MỤC LỤC
A. Cơ sở lí thuyết của mối quan hệ giữa vốn và tăng trưởng kinh tế 1
I. Cơ sở lí thuyết để xét mối quan hệ giữa vốn và tăng trưởng kinh tế: 1
II. Vai trò của các nguồn vốn và mối quan hệ giữa các nguồn vốn: 9
1. Vai trò của nguồn vốn trong nước: 9
2. Vai trò của nguồn vốn nước ngoài: 11
3. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài: 13
B/Tình hình thu hút vốn FDI của VN trong những năm qua: 10 nước và vùng lãnh thổ dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (tính đến tháng 10/2005) – Tr.USD 14
1. Đánh giá vai trò của vốn ĐTNN 17
2. Vai trò của vốn FDI trong phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam. 18
C-Một số giải pháp thu hút vốn FDI 22
I/ Một số hạn chế trong thu hút FDI tại Việt Nam. 22
II. Các giải pháp: 24
1. Về pháp luật, chính sách: 24
2. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN:. 26
3. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động XTĐT: 27
4. Giải pháp về lao động tiền lương 28
5. Giải pháp về thuế 28
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3984 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình thu hút vốn FDI của Việt Nam trong những năm qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR.
Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau: Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995).
Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp
Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 còn 2,46 đồng/đồng.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao động thấp,... nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao, tạo sức ép làm tăng lạm phát. Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới trong khi đồng Việt Nam được neo giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so với các đồng tiền mà Việt Nam có quan hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sưc ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước.
II. Vai trò của các nguồn vốn và mối quan hệ giữa các nguồn vốn:
1. Vai trò của nguồn vốn trong nước:
Tổng vốn đầu tư trong nươc được hình thành bởi 3 nguồn tiết kiệm cơ bản là:
+ tiết kiệm từ ngân sách chính phủ (Sg)
+ tiết kiệm từ các doanh nghiệp (Sc)
+ tiết kiệm từ trong dân cư (Sh)
Nguồn vốn đầu tư trong nước luôn luôn đóng vai trò quyết định đến khả năng cung cấp đầu tư xã hội của một quốc gia.Lấy nguồn vốn trong nước lam nền tảng, chỗ dựa cơ bản để hướng đến phát triển kinh tế bền vững nền kinh tế đất nước.
Đối với nguồn vốn nhà nước, đây là nguồn vốn rất quan trọng.
Một là nguồn vốn này chiếm tỉ trọng lớn trong ba nguồn vốn. Trong điều kiện cân đối ngân sách còn có những hạnchế, thu chi ngân sách còn mất cân đối, bội chi ngân sách so với GDP tuy được kiềm chế ở mức không quá 5%... thì đó là một cố gắng lớn, thể hiện sự tiết kiệm để dùng dồn vốn cho đầu tư phát triển trong điều kiện đất nước còn đi vay để đầu tư.
Hai là đây là nguồn vốn quan trọng trong các công trình trọng điểm của đất nước
Ba là đây là nguồn vốn có tác động chù yếugóp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Bốn là nguồn vốn này có ý nghĩa như một nguồn vốn “ mồi” để lôi kéo khai thác các nguồn vốn khác
Năm là nguồn vốn này sẽ đầu tu vào những ngành,những vùng, những lĩnh vực mà các nguồn vốn khác vì mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu thu hồi vốn nhanh thường không muốn hay ngại đầu tư, như đầu tư vào ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản,vào vùng sâu vùng xa, vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở.
Sáu là nguồn vốn là nhà nước có thể trực tiếp điều hành theo định hướng và mục tiêu đề ra.
Bảy là nguồn vốn nhà nước sẽ còn lớn hơn nữa nếu: đẩy mạnh thu hút nguồn vốn từ đất đai.
