôi, đá ong hóa, chua mặn hóa. Tài nguyên rừng cũng bị suy giảm đáng kể. Nếu như năm 1943 Việt Nam có tỷ lệ che phủ của rừng là 43% thì sau nhiều nỗ lực khắc phục các nguyên nhân mất rừng suốt 60 năm qua, tỷ lệ che phủ hiện nay mới chỉ là 37,6% (Số liệu công bố tháng 12-2006). Rừng bị mất đã làm tăng diện tích đất hoang hóa, kéo theo sự giảm sút đáng kể các hệ sinh thái, làm suy thoái vùng đầu nguồn.
Bảng 1. Đặc điểm xuất hiện ở các cấp tiềm năng thoái hoá đất
Cấp thoái
hoá
Đặc điểm xuất hiện
Khả năng phục hồi và sử dụng
Mạnh và rất mạnh (T3)
- Đất tàn tích trên bazan cổ (N2-Q11) và bazan trẻ (Q12-Q2) có nền laterit.
- Địa hình chia cắt rất mạnh, dốc 15-25o.
- Nằm trên các trung tâm khô hạn hoặc mưa.
- Xói mòn rửa trôi mạnh.
- Khó phục hồi
- Bảo vệ rừng phòng hộ và trồng rừng
Trung bình (T2)
- Đất sườn tích bazan trẻ (Q12-Q2) hoặc cổ (N2-Q11) không có nền bauxit, các thung lũng tích tụ.
- Địa hình lượn sóng, dốc 8-15o.
- Mùa khô không gay gắt hoặc mưa lớn không tập trung.
- Vùng tiếp xúc có điều kiện xuất hiện laterit
- Có thể phục hồi
- Phương thức nông lâm kết hợp
Yếu (T1)
- Đất sườn tích trên bazan trẻ (Q11-Q12) hoặc cổ (N2-Q11) không có nền laterit.
- Địa hình bằng, lượn sóng, dốc nhẹ 0-80.
- Không có cực đoan về nhiệt ẩm.
Phục hồi bằng các biện pháp nông học, sản xuất nông lâm kết hợp
1.4.1 Xói mòn, xói lở
Lượng đất mất do xói mòn là rất lớn và phụ thuộc vào độ dốc, chiều dài sườn dốc, thực trạng lớp phủ trên mặt đất, dao động từ 100 đến 500 tấn đất/ha/năm. Theo nghiên cứu về lượng xói mòn trên đất canh tác rẫy ở Tây Bắc của hội Khoa Học Đất Việt Nam:
Vụ
Độ dày tầng đất bị xói mòn (cm)
Lượng đất mất (tấn/ha)
Vụ 1 (1962)
0,79
119,2
Vụ 2 (1963)
0,88
134,0
Vụ 3 (1964)
0,77
115,5
Cả 3 vụ gieo
2,44
366,7
Trung bình, lượng chất dinh dưỡng của đất hàng năm bị mất đi là chất hữu cơ 5.600 tấn/năm; nitơ 199,2 kg/năm; lân 163,2 kg/năm; Ca và Mg 33 kg/năm.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp, đất đồi núi miền Bắc nước ta hàng năm mất khoảng 1cm tầng đất mặt (100m3/ha), trong đó có khoảng 6 tấn mùn (tương đương khoảng 100 tấn phân chuồng) và 300kg N (tương đương khoảng 1,5 tấn sunphat amon). Đặc biệt, có nơi như Tây Bắc mất đi khoảng 3cm đất mặt, tương đương 150 - 300 tấn đất/ha. Mỗi năm nước cuốn ra biển khoảng 250 triệu tấn phù sa màu mỡ, riêng sông Hồng mất đi khoảng 80 triệu m3/năm. Xói mòn làm thay đổi tính chất hóa lí đất, số liệu thể hiện trong bảng sau:
Chỉ tiêu qua sát
Số lượng bị trôi (%)
Cấp hạt lớn hơn 1mm
21,00
Cấp hạt nhỏ hơn 1mm
79,00
N %
0,48
P2O5 %
0,23
K2O %
5,80
Mùn
11,00
(Nguồn: “Thổ Nhưỡng học”, Nhà Xuất Bản Nông nghiệp, 1979
Theo PTS Bùi Đạt Trâm, phụ trách trạm Khí tượng – thủy văn tỉnh An Giang nạn sụp lỡ đất trước nay chỉ xảy ra nhiều và nghiêm trọng ở dọc sông Tiền: bờ phía An Giang khoảng 5 – 10 m/năm, phía Đồng Tháp 10 – 20 m/năm. Nhưng những năm gần đây, sông Hậu có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều bãi bồi mới hình thành, sụp lỡ đất ven bờ xảy ra nhiều hơn.
