Đề tài Tình hình triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Phần mở đầu 1

I lý luận chung 2

1- Bảo hiểm xã hội (BHXH) và các chế độ bảo hiểm xã hội 2

2-Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 4

II-Thực trạng triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở việt nam 14

1-Thực trạng về Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp 14

2-Thực trạng về chế độ chính sách tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp và việc thực hiện chế độ này 21

III-Các giải pháp và kiến nghị 25

Phần kết 34

 

doc35 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n BHXH *Từ người sử dụng lao động theo quy định của bộ luật lao động và các văn bản dưới luật như: NĐ 06/CP ngày 20/1/1995 NĐ 12/CP ngày 26/1/1995 NĐ số 110/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002 Điều 107 bộ luật lao động đã sửa đổi bổ sung năm 2002 thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm về các khoản mục sau: +Chi phí y tế : Tiền khám , chữa trị thương tật từ khi sơ cứu đến khi điều trị ổn đị + Trả tiền lương trong suốt thời gian chữa trị thương tật +Chi giám định mức độ suy giảm khả năng sau khi thương tật đã ổn định +Chi bồi thường 1 lần cho người lao động +Có trách nhiệm xắp xếp công việc phù hợp cho người lao động sau khi bị tai nạn kể cả chi phí đào tạo lại nếu chuyển sang ngành khác Riêng khoản chi bồi thường 1 lần cho người lao động theo nghị định mới nhất NĐ 110/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002 nêu rõ: Nếu người lao động bị tai nạn lao động ,bệnh nghề nghiệp mà suy giảm khả năng lao động từ 5%-10% được người sử dụng lao động bồi thường ít nhất bằng 1.5 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) không do lỗi của người lao động Nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 10%-81% thì cứ tăng 1% được cộng thêm 0.4 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) không do lỗi của người lao động Nếu do lỗi của người lao động thì người sử dụng lao động sẽ trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức bồi thường đã quy định theo các tỷ lệ tương ứng nêu trên Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường ít nhất bằng 30 tháng lương và phụ cấp (nếu có) cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người chết do tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động. Còn nếu do lỗi của người lao động thì người sử dụng lao động cũng phải bồi thường ít nhất bằng 12 tháng tiền lương và phụ cấp (nếu có ) *Từ hệ thống bảo hiểm xã hội có một số quy định sau: Trách nhiệm của cơ quan BHXH sẽ phát sinh khi người lao động bị tai nạn lao động,bệnh nghề nghiệp đã được điều trị ổn định Đối tượng được hưởng trợ cấp là những người có tham gia BHXH bị chết hoặc bị suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có tỷ lệ thương tật từ 5% trở lên Mức tiền lương tối thiểu được tính làm căn cứ tính trợ cấp cho các đối tượng được hưởng chế độ này Mức hưởng : Tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động và tỷ lệ thương tật để xét mức hưởng và thời gian hưởng là 1 lần hay định kỳ hàng tháng. Các mức được hưởng theo chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có: Nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 5%-30% được trợ cấp 1 lần có bảng sau: Mức suy giảm khả năng lao động Mức trợ cấp 1 lần 5%-10% 4 tháng tiền lương tối thiểu 11%-20% 8 tháng tiền lương tối thiểu 21%-30% 12 tháng tiền lương tối thiểu Nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên được hưởng trợ cấp hàng tháng kể từ ngày ra viện Mức suy giảm khả năng lao động Mức trợ cấp hàng tháng 31%-40% 0.4 tháng tiền lương tối thiểu 41%-50% 0.6 tháng tiền lương tối thiểu 51%-60% 0.8 tháng tiền lương tối thiểu 61%-70% 1 tháng tiền lương tối thiểu 71%-80% 1.2 tháng tiền lương tối