Đối với nguồn vốn ngoài nhà nước cũng không kém phần quan trọng. Điều đó thể hiện ở các vấn đề:
Một là tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ngày một tăng và triển vọng sẽ vươn lên là nguồn vốn lớn, kết quả của đường lối đổi mới, phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường với hàng trăm nghìn doanh nghiệo tu nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hàng chục nghìn hợp tác xã kiểu mới, hang trăm nghìn trang trại ra đời…
Thứ hai, đây là nguồn vốn của kinh tế tư nhân nên việc đầu tư được tính toán kĩ, itý bị lãng phí, thất thoát nên hiệu quả đầu tư cao hơn khu vực nhà nước. Để tăng 1 đồng GDP lượng vốn đầu tư ở khu vực này chỉ tốn bằng 2/3 khu vực nhà nứoc. Một đồng vốn đầu tư đã tạo ta GDP cao gấp rưỡi khu vực nhà nước.
Thứ ba, lượng vốn tồn đọng trong dân còn khá lớn khoảng 80 nghìn tỷ đồng ( theo số liệu điều tra năm 2007 ), đây là một tiềm năng lớn có thể khai thác để đầu tư phát triển.
2. Vai trò của nguồn vốn nước ngoài:
Nguồn vốn nứơc ngoài bao gồm:
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI
- Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA
- Nguồn vốn đầu tư gián tiếp
- Nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ
- Nguồn vốn vốn kiều hối
Nguồn vốn nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước.
Đây là nguồn vốn gắn với ngoại tệ mạnh, với kĩ thuật công nghệ hiện đại, có lực lượng hùng hậu là các công ty mẹ ở nứoc ngoài hậu thuẫn, có thế mạnh về quảng cáo, tiếp thị tiêu thụ, trình độ quản lí, lực lượng lao động, tay nghề…
Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách và đầu tư nước ngoài còn hạn hẹp, với sự xuất hiện của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, các địa phương sẽ có điều kiện để đầu tư chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế.
Cụ thế:
Vai trò của nguồn vốn FDI:
FDI la nguồn vốn bổ sung quan trọng phục vụ cho chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là với nước đang phát triển .Cac nước đang phát triển vốn là những nước nghèo , tích lũy nội bộ thấp , nên để tăng trưởng kinh tế cao thì các nước này không chỉ dựa vào tích lũy trong nước mà còn phaỉ dựa vào nguồn vốn tích lũy từ bên ngoài , trong đó có FDI.
- FDI có ưu điểm hơn các hình thức huy động vốn nước ngoài khác, phù hợp với các nước đang phát triển .Các doanh nghiệp nhà nước ngoài sẽ xây dựng các dây chuyền sản xuất tại nước sở tại dưới nhiều hình thức khác nhau .Điều này sẽ cho phép các nước đang phát triển tiếp cận công nghệ tiên tiến , kỹ năng quản lý hiện đại .Tuy nhiên việc có tiếp cận được các công nghệ hiện đại hay chỉ là các cong nghệ thải loại cuẩ các nước phát triển lại tùy thuộc vào nước tiếp nhận đầu tư trong việc chủ động hoàn thiện môi trường đầu tư hay không.
- FDI giúp giải quyết tốt vấn đề việc làm và thu nhập của dân cư .Vai trò này của FDI không chỉ đối với các nước phát triển mà cả với các nước phát triển, đặc biệt là khi nền kinh tế bước vào giai đoạn khủng khoảng theo chu kỳ.
- FDI có tác động làm năng động hóa nền kinh tế, tạo sức sống mới cho các doanh nghiệp thông qua trao đổi công nghệ .Với các nước đang phát triển thi FDI giúp thúc đẩy chuy dịch cơ cấu sản xuất , phá vỡ cơ cấu sản xuất khép kín theo kiểu tự câp tự túc.
- FDI cho phép các nước đang phát triển học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng quản lý dây chuyền sản xuất hiện đại , nâng cao trinh độ chuyên môn cũng như ý thức lao động cong nghiệp của đội ngũ công nhân trong nước.
Vai trò của nguồn vốn ODA
Để thực hiện các chương trình đầu tư Quốc Gia như các dự án cải tạo nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng các hoạt động các dự án điều tra , khảo sát , đánh giá tài nguyên , hiện trang kinh tế , kỹ thuật xã hội các nganhf các vùng lãnh thổ; hỗ trơ điều chỉnh cơ cấu chuyển đổi hệ thống kinh tế , cải thiện ngân sách và bù đắp thâm hụt cán cân thanh toán Quốc Tế ; thực hiện các cải cách xã hội , giáo dục, môi trương sinh thái , y tế , xóa đói giảm ngheo`…
3. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài:
Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có vai trò bổ trợ cho nha đối với sự tăng trưởng. Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định còn nguồn vồn nước ngoài giữ vai trò bổ sung quan träng.