Xói mòn đất
Hàng triệu ha đất đồi dốc đang trong tình trạng xói mòn, rửa trôi nghiêm trọng do canh tác nương rẫy và chặt phá rừng
1.4.2 Sa mạc hóa
Sa mạc hóa là sản phẩm cuối cùng của thoái hóa đất xảy ra ở vùng khô hạn và bán khô hạn. Nguyên nhân do tác động qua lại giữa hạn hán và sử dụng môi trường đất không hợp lý. Việt Nam có sa mạc cục bộ, đó là các dải cát hẹp trải dài dọc theo bờ biển miền trung, tập trung ở 10 tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận với diện tích khoảng 419.000 ha và ở đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 43.000 ha. Theo thống kê trên bản đồ của FAO và UNESCO, Việt Nam có khoảng 462.000 ha cát ven biển (chiếm khoảng 1,4% tổng diện tích tự nhiên toàn quốc) và 87.800 ha trong số này là các đụn cát, đồi cát lớn di động.
Trong gần 40 năm qua, quá trình hoang mạc hoá do cát di động rất nghiêm trọng. Mỗi năm có khoảng 10-20 ha đất canh tác bị lấn bởi cát di động. Ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, thời tiết đặc biệt khô nóng vào mùa khô, lượng mưa trung bình hàng năm ở một số nơi chỉ đạt khoảng 700 mm (vùng nóng hạn nhất là Ninh Thuận và Bình Thuận). Theo kết quả điều tra gần đây nhất của Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam, trong số 21 triệu ha đất canh tác nông nghiệp của Việt Nam thì đã có đến 9,34 triệu ha đất hoang hóa.
Ở Điện Biên: Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa mạnh chiếm 14.3% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 145674,99 ha, có nhiều thời kì thiếu nước kéo dài 6-9 tháng, thời kỳ khô hạn 4-5 tháng.Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa trung bình chiếm 47,22% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 451.546,78ha. Có 6-8 tháng thiếu nước, thời kỳ khô hạn từ 1-3 tháng.Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa yếu chiếm 30,11% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 281.952,87ha, có 4-5 tháng thiếu nước và 1-3 tháng hạn.Vùng không bị nguy cơ hoang mạc hóa có 75.216,72 ha, chiếm 7.87% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Duyên hải Nam Trung bộ đối mặt với hoang mạc hóa:Hiện các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ có diện tích đất trống đồi núi trọc khá lớn (gần 1,2 triệu ha đất hoang đồi núi và hơn 60.000 ha đất hoang đồng bằng trên tổng diện tích đất tự nhiên hơn 3 triệu ha), đất đai khô cằn, xói mòn thoái hóa và hoang mạc hóa diễn ra trên phạm vi nhiều địa phương.
Vùng duyên hải Nam Trung bộ cũng đã hình thành những dải cồn cát kéo dài khá liên tục từ Đà Nẵng đến Bình Thuận góp phần gây nên sa mạc hóa, nhất là phân bố ở các tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, nhưng điển hình là 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Ở Bình Định, tổng diện tích đất tự nhiên là 602.506 ha, có 425.835 ha đất xám bạc màu, trong đó diện tích đất cát 15.968 ha, đồi núi dốc 375.000 ha; diện tích hoang mạc hóa hiện nay của Bình Định là 786 ha.
Theo các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp duyên hải Nam Trung bộ, địa hình của dãy Kon Tum và hướng gió thổi gần song song với hướng địa hình ven biển đã ảnh hưởng và làm cho khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận trở nên khô nóng quanh năm, nhất là ở Ninh Sơn (Ninh Thuận), Tuy Phong và Bắc Bình (Bình Thuận). Tại đây có chế độ khí hậu bán khô hạn và được xem là vùng khô hạn nhất nước, đã tạo thành vùng cát hoang mạc hóa trên diện tích hơn 131.000 ha.
Hai huyện Tuy Phong và Bắc Bình (Bình Thuận) có diện tích đất cát hoang hóa khoảng 35.000 ha phân bố trên chiều dài 50 km bờ biển. Riêng các đồi cát di động ở đây có diện tích khoảng 5.000 ha và hiện là nguy cơ suy thoái hàng đầu trong khu vực.