thiểu 81%-90% 1.4 tháng tiền lương tối thiểu từ 91% trở lên 1.6 tháng tiền lương tối thiểu Ngoài ra người bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn được hưởng một số quyền lợi khác như: Người hưởng trợ cấp hàng tháng nếu nghỉ việc mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu sẽ được quỹ BHXH đài thọ về bảo hiểm y tế . Người lao động bị tai nạn lao động tổn thương tới các chức năng hoạt động của chân , tay , tai , mắt , răng , cột sống thì được trang cấp phương tiện trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với các tổn thương chức năng theo niên hạn. Người bị tai nạn lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống , mù hai mắt , cụt hai chi , tâm thần nặng ngoài trợ cấp hàng tháng còn được phụ cấp phục vụ (chi phí cho người phục vụ) bằng 80% mức tiền lương tối thiểu . Người hưởng trợ cấp 1 lần hoặc hàng tháng khi vết thương tái phát được cơ quan BHXH giới thiệu đi giám định lại mức độ suy giảm khả năng lao động Đối với trường hợp bị chết do tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp thì ngoài khoản mai táng phí 8 tháng tiền lương tối thiểu , thân nhân của người chết được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 24 tháng tiền lương tối thiểu và trợ cấp cho thân nhân mà khi còn sống họ phải trực tiếp nuôi dướng sẽ được hưởng trợ cấp tiền tuất theo quy định của trợ cấp tuất . Trong trường hợp người sử dụng lao động chưa đóng BHXH cho người lao động thì phải có trách nhiệm trợ cấp cho người lao động các khoản tương đương do cơ quan BHXH trợ cấp cho người lao động . II-Thực trạng triển khai chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở việt nam 1-Thực trạng về Tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp -về tai nạn lao động : Theo thống kê của bộ lao động –thương binh và xã hội , tình hình tai nạn lao động trong những năm gần đây có xu hướng tăng cả về số vụ , số người bị tai nạn ,số người chết . Không chỉ có sự gia tăng mà tai nạn lao động trong những năm qua đã sảy ra ở mọi ngành nghề , mọi loại hình doanh nghiệp , trong tất cả các thành phần kinh tế . Mỗi năm nước ta có hàng ngàn người bị tai nạn lao động và hàng trăm người chết . Và các con số tăng lên liên tục qua các năm. Có thể nói xu hướng tăng nhanh nhất là từ năm 1995 tới nay. Từ năm 1995 cho tới nay tai nạn lao động luôn gia tăng qua các năm. Từ 1995 đến năm 2000 số vụ tai nạn lao động sảy ra trong quá trình lao động sản xuất dao động từ 2500 đến 3000 vụ lớn nhỏ . Nhưng mới chỉ có 3 năm từ 2000 tới 2002 số vụ tai nạn lao động đã dao động trong khoảng lớn từ 3405 vụ năm 2000 tới 4298 vụ trong năm 2002. Đây thực sự là những con số đáng báo động . Để thấy rõ hơn tình hình tai nạn lao động tại việt nam những năm gần đây ta xem bảng số liệu sau: Tình hình tai nạn lao động giai đoạn 1995-1999 năm số vụ TNLĐ số người bị TNLĐ Tổng số (vụ) (vụ) Sốvụ chết người (vụ) Tổng số (Người ) Số người chết (Người ) 1995 2127 230 2195 264 1996 1853 249 1927 285 1997 1996 347 2166 429 1998 2945 315 3142 365 1999 2609 337 2806 401 (Nguồn : Số liệu thống kê về tai nạn lao động .MOLISA) Tuy nhiên của bộ lao động –thương binh và xã hội có một chút sự sai khác về tình hình tai nạn lao động so với số liệu trên như : năm 1998 số vụ tai nạn là 2727, số vụ gây chết người là 312. năm 1999 số vụ gây chết người là 335, số người chết là 399. Theo bộ lao động thương binh và xã hội tình hình tai nạn lao động từ năm 2000-2002 được thể hiện qua bảng sau: năm Số vụ tai nạn Số vụ chết người Số người bị TN Số người chết (vụ) (vụ) (Người ) (Người ) 2000 3405 368 3530 403 2001 3601 362 3748 395 2002 4298 449 4521 514 Rõ ràng với các số liệu này chúng ta thấy rất rõ số vụ tai nạn lao động tăng liên tục qua các năm nhất là trong năm 2002 số vụ tai nạn lao động đã tăng lên con số cao 