Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I
Một số lý luận chung về hoạt động xuất khẩu 3
I. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 3
1Khái niệm 3
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 4
II.Tầm quan trọng và nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 7
1.Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế 7
2.Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu 9
CHƯƠNG II
Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam giai đoạn 1990-2000 10
I.Thực trạng hoạt động xuất khẩu 10
1.Về quy mô và tốc độ tăng trưởng 10
2. Cơ cấu thuốc, nguyên liệu và thị trường xuất khẩu 11
II. Những khó khăn và tồn tại hoạt động xuất khẩu dược phẩm 12
1.Khó khăn 12
2. Tồn tại 14
CHƯƠNG III
Phương hướng và một số giải pháp nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong những năm tới 17
I.Phương hướng 17
1.Phương hướng quản lý hoạt động xuất khẩu các năm tới 17
II. Một số giải pháp 18
1.Khuyến khích đầu tư vốn cho sản xuất dược phẩm 18
2.Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu 20
3. Tăng cường hoạt động huy động vốn, hoàn thiện thị trường vốn và thị trường tiền tệ 20
4. Các vấn đề công nghệ 22
5.Đẩy mạnh công tác khai thác thông tin, thị trường 23
6. Đẩy mạnh cải cách hành chính 25
Kết luận 28
31 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam và một số giải pháp nhằm hỗ trợ trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta là phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau:
+Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta ra nước ngoài.
+Xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
+Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi.
+Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
+Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiến tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta.
+Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
+Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
-Xuất khẩu tạo thêm công ăn, việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân.
-Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho kinh tế nước ta gắn chặt với phần công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế,....Đến lượt nó chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2. Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu
-Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có.
-Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật-công nghệ chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh.
-Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu đê tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
-Tạo ra những mặt hàng và nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
Chương II
Tình hình xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong giai đoạn 1990- 2000
I.Thực trạng hoạt động xuất khẩu
1.Về quy mô và tốc độ tăng trưởng
Theo số liệu thống kê cho thấy, hiện nay cả nước có 47 doanh nghiệp đang hoạt động xuất nhập khẩu thuốc trực tiếp, trong đó:
+ Các doanh nghiệp được xuất nhập khẩu nguyên liệu và thành phẩm:31 doanh nghiệp.
+ Các doanh nghiệp chỉ nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất của chính doanh nghiệp mình và xuất khẩu thành phẩm: 8 doanh nghiệp.
+ Các liên doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép nhập khẩu nguyên liệu sản xuất và xuất khẩu thành phẩm: 8 doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu chủ yếu tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội do ở đây có các doanh nghiệp TW cũng như thành phố đóng, điều kiện cơ sở, vốn, cán bộ cũng như quan hệ với bên ngoài thuận lợi hơn.
Như vậy là con số các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu dược phẩm của Việt Nam còn quá nhỏ bé so với khả năng có thể. Kim ngạch xuất khẩu thuốc còn thấp thể hiện qua bảng 1.
Bảng 1: Giá trị xuất khẩu thuốc qua các năm
Năm
Giá trị xuất khẩu (USD)
Tỷ lệ tăng trưởng
1990
4.987.330
1991
4.723.852
-5,30%
1992
5.309.439
12,40%
1993
5.415.201
2,00%
1994
5.816.332
7,41%
1995
13.695.680
135,00%
1996
11.997.000
-12,40%
1997
11.627.000
-3,08%
1998
17.050.930
1,46%
1999
11.428.000
-3,30%
(Nguồn: Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu thuốc của Việt Nam - Cục quản lý dược)
Mặc dù giá trị xuất khẩu có tăng dần qua các năm, song tốc độ tăng còn quá chậm, thậm chí còn giảm so với năm trước.
2. Cơ cấu Thuốc, nguyên liệu và thị trường xuất khẩu
Dược phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong những năm qua là tinh dầu, thuốc đông dược và một số thuốc thông thường. Như vậy, danh mục mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam còn quá hạn chế, nghèo nàn, không đa dạng phong phú. Việt Nam chưa tận dụng được tối đa tiềm lực trong nước.
Bảng 2 Cơ cấu một số loại thuốc, nguyên liệu xuất khẩu qua các năm (USD)
Năm
Loại
1995
1996
1997
1998
1999
Thuốc TT
2.000.000
2.500.000
3.000.000
5.000.000
1.500.000
Thuốc cổ truyền
1.000.000
1.500.000
1.000.000
1.000.000
1.500.000
Rượi bổ, trà
3.000.000
3.000.000
3.000.000
3.500.000
3.000.000
Tinh dầu
5.000.000
3.000.000
3.500.000
6.000.000
3.500.000
Nguyên liệu
2.000.000
1.000.000
1.000.000
1.500.000
1.500.000
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam còn hạn chế, tập trung chủ yếu ở một số nước Đông Âu, Cuba, Lào,Campuchia,....Đồng thời khả năng đáp ứng cho các thị trường này cũng còn quá nhỏ bé. Các doanh nghiệp dược của Việt Nam chủ yếu chỉ mới xuất khẩu tiểu ngạch, chưa có những sản phẩm mũi nhọn và hợp đồng ổn định với các công ty nước ngoài.