Với điều kiện khô hạn và gió mạnh, đã thường xuyên tạo ra những cơn bão cát đe dọa chôn vùi làng mạc, ruộng đồng, phủ lấp Quốc lộ 1A trên một phạm vi rộng hàng ngàn hécta. Nghiêm trọng nhất là khu vực cát di động ở xã Chí Công, Liên Hương, Bình Thạnh (Tuy Phong - Bình Thuận) ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của khu vực.
Nghiên cứu thực trạng hạn hán, hoang mạc hóa ở Ninh Thuận, GS-TS Lê Sâm và cộng sự (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam) đã ghi nhận: tổng số diện tích đất hoang mạc ở Ninh Thuận là hơn 41.000 ha, chiếm 12,21% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Và cho đến hiện nay, tình trạng hoang mạc hóa vẫn tiếp tục có chiều hướng gia tăng.
Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Xúc tiến phát triển cộng đồng và bảo vệ môi trường (Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) cho biết: trong tổng số khoảng hơn 852.000 ha đất trống đồi núi trọc và hoang hóa của vùng duyên hải Nam Trung bộ thì diện tích đã và đang chịu tác động mạnh bởi hoang mạc hóa vào khoảng 45%.
Cát lấn ở ven biển duyên hải Nam Trung Bộ
Cánh đồng bị sa mạc hóa
1.4.3 Ô nhiễm đất
Môi trường đất có thể bị ô nhiễm dẫn đến thoái hóa do nhiều tác nhân như: nhiễm mặn, nhiễm phèn, gley hóa, ô nhiễm dầu, thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng, chất hữu cơ, chất phóng xạ...
Theo kết quả các công trình nghiên cứu của Bộ Quốc phòng VN được tiến hành từ năm 2000 - 2004, hàm lượng trung bình của dioxin ở sân bay Đà Nẵng là 35ppb TEQ (phần ngàn tỷ) - cao gấp 35 lần cho phép đối với đất phi nông nghiệp được quy định ở Mỹ.
Kết quả nghiên cứu của Công ty Tư vấn Môi trường Hatfield (Canada) cũng cho thấy, mức độ ô nhiễm dioxin cao nhất trong mẫu đất ở sân bay Đà Nẵng là 365ppb; trong mẫu máu của người dân sống gần sân bay là 1.220ppt và của hai người dân khác sống ở khu vực lân cận khoảng 600ppt, cao hơn nhiều lần so với mức cho phép hàm lượng dioxin trong người của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
Đất ô nhiễm do đioxin
Ô nhiễm đất do chất thải rắn
Ô nhiễm đất do nước thải ô nhiễm hữu cơ và kim loại nặng
Đất bị ô nhiễm dầu
Theo điều tra của Viện Lúa ĐBSCL thì trong 3 vụ lúa hàng năm, nông dân tại Cần Thơ, Đồng Tháp bón phân hóa học các loại từ 514 - 613kg/ha. Nếu chỉ sản xuất 2 vụ hè thu và đông xuân trong năm, nông dân bón từ 348 – 435kg/ha. Nông dân các tỉnh còn lại trong vùng cũng bón với số lượng tương tự. Chỉ tính lượng phân bón theo mức thấp nhất (348kg/ha) trong 2 vụ lúa đông xuân và hè thu từ năm 1995 đến nay, mỗi năm ruộng đồng vùng ĐBSCL tiếp nhận từ 1,357 – 1,696 triệu tấn phân hóa học. Còn về nông dược, hiện chưa có số liệu thống kê cụ thể, nhưng theo các nhà chuyên môn thì mỗi năm đồng ruộng nhận từ 10.000 tấn trở lên. Đa số nông dân hiện sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tùy tiện. Điều này dẫn đến ô nhiễm đất rất nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Đất bị ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật
1.4.4 Laterit hóa
Quá trình laterit hóa (hay đá ong hóa) là quá trình thổ nhưỡng - địa chất chỉ xảy ra ở vùng khí hậu nhiệt đới, là quá trình rửa trôi và tích tụ tuyệt đối các cation Fe3+, Fe2+ ; Al3+; Mn6+. Các cation này có sẵn trong môi trường đất nhiệt đới, do sự tác động của nước mưa, dòng thấm, nước ngầm, chúng bị rửa trôi và tập trung lại một chỗ trong đất với mật độ cao. Các cation này hấp thụ vào một nhóm mang điện tích âm (hạt keo đất, oxit sắt…) hoặc hấp phụ vào một tác nhân khác để có thể tạo sự kết dính giữa các cation đó nhằm tạo nên những liên kết tương đối bền vững. Khi nhiệt độ môi trường lên cao, độ ẩm giảm thấp, các liên kết này mất nước, sẽ tạo nên những oxit kim loại rất cứng chắc.