Cơ cấu nguồn vốn trong nước và nước ngoài có thể là 1- 1, 2- 1 hoặc 1-3.
Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, cơ cấu 1- 3 là rất khó vì nguồn vốn khan hiếm,
Sử dụng cơ cấu 1- 1 thì lại quá phụ thuộc vào bên ngoài, việc sử dụng không mang lại hiệu quả cao.
Vì vậy, việc sử dụng cơ cấu 2- 1 là hiệu quả nhất. Điều đó có nghĩa là 1 đồng vốn trong nước được thu hút từ 2 đồng vốn nước ngoài.
Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội hằng năm của Việt Nam, vốn trong nước chiếm 65% và vốn nước ngoài là 35%. Trong nguồn vốn ngoài nước thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp chiếm hơn 2/3, còn lại là vay nước ngoài. Như vậy vốn vay nước ngoài chỉ chiếm dưới 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
B/Tình hình thu hút vốn FDI của VN trong những năm qua: 10 nước và vùng lãnh thổ dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ( tính đến tháng 10/2005) – Tr.USD
STT
Nước, vùng lãnh thổ
Số dự án
Vốn đầu tư
vốn thực hiện
1
Đài Loan
1.384
7.739,90
2.961,44
2
Singapore
383
7.508,93
4.180,78
3
Hàn Quốc
1.004
5.391,92
2.504,74
4
Hồng Kông
351
3.683,71
1.940,50
5
B.V.Islands
243
2.623,56
1.267,26
6
Pháp
162
2.136,86
1.165,36
7
Hà lan
60
1.886,33
1.784,53
8
Thái Lan
125
1.474,08
716,82
9
Malaysia
175
1.471,38
843,51
10
Hoa Kỳ
245
1.398,48
739,23
10 địa phương dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (tính đến tháng 10/2005) - Tr.USD
STT
địa phương
số dự án
Vốn đầu tư
Vốn thực hiện
1
TP. HCM
1.772
11.937,64
5.963,94
2
Hà Nội
636
9.236,43
3.154,63
3
Đồng Nai
688
8.408,88
3.731,94
4
Bà Ria-Vũng Tàu
119
2.177,35
1.224,52
5
Hải Phòng
178
1.948,88
1.203,92
6
Dầu khí ngoài khơi
27
1.891,19
4.555,11
7
Vĩnh Phúc
87
726,42
413,67
8
Thanh Hoá
16
701,96
410,35
9
Long An
94
690,23
292,58
10
Hải Dương
72
627,50
376,01
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo các lĩnh vực (tính đến tháng 10/2005) - Tr.USD
STT
Lĩnh vực
Số dự án
Vốn đầu tư
Vốn thực hiện
1
CN nặng
1.161
12.210,08
6.326,31
2
CN nhẹ
1.633
8.206,71
3.189,37
3
Xây dựng
304
3.942,21
2.157,90
4
CN thực phẩm
257
3.083,78
1.882,98
5
CN dầu khí
27
1.891,19
4.555,11
6
Nông-Lâm nghiệp
649
3.367,28
1.678,27
7
Thuỷ sản
110
303,47
152,22
8
Xây dựng văn phòng, căn hộ
110
3.884,11
1.692,61
9
GTVT-Bưu điện
158
2.907,51
716,68
10
Khách sạn-Du lịch
171
2.849,07
2.121,81
11
XD khu đô thị mới
4
2.551,67
51,29
12
Dịch vụ khác
416
1.112,82
350,99
13
Văn hóa-Ytế-Giáo dục
201
1.103,26
273,05
14
XD hạ tầng KCX-KCN
20
986,10
521,37
15
Tài chính-Ngân hàng
53
702,55
611,93
Nhìn chung, ngày càng có nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đầu tư tại Việt Nam. Tính đến hết năm 2005, có 74 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam. Nhìn chung, trong cả giai đoạn từ 1988 – 2005, các nước châu Á vẫn là những đối tác đầu tư chủ yếu của Việt Nam, tỷ lệ dòng vốn từ châu Âu vẫn thấp và tăng chậm. Điều này đồng nghĩa với việc lượng vốn thu hút từ các nước sở hữu công nghệ nguồn còn rất thấp.