4298 ,trong khi năm 2001 số vụ tai nạn là 3601. Như vậy , năm 2002 đã tăng 19.36% số vụ tai nạn lao động so với năm 2001 và với số tuyệt đối khá lớn là 697 vụ. Còn về số người chết nhìn chung tăng qua các năm riêng tới năm 2001 số người chết là 395 giảm 8 người so với năm 2000. Nhưng tới năm 2002 con số người chết lại tăng đột biến 514 người . Tuy nhiên đây mới chỉ là con số thống kê được , con số thực tế có thể còn lớn hơn và còn chưa tính tới số người lao động bị tai nạn giao thông trong thời gian đi và về từ nơi làm việc về nhà . Chỉ tính riêng trong tổng số người tham gia BHXH số người bị tai nạn trên đường năm 2000 là 466 người có 98 người chết , 190 người bị thương nặng ,tàn phế suốt đời. Một nét nổi lên đó là tai nạn lao động mặc dù sảy ra ở hầu hết các ngành nghề song mật độ sảy ra là khác nhau . Điều này có thể lý giải bởi điều kiện làm việc ở các ngành nghề là khác nhau . Một số ngành có số vụ tai nạn lao động , số người chết do tai nạn lao động lớn hơn so với các ngành khác như: ngành xây dựng , ngành điện , khai thác khoáng sản , lĩnh vực có các thiết bị yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động …Sau đây là bảng thống kê về tình hình tai nạn lao động sảy ra ở một số ngành sảy ra nhiều tai nạn: ngành tiêu thức xây dựng Điện khoáng sản T/B an toàn 2001 2002 2001 2002 2001 2002 2001 2002 số vụ tai nạn 208 222 95 135 166 105 80 61 số người chết 51 69 60 75 36 48 33 24 sốngười th/nặng 128 128 19 25 43 55 11 22 Để thấy rõ hơn mức độ sảy ra tai nạn lao động ở các ngành nghề này ta phân tích số liệu trên theo một số tiêu thức như : tỷ lệ số vụ tai nạn lao động , số người chết của các ngành trên so với cả nước qua hai năm: 2001 2002 Tỷ lệ về số vụ tai nạn lao động : 15.24% 12.17% Tỷ lệ về số người chết : 45.57% 42.02% Tỷ lệ người bị thương nặng : 17.3% 19.07% Với bốn ngành nhưng số người chết từ các ngành này về tai nạn lao động đã chiếm một nửa trong tổng số người chết vì tai nạn lao động . Các nguyên nhân thì có nhiều song có thể nói các ngành này người lao động thường xuyên tiếp xúc với các mối nguy hiểm như: ngã ,điện giật , sập hầm…Điều này chứng tỏ mức độ đặc biệt nguy hiểm của các ngành này . Hơn nữa số vụ tai nạn lao động , số người bị thương nặng cũng chiếm tỷ lệ đáng kể . Do đó với các ngành này cần phải đặc biệt chú ý an toàn lao động cho người lao động. Tai nạn lao động cũng không sảy ra đồng đều giữa các khu vực trong phạm vi cả nước . Do các nhà máy ,xí nghiệp , tổ sản xuất …thường tập chung tại các thành phố lớn . Theo số liệu điều tra của bộ lao động thương bình và xã hội thì tai nạn nước ta tập chung chủ yêú tại 6 tỉnh thành phố lớn như: Hà nội , Hải phòng ,Quảng ninh,thành phố HCM, Đồng nai , thái nguyên. Với số liệu điều tra thì năm 2000 số người tai nạn lao động tại các khu vực này chiếm 65.6% trong tổng số người lao động bị tai nạn lao động trong cả nước .Số vụ tai nạn gây chết người chiếm 34%, số người chết chiếm 36.5% so với cả nước .Sang năm 2001 số liệu thống kê 6 tỉnh thành phố có nhiều tai nạn là: thành phố HCM; Hà nội ; Quảng ninh; Bà rịa –vũng tàu ; khánh hoà ; đồng nai . Có số liệu thống kê như sau: tiêu thức thành phố Số vụ tai nạn lao động (vụ) Số người chết (Người ) Thành phố HCM 601 30 Hà nội 364 36 Quảng ning 296 25 Bà rịa-vũng tàu 60 10 khánh hoà 108 15 Đồng nai 676 8 tổng 2105 124 6 tỉnh thành phố trên có tổng số vụ tai nạn lao động là 2105 vụ chiếm 58.46% so với cả nước . Tóm lại mấy năm gần đây tình hình tai nạn lao động đang có xu hướng gia tăng ,sảy ra mọi lĩnh vực mọi khu vực song chủ yếu tập chung tại các khu công nghiệp , các thành phố lớn và diễn ra ở một số ngành yêu cầu đòi hỏi kỹ thuật. Tình hình trên cũng một phần do trong giai đoạn gần đây nhiều ngành nghề kinh tế đã ra đời thu hút ngày càng nhiều người vào hoạt động