Qua 2 năm điều tra khảo sát và thu thập số liệu, dữ kiện, chúng tôi có một số kết luận sau đây (Lê Huy Bá – 1994):
“Quá trình laterit ở miền Đông Nam Bộ nói riêng và đất dốc đồi núi Việt Nam nói chung đã và đang xảy ra một cách mãnh liệt ở hầu khắp các vùng đất, loại đất. Riêng ở vùng Đông Nam Bộ với diện tích đất 357.176 ha chiếm tỉ lệ 15.14% đất toàn miền, laterite ở miền Đông đáng báo động khẩn cấp”.
Đất bị laterit hay còn gọi là đá ong có ở nhiều nơi trên vùng đồi núi bazan và khu vực Bắc bộ. Đá ong tập trung ở một số nơi như An Nhơn (Bình Định), các dải đồi nằm ven biển ở khu vực bãi Rạn (Tam Quang- Núi Thành- Quảng Nam), làng Đường Lâm (Hà Nội).
Đá ong đang được khai thác và sử dụng để xây dựng nhà cửa, các công trình vì đây là loại đá vô cùng rắn chắc và cũng có giá trị về mặt thẫm mỹ.
Một “mỏ” đá ong được mở ngay trên mép con đường nối Cảng Kỳ Hà và điểm du lịch bãi Rạn.
1.4.5 Nhiễm mặn
Định nghĩa: Là quá trình xâm nhiễm mặn, tích tụ muối và các kim loại kiềm trong môi trường đất, biến đất chưa mặn thành đất mặn.
Nguyên nhân: Nước mặn xâm nhập, sự di chuyển của nước ngầm theo mao quản và sự bay hơi của nước bề mặt làm cho muối tập trung với nồng độ cao, quá trình mặn hóa diễn ra thường xuyên...
Tác hại:
Năng suất cây trồng giảm mạnh khi nồng độ muối trên 4 g/l
Nồng độ muối từ 20 – 25 gây chết ở thực vật, đất trở nên nhão và ướt, nứt nẻ khi khô.
Dễ dẫn đến nhiễm phèn
Ảnh hưởng của mực nước biển dâng cao, đất nhiễm mặn
Cắt bỏ lúa cháy khô do đất nhiễm mặn
Các loại đất mặn ít và trung bình thường xuyên phân bố ở địa hình trung bình từ 0,8 đến 1,2 m cách xa biển và sông lớn. Loại đất này được canh tác khá lâu đời, mùa khô kiệt bị bỏ trống, chế độ bốc hơi rất mạnh, nên đất đã bị kết vón ở độ sâu từ 80 – 100 cm (Ba Tri, Thạnh Phú...).
Loại đất mặn nhiều, mặn từng thời kỳ thường phân bố ở địa hình thấp hơn, khi triều cường nước tràn lên, khiến tầng đất mặt có độ mặn cao rất khó rửa nhanh vào đầu mùa mưa. Ở tầng đất sâu 50 – 80 cm thường có lớp cát xám xanh của bãi thủy triều, có chứa mica và nhiều mảnh vỡ vôi gốc biển.
Loại đất mặn nhiều thường xuyên dưới rừng ngập mặn, phân bố thành dải dọc ven biển Bến Tre, dưới các thảm rừng sú, vẹt, mắm mà ngày nay đã bị tàn phá nhiều, bị ngập thường xuyên do triều, đất thường có độ mặn rất cao, lầy thụt, không thuận lợi cho các loại cây trồng nông nghiệp.
Chiếm diện tích 96.739 ha (tỉ lệ 43,11% diện tích toàn tỉnh) phân bố hầu hết ở các huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Tùy theo mức độ và thời gian nhiễm mặn, nhóm đất mặn ở Bến Tre được chia thành 4 loại:chiếm diện tích 15.127 ha (tỷ lệ 6,74% diện tích toàn tỉnh) phân bố rải rác trên toàn Bến Tre, từ vùng ngọt, vùng lợ đến vùng mặn.