Trong giai đoạn 1988 – 1996, FDI vào Việt Nam chủ yếu là từ các nước châu Á. Các nước châu Á chiếm tới 71,7% tổng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam, trong đó các nước ASEAN chiếm 24,8% tổng vốn FDI đăng ký. Năm nước châu Á là Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông chiếm hơn 65% tổng số vốn đăng ký vào Việt Nam. Châu Âu chiếm 20,5% và châu Mỹ chiếm 7,8% vốn FDI đăng ký ở Việt Nam giai đoạn này (trong đó Mỹ chiếm tới 3,5% vốn FDI vào Việt Nam)
Đến giai đoạn 1997 – 1999, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực nên cơ cấu vốn FDI theo chủ đầu tư của Việt Nam cũng có sự thay đổi. Vốn FDI đăng ký của các nước ASEAN vào Việt Nam giảm rõ rệt, năm 1997 giảm 47,9% so với năm 1996, năm 1998 giảm 8,9%, năm 1999 giảm 63% so với năm trước. Trong khi đó vốn FDI từ các nước châu Âu lại tăng lên.
Giai đoạn 2000 – 2006 là giai đoạn phục hồi của nguồn vốn FDI vào Việt Nam. Trong giai đoạn này, cơ cấu vốn FDI đăng ký theo đối tác cũng có nhiều thay đổi. Năm 2000, vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu là từ châu Âu, chiếm 36,6% tổng vốn FDI vào Việt Nam. Vốn FDI từ các nước ASEAN vẫn tiếp tục giảm sút, chiếm 2,4% tổng vốn đăng ký. Tuy nhiên vốn từ các nước Đông Á vào Việt Nam lại tăng lên rõ rệt, chiếm tới 22,4% tổng vốn đăng ký. Năm 2001, vốn FDI từ các nước châu Âu, châu Mỹ và Đông á tiếp tục tăng mạnh, chiếm 44,5%; 4,6% và 28,7% tổng vốn đăng ký mới. Vốn FDI từ các nước ASEAN dần hồi phục, chiếm tới 13,7% tổng vốn đầu tư vào Việt nam. Trong 2 năm 2002 – 2003, vốn FDI từ châu Âu tiếp tục giảm xuống, còn 80 triệu USD năm 2002 và 73 triệu USD năm 2003 (so với mức gần 1.082 triệu năm 2001). Vốn FDI từ các nước ASEAN cũng giảm sút, nhưng khu vực Đông Á lại tích cực đầu tư vào Việt Nam, trở thành các chủ đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, đặc biệt là 4 nước Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đến hết năm 2004, châu Á vẫn là các chủ đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, chiếm 67,8% tổng vốn đăng ký, châu Âu chiếm 11,2% tổng vốn đăng ký và châu Mỹ chiếm 8% tổng vốn đăng ký vào Việt Nam.
Tính đến năm 2006, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông vẫn là 5 nước đứng đầu danh sách về đầu tư FDI vào Việt Nam, chiếm hơn 60% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, sau đó mới đến các nước châu Âu, châu Mỹ. Như vậy, tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước ngoài thì châu Âu và Hoa Kỳ đầu tư chưa lớn và chưa tương xứng với tiềm năng của họ.
Bốn tháng đầu năm 2007, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 84 dự án trị giá gần 600 triệu USD, tiếp theo là Ấn Độ, Singapore, Thái Lan và Mỹ.
1. Đánh giá vai trò của vốn ĐTNN
Tính đến nay, cả nước có khoảng 9.500 dự án ĐTNN đượcc ấp phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 98 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt khoảng 40 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 và duy trì ở mức 17-18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ năm 2001 đến nay.