sản xuất mà phần lớn lại là lao động chưa được đào tạo sâu về kỹ thuật và an toàn lao động . Do tình hình tai nạn lao động tăng liên tục qua các năm mà số tiền chi trả cho chế độ tai nạn lao động cũng gia tăng qua các năm . Sau đây là thống kê không đầy đủ của vụ BHXH về tình hình chi bồi thường được thực hiện từ cơ quan BHXH Q4 từ năm 1995-1999 năm Số người hưởng (người ) Số tiền trợ cấp (triệu đồng) Tổng số t/c hàng tháng t/c 1 lần Tổng số t/c hàng tháng t/c 1 lần Q4-1995 5767 4670 1097 2209 1567 1996 11642 8330 3312 13021 9257 1997 13915 9870 4045 17706 14486 1998 16385 10469 5916 20914 16949 1999 18326 12228 6098 23219 18817 Theo thống kê của bộ lao động thương binh và xã hội thì từ năm 2000-2002 các chi phí thiệt hại do tai nạn lao động là: năm tiêu thức 2000 2001 2002 thiệt hại 16 tỷ đồng 42296 ngày công 12 tỷ đồng 87139 ngày công 17.8 tỷ đồng 196504ngày công Có thể nói đây mới chỉ là những số liệu thống kê không đầy đủ song có thể dễ nhận thấy thiệt hại to lớn do tai nạn lao động cho xã hội và cho ngành BHXH nói riêng Bệnh nghề nghiệp Theo số liệu thống kê của vụ y tế dự phòng bộ y tế thì hàng năm số người đi khám bệnh để phát hiện bệnh nghề nghiệp nước ta có khoảng 20000 người chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ 1.2% tổng số lao động trong các doanh nghiệp . Đây là con số quá ít , do đó có thể có người mắc bệnh nghề nghiệp mà chưa đi khám. Còn trong tổng số người đi khám thì số người phát hiện bệnh nghề nghiệp khoảng 14%. Theo số liệu cộng tích luỹ ở việt nam tới thời điểm 12/2002 có 17416 trường hợp được giám định bệnh nghề nghiệp. Theo tổng kết công tác y tế trong năm 2002 tình hình bệnh nghề nghiệp tiếp tục có xu hướng gia tăng. Trong tổng số 21bệnh nghề nghiệp thì ở việt nam các bệnh được phát hiện nhiều nhất là : Bệnh bụi phổi ,tính tới thời điểm 12/2002 số trường hợp bị mắc bệnh bụi phổi silic là 14075 trường hợp chiếm 80.8%. Sau bệnh bụi phổi là bệnh về da , nhiễm độc chì , bệnh điếc . Riêng đối với bệnh bụi phổi silic ở việt nam chiếm tỷ lệ lớn . Tỷ lệ trung bình trong công nhân tiếp xúc với bụi silic trong giai đoạn 1999-2002 là 9.16%. Trong đó một số ngành có tỷ lệ mắc bệnh cao như: ngành đúc và cơ khí luyện kim có tỷ lệ từ 13-22%; công nhân khai thác và chế biến thancó tỷ lệ mắc là 9.5-13.4%; công nhân sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến có tỷ lệ mắclà 6.5%. Như vậy bệnh nghề nghiệp –bụi phổi silic đang là vấn đề bức xúc và đáng báo động hiện nay ở việt nam. Cũng theo số liệu của vụ y tế dự phòng bộ y tế thì số người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp chiếm 60%số người mắc bệnh trong cả nước với các bệnh buị phổi ,sạm da, nhiễm độc chì, bệnh rung nghề nghiệp. Sau ngành công nghiệp là ngành đường sắt chiếm tỷ lệ 12% số người mắc bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên do công tác thống kê còn hạn chế ,hơn nữa do sợ mất việc làm hoặc bị chuyển việc làm có thu nhập thấp nên người lao động ngại đi khám để phát hiện bệnh nghề nghiệp. Còn chủ sử dụng lao động do nhiệm vụ và vấn đề tài chính nên chưa tổ chức thường xuyên việc khám bệnh theo quy định để phát hiện bệnh nghề nghiệp. Hiện nay bệnh nghề nghiệp đang có xu hướng gia tăng so với những năm trước . Theo số liệu thống kê được thì chỉ tính riêng trong năm 2002 quỹ BHXH đã chi trả trên 4500 trường hợp hưởng trợ cấp hàng tháng và một lần về TNLĐ-BNN với tổng số tiền trên 5 tỷ 500 triệu trong đó chỉ riêng cho BNN gần 1tỷ 400 triệu đồng . Và riêng trong quỹ 1 năm 2003, BHXH việt nam đã giải quyết cho 75 người được hưởng trợ cấp hàng tháng với tổng số tiền trên 7 triệu đồng và 100 người hưởng trợ cấp một lần với tổng số tiền gần 180 triệu đồng do bị mắc bệnh nghề nghiệp đã góp phần chăm lo đời sống cho người lao động . Điều kiện lao động Điều kiện lao động trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay nhìn chung chưa tốt. Với điều kiện lao động như hiện nay đang làm cho Tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp có xu hướng gia tăng. Theo số liệu điều tra của viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội, trong năm 1999 có tới 30% số doanh nghiệp có tình trạng nhà xưởng không phù hợp với công nghệ sản xuất . Người lao động phải làm việc trong điều kiện nhà xưởng tạm bợ. Tình trạng lao động thủ công trong các doanh nghiệp còn phổ biến , tỷ lệ người lao động phải làm việc với các công cụ thủ công chiếm 49.78% tổng số lao động,chỉ có 45.7% làm việc với công cụ cơ khí và nửa cơ khí ,chỉ có 4.5% làm việc với thiết bị tự động hoá . Ngành có lao động thủ công cao nhất là trồng trọt , chăn nuôi(94.57%) và hầu hết các nhóm ngành , các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều có tỷ lệ lao động thủ công nhiều hơn so với các doanh nghiệp quốc doanh. Tình trạng nguyên ,nhiên,vật liệu: Theo số liệu điều tra của vụ y tế dự phòng-bộ y tế thì số người lao động phải tiếp xúc với nguyên,vật liệu không đảm bảo an toàn vệ sinh lao động chiếm tới 32.3% tổng số lao động trong các doanh nghiệp sản xuất .Đây là nguyên nhân phát sinh ra bụi , chứa hoá chất độc,chứa vi sinh vật gây hại, dễ gây chấn thương do va đập,dễ gây cháy nổ, dễ gây bỏng… Môi trường làm việc là nơi mà con người trực tiếp làm việc.Các yếu tố về môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình Tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp gồm: Hơi khí độc, bụi ,tiếng ồn, độ rung và phóng xạ, điện từ trường, nhiệt độ , ánh sáng … Qua khảo sát 642 nghề thì có tới 35% có nồng độ hơi khí độc tại nơi làm việc vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép từ 1 đến hàng trăm lần, có gần 39% số nghề có hàm lượng bụi đo được vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến trên 50 lần, 284 trong tổng số đó có mức độ tiếng ồn tại nơi làm việc vượt tiêu chuẩn cho phép… Công tác an toàn lao động: Theo kết quả điều tra của bộ lao động thương binh và xã hội trên 625 doanh nghiệp quốc doanh, 986 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 120 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì có tới 53.29% số doanh nghiệp làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 29.25% số lao động làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh khi làm việc không có đầy đủ các phương tiện bảo hộ cá nhân. Hàng năm chỉ có 50% các doanh nghiệp trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước được tổ chức học về luật và 80% doanh nghiệp có huấn luyện về kỹ thuật an toàn và nội quy an toàn lao động. ở khu vực doanh nghiệp nhà nước việc huấn luyện kỹ thuật an toàn và nội quy an toàn hiện nay đã trở thành nề nếp ,ngoài ra còn tập trung tuyên truyền bằng nhiều hình thức . Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay công tác này còn nhiều hạn chế với lý do chủ yếu là tài chính . Công tác thanh tra, kiểm tra an toàn , vệ sinh lao động hiện nay giao cho ngành lao động –thương binh và xã hội thực hiện và có sự phối hợp của một số ngành chức năng khác .Trong những năm qua ngành lao động –thương binh và xã hội đã thường xuyên tổ chức kiểm tra các đơn vị doanh nghiệp nhất là với các doanh nghiệp có khả năng sảy ra tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp cao và đã phát hiện kịp thời nhiều đơn vị , cá nhân người lao động chưa chấp hành nghiêm công tác an toàn vệ sinh lao động ,yêu cầu thực hiện đúng quy định ngừng hoạt động với các máy móc ,thiết bị không đảm bảo … Tuy nhiên,việc thanh tra ,kiểm tra chưa được tiến hành kịp thời ,đầy đủ trong diện rộng do số lượng cán bộ làm công tác này chưa đáp ứng với khối lượng công việc nên còn nhiều vụ tai nạn lao động lớn làm chết và bị thương nhiều người ,tổn thất tài sản lớn ,làm ngừng chệ sản xuất . 