1.4.6 Nhiễm phèn
Những vùng đất ngập nước, vùng có trầm tích xác bã thực vật nước mặn tích tụ 4000 - 5000 năm là môi trường thuận lợi hình thành phyrite (FeS2) là hoạt chất chủ yếu gây ra phèn hóa đất.
Dạng phèn tiềm tàng:do đất chứa nhiều FeS2 (khóang pyrite) do các vật liệu có S kết hợp với sắt từ oxyt sắt bị oxy hóa à H+ làm đất rất chua
Dạng phèn hoạt động:
FeS2 + O2 + H2O + K+ → KFe3(SO4)2(OH)6 + SO42- + 3H+
KFe3(SO4)2(OH)6. → 3FeO.OH + K+ + 3H+ + 2SO42-
FeO.OH → Fe2O3 + H2O
Tác hại:
pH không thích hợp cho cây trồng
Ion sắt, nhôm gây độc cho cây
Giảm động vật và vi sinh vật có lợi trong đất
Giảm khả năng tự làm sạch của đất
Đất nhiễm phèn
Trên thế giới có khoảng 12 triệu ha đất phèn (Van Wijk và ctv; 1992). Tại Việt Nam, diện tích đất phèn vào khoảng 1.863.128 ha, bao gồm đất phèn tiềm tàng là 652.244 ha và đất phèn hoạt động với 1.210.884 ha (Chiểu và ctv, 1996); trong đó vùng hạ lưu châu thổ sông Mekong chiếm đến khoảng 1,5 triệu ha (Sterk, 1992), phần lớn tập trung trong vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau và một phần của Tây Nam Sông Hậu. Ở Miền Bắc đất phèn chủ yếu tập trung ở vùng Kiến An - Hải Phòng
Sulfat nhôm mao dẫn lên mặt đất vào mùa khô trong vùng đất phèn Đồng Tháp Mười. Lê Phát Quới, 2005
Đất phèn ở An Giang phân bố nhiều ở vùng tiếp giáp với tỉnh Kiên Giang, thuộc địa phận huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần của Châu Phú, với tổng diện tích khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tôn chiếm 67%.
2. Sử dụng tài nguyên đất lâu dài bền vững
Vấn đề suy thoái tài nguyên đất đang là một vấn đề rất cấp bách có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người và các sinh vật. Vì vậy, chúng ta phải quản lý và sử dụng tài nguyên đất trên quan điểm bền vững để đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong tương lai của nhân loại. Chúng ta cần thường xuyên thẩm định, đánh giá và thống kê hiện trạng tài nguyên đất để biết được những ảnh hưởng của chúng ta đến môi trường đất như thế nào từ đó tìm ra những biện pháp thiết thực để sử dụng hợp lý, hạn chế suy thoái đất và cải tạo những vùng đất đã và đang bị thoái hóa.
2.1 Một số biện pháp hạn chế suy thoái đất
2.1.1 Làm ruộng bậc thang
Ðể xây dựng ruộng bậc thang đất đai phải có các điều kiện sau đây:
Ðất phải có tầng dày tối thiểu từ 60 cm trở lên, đất càng dày làm ruộng bậc thang càng thuận lợi, bề rộng của mặt ruộng càng rộng.
Ðộ dốc có thể xây dựng ruộng bậc thang tốt nhất từ 5- 250, ở những nơi có độ dốc lớn hơn 250 vẫn có thể làm được ruộng bậc thang như ở vùng Sa Pa, tuy nhiên đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và rất tốn đất.
Những nơi làm ruộng bậc thang để trồng lúa nước đòi hỏi phải có nguồn nước hoặc có khả năng giải quyết được nước tưới.
Nguyên tắc thiết kế ruộng bậc thang:
Ruộng bậc thang phải thiết kế theo đường đồng mức
Ruộng bậc thang nhất thiết phải có bờ. Mặt ruộng rộng hay hẹp phụ thuộc vào độ dốc và tầng dày đất.
Ðất bị san làm tầng không vượt quá 2/3 độ dày tầng đất ban đầu, phải đảm bảo trả lại được lớp đất màu trên mặt, tỷ lệ sử dụng đất phải đạt 65- 70% so với diện tích ban đầu.