Riêng năm 2007, thu hút ĐTNN đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, chiếm gần 20% tổng vốn ĐTNN trong 20 năm qua.
ĐTNN đã thực sự góp phần chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng thời nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viẽn thông, khí hoá dầu, tin học, ô tô...
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Trương Văn Đoan, ĐTNN còn có tác động lan toả đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thông qua sự liên kết doanh nghiệp.
Trong 20 năm qua, ĐTNN cũng đã đem lại cho Việt Nam những cơ hội được tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Nhờ đó năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam cũng được nâng lên.
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngaàycàng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế VN. Đó là những nguuonf bổ xung quan trọng vào tổng vốn đầu tư toan xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong thời gian qua, góp phần tăng cường năng lực sản xuất , đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm , gia tăng kim nghạch xuất khẩu hàng hoá, đóng góp cho ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lớn lao động . Bên cạnh đó ĐTNN cón có vai trò trong chuyển giao công nghệ cũng như tạo sức ép các soanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất .Các dự án ĐTNN cũng có tác động tcihs cực tới việc nâng caob năng lực quản lý và trình độ làm việc của người lao động trongkhu vực có vốn ĐTNN. Tựu chung lại, ĐTNN có những tác động tích cực đối với nền kinh tế, xã hội và môi trường của nước ta.
2. Vai trò của vốn FDI trong phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam.
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) từ lâu đã được coi là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, ngay sau khi Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, đổi mới nền kinh tế, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài (ngày 29-12-1987). Từ đó đến nay để Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam phù hợp, hấp dẫn hơn, Việt Nam đã ba lần bổ sung, sửa đổi. Nhờ đó, lượng vốn FDI vào Việt Nam đã không ngừng tăng lên. Đến nay Việt Nam đã có khoảng 4000 dự án đầu tư nước ngoài được đăng ký, với tổng số vốn đăng ký hơn 40 tỉ USD, đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế và các vùng khác nhau của đất nước dưới nhiều hình thức khác nhau.
Vốn FDI đã được sử dụng một cách có hiệu quả và thực sự đóng góp tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện qua một số khía cạnh như sau:
a) Những tác động tích cực:
- Vốn FDI đã cung cấp vốn cho phát triển kinh tế. Là một nước đang phát triển có tỷ lệ tích luỹ trong nước còn thấp (năm 2001 là 33,75%), để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế bình quân 7,5% trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 Việt Nam cần có mức tích luỹ đầu tư trên 35%. Nhưng, khả năng huy động vốn trong nước của Việt Nam chỉ có thể đạt tối đa 60-70%, do vậy phần còn lại phải huy động từ nguồn vốn bên ngoài, trong đó nguồn vốn FDI là chủ yếu (chiếm 2/3 vốn nước ngoài) để phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
- Vốn FDI tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất và công nghệ của Việt Nam thông qua việc chuyển giao công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lý sản xuất tiên tiến của thế giới, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Vốn FDI góp phần tạo công ăn việc làm và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước (khoảng 7% thu ngân sách cho nhà nước, thu hút gần 1 triệu lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp).
- Vốn FDI giúp gia tăng xuất khẩu và mở rộng tiếp cận thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cán cân thanh toán của đất nước.
Hiện nay vốn FDI đóng góp trên 13% GDP của đất nước, trên 18% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí).
b) Những hạn chế của nguồn vốn FDI.
Mặc dù nguồn vốn FDI vào Việt Nam từ năm 2001, 2002 đã có xu hướng phục hồi và tăng trưởng trở lại, nhưng sự phục hồi nguồn vốn FDI chậm và không ổn định.
- Cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam cũng ở tình trạng mất cân đối giữa các vùng và lĩnh vực được đầu tư. 75% tổng số vốn FDI đầu tư tại thành phố Hỗ Chí Minh, Hà Nội - là nơi có cơ sở hạ tầng và nhiều điều kiện thuận lợi. Các nơi khác chỉ nhận được nguồn vốn FDI nhỏ bé như : vùng Duyên hải Nam Trung bộ : 7,64% ; Đông Bắc : 4,46% ; Đồng bằng sông Cửu Long : 2,46% ; Bắc Trung bộ : 2,38% ; Tây Nguyên : 0,16% ; Tây Bắc : 0,15%.