2-Thực trạng về chế độ chính sách tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp và việc thực hiện chế độ này Chế độ chính sách tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp đã được nước ta thực hiện từ lâu , ngay từ ngày đầu dành lại được độc lập đảng và nhà nước ta đã cho tiến hành . Chế độ này trong giai đoạn phát triển kinh tế đã thể hiện rõ vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững : Đi đôi giữa phát triển kinh tế với đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội . Hơn nữa, đây cũng là một trong số chính sách xã hội đảm bảo quyền lợi cho các thành viên của đảng và nhà nước ta mà chỉ có thực hiện tốt chính sách này thì mới có thể đảm bảo cho nước ta đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa . Chính vì vậy mà đảng mà nhà nước ta có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan cùng xây dựng và hoàn thiện chính sách này . Có rất nhiều văn bản và nghị định được đưa ra nhằm mở rộng không chỉ đối tượng áp dụng ,phạm vi áp dụng , mức trợ cấp , điều kiện hưởng trợ cấp và các quyền lợi khác cho người lao động chẳng may gặp phải tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp mà các văn bản này còn sửa đổi bổ sung một số hạn chế ở các văn bản nghị định trước . Cho tới nay chính sách đối với chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn đang trong quá trình sửa đổi và hoàn thiện nhất là trong giai đoạn nền kinh tế có nhiều biến đổi này . Sau đây là một số điểm chính trong chế độ chính sách tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp: -Đối tượng áp dụng : Đối tượng áp dụng chế độ trợ cấp này đã được quy định trong nghị định NĐ12/CP ngày 26/1/1995 của chính phủ .Nghị định này đối tượng áp dụng còn nhiều hạn chế . Nhưng đến nghị định 110/2002 của chính phủ ngày 27/12/2002 thì đối tượng áp dụng đã được mở rộng ra nhiều .Trong nghị định 110 đã được giới thiệu từ trên , đối tượng đã mở rộng ra bao gồm cả những người : là cán bộ công chức ,viên chức làm việc theo chế độ hợp đồng trong pháp lệnh cán bộ công chức ,người lao động xã viên làm việc và hưởng lương theo hợp đồng lao động và các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã; Người học nghề ,tập nghề để làm việc tại doanh nghiệp ,cơ quan ,tổ chức áp dụng với doanh nghiệp có thuê từ 1 lao động trở lên trong khi năm 1995 đòi hỏi có thuê từ 10 lao động trở lên. Cùng với nghị định 110 thì có thông tư số 10/2003 của bộ lao động thương binh và xã hội có hướng dẫn cụ thể việc thi hành nghị định 110 . Do đó đối tượng áp dụng đã được áp dụng mở rộng và cụ thể hơn rất nhiều . Theo đó nhiều lao động sẽ được hưởng sự bảo đảm từ chế độ này , sẽ tạo sự công bằng cho các lao động hơn. Tuy đã có quy định rất cụ thể về các đối tượng áp dụng song rất nhiều người lao động mặc dù nằm trong các đối tượng trên nhưng vẫn không được hưởng quyền lợi này .Thực trạng này do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu vẫn là do trách nhiệm của người chủ sử dụng lao động : Không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động , hoặc không ký các hợp đồng lao động với người lao động để tránh phải nộp BHXH cho họ . Mà thực tế hiện nay các ngành người chủ sử dụng lao động thường không thu xếp hợp đồng với người lao động lại rơi vào những ngành có tỷ lệ tai nạn lao động cao như xây dựng ,giao thông ,điện … Nguyên nhân của tình trạng này một mặt do vấn đề tài chính của doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh , nhưng mặt khác cũng phải kể tới đó là họ chưa có ý thức cao đối với vấn đề an toàn cho người lao động .Vì vậy việc mở rộng đối tượng áp dụng vẫn chỉ là những quy định còn việc thực hiện nó còn phụ thuộc nhiều vào pháp luật và ý thức của mọi người . -Chế độ chính