*Các công trình và thềm đơn giản
Thềm cây ăn quả: là một dạng thềm canh tác không liên tục của dạng thềm bậc thang hẹp, dốc nghịch. Thềm cây ăn quả có thể làm trên sườn dốc > 30o (58%). Khoảng cách giữa hai hàng cây ăn quả được bảo vệ bằng những băng lớp phủ thực vật tự nhiên lâu năm hay các cây cỏ, cây họ đậu và các cây bảo vệ đất khác. Cây trồng chính được trồng theo các bồn riêng.
Thềm sử dụng linh hoạt: là các dạng thềm nằm cách nhau khá xa, xen kẽ là các dải sườn đồi chưa được xử lý dùng để canh tác hỗn hợp. Thềm để trồng cây lương thực là chủ yếu, trong khi ở phần sườn dốc chưa xử lý ở giữa thì trồng cây dài ngày hay cây lấy gỗ.
Thềm tự nhiên: thềm tự nhiên được hình thành sau khi tạo ra các bờ thấp (dải chắn) bằng đất hay đá có thể thu lượm tại chỗ, hay các dải cỏ dày theo đường đồng mức trên các sườn dốc thoải. Chúng được thiết kế và thi công sao cho đỉnh của đê chắn phía dưới cao ngang tâm điểm giữa đoạn sườn dốc tới đê kế tiếp ở phía trên. Sau vài năm canh tác thềm sẽ được hình thành do sự bồi đắp tự nhiên. Loại này thường chỉ áp dụng cho sườn dốc 7-12o.
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
2.1.2 Các biện pháp nông nghiệp
Biện pháp bảo vệ bằng nông nghiệp thực chất là các kỹ thuật đã được áp dụng qua việc quản lý, sử dụng đất trồng, chúng liên quan chặt chẽ với các quy trình canh tác bình thường, nhưng được thiết kế hay lựa chọn một cách đặc biệt nhằm đem lại lợi ích cho công tác bảo vệ đất trồng, chi phí đòi hỏi không lớn và có thể áp dụng tương đối dễ dàng. Các biện pháp thường được áp dụng trong nông nghiệp như: canh tác theo đường đồng mức, cày bừa ngang dốc, bố trí đa canh, trồng cây thành dải, biện pháp phủ bổi, trồng cây bảo vệ đất, làm đất tối thiểu, trồng các dải cây chắn... Tuy nhiên, những biện pháp này chỉ có thể áp dụng được trên những sườn đồi núi không dốc lắm (dưới 12o), ở những nơi có độ dốc cao hơn thì cần phải kết hợp giữa biện pháp nông nghiệp với các biện pháp công trình đơn giản ở trên.
2.1.3 Biện pháp lâm nghiệp
Giao đất, giao rừng.
Bảo vệ rừng, nhất là rừng đầu nguồn, rừng hành lang, rừng phòng hộ môi trường.
Trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc
Trồng cây có bộ rễ ăn sâu, xen với cây họ đậu.
Trồng cây chống sa mạc hóa ở Hà Tĩnh
Mô hình lạc xen sắn chống bạc màu đất ở Bình Định
2.1.4 Biện pháp hóa học
Một số nước tiên tiến trên thế giới người ta nghiên cứu các chất kết dính hóa học (phụ phẩm của ngành chế biến gỗ) đưa vào đất để tạo cho đất có thể liên kết chống xói mòn. Ngoài ra người ta còn dùng một số chất có khả năng giữ đất khác như thạch cao, sợi, thủy tinh tạo thành màng bảo vệ trên mặt đất.
2.2 Một số biện pháp cải tạo đất suy thoái
2.2.1 Biện pháp cải tạo đất xói mòn
Trồng cây xanh là biện pháp tốt nhất để cải tạo đất xói mòn, che phủ mặt đất bằng xác bã thực vật. Trồng cây có bộ rễ ăn sâu xen với cây họ đậu để vừa bảo vệ đất vừa cung cấp các chất dinh dưỡng cho đất nhằm làm cho đất trở nên tơi xốp và màu mỡ hơn.
Bón phân vi sinh, phân hữu cơ đề tăng hàm lượng dinh dưỡng trong đất và tăng kết cấu đất.