- Đối với các ngành kinh tế, vốn FDI chủ yếu tập trung vào công nghiệp, dịch vụ và du lịch khách sạn (72%), nhưng lại có xu hướng giảm sút trong ngành nông- lâm nghiệp, nên chưa tương xứng với tầm quan trọng và tiềm năng của ngành này (từ 21,6% thời kỳ 1998-1990 xuống 14,5% thời kỳ 1991-1995 và xuống 3% thời kỳ 1996-2000).
- Xét theo khu vực nước đầu tư vào Việt Nam cũng có sự mất cân đối : Khu vực Đông Bắc Á chiếm tới 55,4% số dự án và 40,8% số vốn đăng ký của các dự án đang còn hiệu lực ; châu Á nói chung chiếm 64% ; châu Âu chiếm 21% ; châu Mỹ và các quốc gia vùng Caribê chiếm 13%. Đây cũng là điều mà Việt Nam không mong muốn.
- FDI trong những ngành sản xuất hàng công nghiệp chế tạo cho xuất khẩu còn chưa tương xứng với tiềm năng của các ngành đó như ngành công nghệ điện tử, thông tin, công nghệ phần mềm. Vốn FDI vào những lĩnh vực này chủ yếu mới là đầu tư cho các dây chuyền lắp ráp quy mô vừa và nhỏ.
- Nguồn vốn FDI vẫn chưa tạo được nhiều việc làm như mong đợi do các dự án phần nhiều được thực hiện trong các ngành sử dụng nhiều vốn và được bảo hộ cao như ô tô, xe máy, xi măng, thép, trong khi những ngành sử dụng nhiều lao động nhưng không được bảo hộ (nông- lâm nghiệp, thuỷ sản) lại có ít dự án. Việt Nam cũng còn chưa thu hút được đáng kể lượng vốn FDI để nâng cấp đường sá, cầu cảng và các cơ sở hạ tầng khác.
Bên cạnh đó, còn tình trạng một số dự án hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ dẫn đến bị phá sản. Trong một số liên doanh do phần góp vốn của phía Việt Nam nhỏ bé và chủ yếu góp vốn bằng quyền sử dụng đất, nhân sự người Việt Nam lại yếu kém về trình độ quản lý, chuyên môn nên không tham gia quản lý tốt dự án, dẫn đến hiện tượng nhà đầu tư nước ngoài tự ý thao túng điều hành, nhập khẩu những công nghệ quá lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường và làm những việc không có lợi khác cho Việt Nam.
c) Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam là do :
- Các nước khu vực châu Á sau khủng khoảng đã tập trung nỗ lực để phục hồi kinh tế và tiến hành cải thiện môi trường đầu tư, vì thế đã thu hút mạnh nguồn vốn FDI vào các nước này. Việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới và có một nền kinh tế đang phát triển nhanh cũng là một lực hút rất mạnh vốn FDI vào Trung Quốc. Trong khi đó ở Việt Nam thị trường tuy khá rộng lớn, chính trị ổn định song sức mua của đại bộ phận nhân dân còn thấp, những lợi thế về nguồn nhân công rẻ đang ngày càng giảm dần.
- Môi trường đầu tư của Việt Nam tuy đã được cải thiện cho hấp dẫn hơn nhưng khả năng cạnh tranh chưa cao so với các nước khác trong khu vực, thể hiện ở chỗ : Các quy định luật pháp liên quan đến đầu tư nước ngoài đang trong quá trình hoàn thiện nên có nhiều điểm còn chồng chéo, mâu thuẫn. Một số luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài vẫn chưa được ban hành. Nhiều văn bản dưới luật và các luật liên quan của các bộ, ngành còn thiếu tính đồng bộ. Quá trình thực hiện luật phát sinh nhiều trở ngại cho nhà đầu tư. Nhiều chính sách, quy định pháp lý thay đổi nhanh chóng, khó tiên liệu, không nhất quán, nhất là trong các lĩnh vực thuế, ngoại hối, Luật Lao động, Đất đai. Việc giải thích và thực thi luật phụ thuộc nhiều vào các cơ quan địa phương, nên không thống nhất, đồng bộ.
- Thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư nước ngoài còn rườm rà, tốc độ xử lý hành chính chậm so với các nước trong khu vực. Điều tra của Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản (JETRO) năm 2000 cho thấy : 42% doanh nghiệp Nhật được điều tra trả lời khó khăn lớn nhất của họ khi hoạt động tại Việt Nam là thủ tục hành chính, trong khi đó con số này ở Thái Lan chỉ là 13%, Philippin 18%, Inđônêxia 22%. Đó là chưa kể nhà đầu tư còn phàn nàn nhiều về các chi phí phụ ngoài quy định .
- Chi phí kinh doanh cao là một bất lợi khác làm giảm khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Cũng theo báo cáo của JETRO cho thấy hiện tại chi phí đầu vào của sản xuất tại Việt Nam (giá điện, cước phí vận tải, cước viễn thông quốc tế, phí đăng kiểm, chi phí giải phóng mặt bằng…) cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. Trong khi đó, Việt Nam vẫn chưa bỏ hoàn toàn chính sách hai giá, nhà đầu tư nước ngoài phải trả tiền cao hơn so với người trong nước cho một số chi phí đầu vào.
- Mặc dù được Nhà nước giành nhiều ưu đãi, khuyến khích như ưu đãi miễn, giảm thuế, hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp, cho được trừ lỗ vào thu nhập chịu thuế khi làm ăn thua lỗ…, nhưng doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế trong sản xuất kinh doanh (như những điều kiện xuất khẩu, yêu cầu tỷ lệ nội địa hoá, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, yêu cầu tỷ lệ cổ phần không quá 30% trong các doanh nghiệp Việt Nam, việc hạn chế hợp nhất và mua lại công ty…).
C-Một số giải pháp thu hút vốn FDI
I/ Một số hạn chế trong thu hút FDI tại Việt Nam.
- Mặc dù đã đạt mức tăng trưởng cao, nhưng kết quả thu hút đầu tư nước ngoài trong năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, vẫn thấp hơn mức đạt được của năm 1996 (8,8 tỷ USD). Môi trường đầu tư và kinh doanh tuy đã tiếp tục được cải thiện nhưng vẫn có những dự án vì những lý do nào đó, sau khi nhà đầu tư khảo sát tại Việt Nam đã thôi không đầu tư nữa hoặc chuyển sang đầu tư nước khác.
Việt Nam là một trong số rất ít các nước đang phát triển được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về các lợi thế đầu tư, đặc biệt là trên 4 phương diện: sự ổn định chính trị, vị trí địa lý, khả năng khống chế tỷ lệ lạm phát và quản lý tỷ giá. Tuy nhiên, Việt Nam cũng là một trong các quốc gia còn yếu trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hiệu quả của các dịch vụ hành chính, cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế và khung pháp luật cho hoạt động đầu tư nước ngoài, một số nhà đầu tư có tâm lý chờ đợi các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới. Ngoài ra, các tình trạng đình công chưa được ngăn chặn kịp thời; tình trạng tranh chấp kéo dài và triển khai dự án chậm chưa được xử lý dứt điểm cũng gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường đầu tư.
Một điều nữa là chính sách thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực quả thật có những điểm hấp dẫn hơn. Nếu nhìn lại, có thể thấy trong vấn đề này Trung Quốc có lợi thế hơn ta khi thị trường trong nước của họ lớn hơn ta rất nhiều. Đấy cũng là lý do khiến một số nhà đầu tư rút khỏi Việt Nam để chuyển hướng sang Trung Quốc.
- Tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước ngoài, thì Châu Âu và Hoa Kỳ đầu tư chưa lớn và chưa tương xứng với tiềm năng của họ.
- Nhìn chung, tiến độ thực hiện dự án còn chậm so với luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Những dự án được cấp trước thời kỳ khủng hoảng tài ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24681.doc