sách tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp chính sách tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp theo quy định của nước ta được thực hiện từ hai hệ thống là người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Xuất phát từ nguyên tắc khi người lao động bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp thì trách nhiệm chính khắc phục sự cố thuộc về chủ sử dụng lao động ,chúng ta quy định chủ sử dụng lao động có trách nhiệm với người lao động từ khi bị tai nạn lao động tới khi người lao động được điều trị ổn định , còn BHXH chỉ can thiệt sau khi người lao động được điều trị ổn định và có tỷ lệ suy giảm sức khoẻ hay tỷ lệ thương tật từ 5% trở lên. do đó trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay bên cạnh ưu điểm của nó là +Buộc người sử dụng lao động có trách nhiệm đối với vấn đề an toàn lao động + Đảm bảo công bằng cho các đơn vị áp dụng an toàn lao động thì chính sách này lại không đạt hiệu quả tối ưu cho người lao động và cho xã hội . với chính sách này người lao động khi gặp phải tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp để được giải quyết hưởng trợ cấp trải qua nhiều giai đoạn rất phiền phức về thủ tục , trình tự xét duyệt .Thậm chí việc triển khai từ hai hệ thống này cũng dẫn tới việc không rõ ràng từ hai phía trong việc giúp người lao động tái hoà nhập cuộc sống và thích nghi với cuộc sống mới . -Mức trợ cấp từ cơ quan BHXH: Đối với chế độ tai nạn lao động –bệnh nghề nghiệp tuỳ theo tỷ lệ thương tật mà xác định loại trợ cấp và tương ứng với mỗi loại sẽ có những mức trợ cấp tương ứng .Với tỷ lệ thương tật là từ 5%-30% thì trợ cấp 1 lần từ 4 đến 12 tháng lương tối thiểu. Tỷ lệ thương tật trên 30% thì được hưởng trợ cấp định kỳ hàng tháng từ 0.4 đến 1.6 tháng tiền lương tối thiểu .Với việc quy định mức trợ cấp như vậy đã đảm bảo nguyên tắc trợ cấp dựa vào tỷ lệ thương tật ,nhưng vẫn tồn tại một số điểm sau: Mức trợ cấp còn rất thấp : tiền lương làm cơ sở tính là tiền lương tối thiểu đang ở mức thấp 290000 đồng hệ số trên tiền lương còn thấp Mức trợ cấp trên khoảng tỷ lệ thương tật còn chưa đảm bảo công bằng . Ví dụ những người có tỷ lệ thương tật là 31% thì cũng được hưởng mức trợ cấp định kỳ 0.4 tháng tiền lương tối thiểu như những người có tỷ lệ thương tật là 40%. Điều kiện hưởng : Trong chế độ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp có quy định rất rõ Đối với tai nạn lao động thì người lao động gặp phải tai nạn thuộc các trường hợp tai nạn lao động như trong quy định mới được coi là tai nạn lao động . Tuy nhiên có một số điểm chưa rõ như các tai nạn sảy ra trên đường từ nơi làm việc về nhà còn chưa cụ thể . Chính điều này mà có nhiều người đã lạm dụng và truộc lợi gây ra sự mất công bằng . Hơn nữa , để được hưởng trợ cấp BHXH tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp thì người lao động phải có giấy giám định y khoa về tỷ lệ thương tật hay mức độ suy giảm khả năng lao động . Thực chất điều này hết sức quan trọng mà nước nào cũng phải tiến hành . Giấy giám định này được bộ y tế có thẩm quyền xác nhận về mức độ suy giảm khả năng sức khoẻ . Nếu công việc này được làm tốt sẽ đảm bảo sự công bằng cho người lao động . Nhưng hiện nay có hiện tượng đó là có sự gian nạn trong xác định tỷ lệ thương tật : có sự móc nối giữa cơ quan thẩm định và một số ít người lao động bị tai nạn lao động. Nó làm mất công bằng . Quỹ BHXH chi trả cho chế độ tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp : Hiện nay ở nước ta thực hiện BHXH chung cho các chế độ , tức là đồng loạt tất cả người sử dụng lao động và người lao động đều đóng tỷ lệ là 17% quỹ lương người sử dụng đóng và 6% tiền lương người lao động đóng . Quỹ này dùng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0120.doc
Tài liệu liên quan