2.2.2 Biện pháp cải tạo đất mặn
Bón vôi: Những vùng đất mặn có phèn nên bón vôi nung (CaO) để rửa mặn, những vùng đất mặn không phèn nên bón vôi thạch cao (CaSO4) với liều lượng khoảng 30-40 kg/1000 m2. Bón bằng cách rải đều trên đất ruộng đã được cày xới và ngập nước, đối với đất liếp phải được cuốc lên trước khi bón vôi. Sau khi rải vôi cần bừa hoặc trục cho vôi trộn đều trong đất, ngâm nước từ 1-2 ngày rồi rút bỏ nước.
Xây dựng hệ thống đê biển để nước mặn không xâm nhập vào, đồng thời dẫn nước ngọt vào để rửa mặn cho đất
2.2.3 Biện pháp cải tạo đất phèn
Sử dụng nước ngọt để rửa phèn: đất phèn sau khi vỡ hoang, cho ngập nước một vài vụ đã có thể tiến hành khai thác.
Bón vôi: giảm độc chất Fe, Al, Mn trong đất, ngăn chặn quá trình suy thoái đất, phục hồi cấu trúc đất, làm cho đất thông thoáng, thấm nước tốt, tăng hiệu quả của kết tủa ion sắt, nhôm của phân lân.
Bón phân lân nung chảy: Khi bón lân, một phần lân kết hợp với Al, Fe trở thành phốt phát Al, Fe khó tan, ít di động nên hạn chế được ngộ độc phèn cho các cây trồng. Đối với đất phèn nặng, lượng lân phải được bón là 60-80kg/ha. Đối với đất phèn trung bình thì từ 30-40 kg/ha. Sử dụng lân hữu cơ để bón lót cho đất phèn nặng từ 350-400 kg/ha, cho đất phèn trung bình 200-300 kg/ha.
2.3 Một số kết quả đã đạt được trong quá trình quản lý đất theo quan điểm bền vững
Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả, cây công nghiệp (CAQ-CCN) Phủ Quỳ, Nghệ An vừa nghiên cứu thành công đề tài: "Nghiên cứu giải pháp khoa học công nghệ nhằm phục hồi đất thoái hoá trên các vùng cây ăn quả và cây công nghiệp". Thành công của đề tài thực sự đã đem đến năng suất, chất lượng cây trồng nâng cao. Không những thế, mà môi trường khí hậu còn trở nên trong lành, hữu ích.
Kĩ sư Phường bên vườn cao su trồng xen cây đậu lông
Đối với ẩm độ đất, qua theo dõi nhiều năm, mỗi năm quan trắc từ tháng 3 đến tháng 12, kỹ sư Phường đã đưa ra kết quả, ẩm độ đất trung bình ở vườn quýt PQ1 có trồng xen cây đậu lông là 30,69%, và ẩm độ đất theo dõi sau mưa 10 ngày là 31,8%. Trong lúc đó tại các vườn quýt không trồng cây đậu lông có ẩm độ đất trung bình là 26,72% và ẩm độ đất sau mưa 10 ngày là 25,6%. Còn ở vườn cây cao su có trồng xen cây đậu lông, ẩm độ đất bình quân đo được từ tháng 3 đến tháng 12 là 31,36% và ẩm độ đất sau mưa 10 ngày là 31,9%. Cũng tại thời điểm đo, tại các vườn cao su đối chứng có ẩm độ đất 27,44% và ẩm độ đất sau mưa 10 ngày là 26%.
Chị Võ Thị Tuyết - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu CAQ-CCN Phủ Quỳ khẳng định: “Mô hình trồng xen cây đậu lông vào các vườn cây ăn quả và cây công nghiệp đã thực sự đem đến hiệu quả rất thiết thực. Đây là một loại cây chống thoái hóa và cải tạo đất tốt nhất, chính nó đã làm giàu chất dinh dưỡng cho đất. Về mùa hè, cây đậu lông đã làm giảm mạnh nhiệt độ cho không khí và đất”.
Việc ngăn chặn sa mạc hóa ở ven biển miền Trung cũng được chú trọng và đạt nhiều kết quả khả quan. Năm 1982 – 1984, trồng 30 ha phi lao ngăn cát di động bảo vệ quốc lộ 1A khu vực Chí Công – Tuy Phong. Năm 1986 – 1990, với sự hướng dẫn kỹ thuật của giáo sư Lê Công Định, lâm trường Tuy Phong đã trồng 4 ha ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình hình suy thoái đất ở Việt Nam và những nổ lực sử dụng tài nguyên đất lâu dài, bền vững.doc