II. Những khó khăn và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu dược phẩm.
1.Khó khăn.
- Sự phát triển của thương mại quốc tế, tiến trình hội nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng đặt ra nhiều thách thức đôi với các nước đang phát triển. Bởi vì tự do hoá thương mại sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, không những giữa sản phẩm với sản phẩm mà còn giữa công ty với công ty do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia (mở cửa cho công ty nước ngoài vào kinh doanh trên lãnh thổ nước mình). Toàn cầu hoá sẽ dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nước đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ chế quản lý. Nghị định của Chính phủ số 89/CP ban hành ngày 15/12/1995 về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá từng chuyến đánh dấu một thay đổi quan trọng trong công tác quản lý xuất nhập khẩu. Hàng năm Thủ tướng Chính phủ có quyết định về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước, tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với yêu cầu cấp bách về công tác cải cách hành chính. Căn cứ quy định của Thủ tướng Chính phủ và thông tư hướng dẫn của Bộ Thương mại, các Bộ quản lý chuyên ngành đề ra quy định cụ thể cho ngành mình.
Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 242/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 về điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000, tại điều 9 quy định: “Giao các Bộ, ngành hữu quan sau khi thống nhất với Bộ Thương mại, công bố danh mục và hướng dẫn việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thuộc danh mục hàng quản lý chuyên ngành theo nguyên tắc: chỉ quy định các tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng sử dụng, điều kiện được xuất khẩu, nhập khẩu để doanh nghiệp có cơ sở làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu tại hải quan cửa khẩu, không cấp giấy phép hoặc duyệt mặt hàng, số lượng, trị giá hàng xuất khẩu, nhập khẩu”.
Do tính chất đặc thù của loại hàng hoá này, Bộ Y tế đã có trao đổi với Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan và xin ý kiến Chính phủ duy trì một số quy định về quản lý, cụ thể đã ban hành Thông tư 07/2000/TT-BYT.
Thông tư 07/2000/TT-BYT đánh dấu một bước phát triển trong công tác quản lý, tạo thông thoáng cho doanh nghiệp, đồng thời đi sâu vào quản lý chất lượng và khuyến khích việc đăng ký thuốc lưu hành tại Việt Nam, quy định mở rộng đối tượng tham gia xuất khẩu.
Tuy nhiên, kinh nghiệm quản lý và kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế trong lĩnh vực dược của Việt Nam còn quá ít ỏi, các doanh nghiệp mới chỉ tiếp cận thương mại quốc tế khoảng 10 năm nay, thuốc trong nước chưa đủ cạnh tranh với thuốc nước ngoài.
- Chính sách quản lý sản xuất, xuất, nhập khẩu còn nặng về các biện pháp hành chính , chưa có điều kiện triển khai các giải pháp kỹ thuật về kiểm tra chất lượng một cách tối ưu. Các thủ tục về đăng ký nhãn mác sản phẩm còn quá rườm rà, thiếu tính đồng bộ từ trên xuống dưới.
- Sự khác nhau và không hài hoà giữa hệ thống quy chế Dược của các nước:
+Quy định về đăng ký, xuất khẩu, nhập khẩu thuốc khác nhau giữa các nước. Danh mục thuốc, thực phẩm, mỹ phẩm và các sản phẩm được coi như thuốc của các nước chưa thống nhất.
+ Thiếu thông tin và mất nhiều thời gian để liên hệ với Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép sản xuất, xuất nhập khẩu thuốc của một số nước khi cần thẩm tra những vấn đề cụ thể.
+ Những quy định về quản lý khác nhau giữa các nước như: danh mục, hàm lượng thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần,....
2.Tồn tại.
2.1. Về phía cơ quan quản lý.
Bối cảnh bên ngoài và hoàn cảnh bên trong đang thay đổi với tốc độ nhanh. Bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều cố gắng để bắt kịp các thay đổi nhưng nhìn chung thì hoạt động của toàn hệ thống vẫn còn khá thụ động và trì trệ. Xuất khẩu dược phẩm vì thế chưa có được những định hướng rõ ràng và dài hạn ở tầm vĩ mô. Quản lý xuất nhập khẩu sản phẩm dược vẫn do chính phủ ban hành theo từng năm chưa trở thành một quy định nhất quán, ổn định trong cả thời kỳ dài nên vừa khó cho doanh nghiệp vừa khó cho cơ quan quản lý. Sự liên kết giữa các định chế quản lý còn khá lỏng lẻo, chưa tạo thành một thể thống nhất với chuyển động có hướng đích. Công tác quy hoạch, kế hoạch, thu thập và phổ cập thông tin, xúc tiến thương mại còn có những bất cập nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu nói chung và dược phẩm nói riêng.
- Hệ thống văn bản pháp quy chưa đồng bộ, nhiều văn bản ban hành trước đây chưa được thay thế, bổ sung, khó vận dụng.
- Quyết định 547/TTg có quy định nhiệm vụ của Cục Quản lý Dược về thanh tra. Tuy nhiên do có sự chồng chéo trong các văn bản quy định nên đến nay chức năng này chưa thể triển khai được.
- Kiểm tra hậu mãi đối với ngành dược hiện vẫn là điều khó khăn vì hệ thống quản lý dược chưa hoàn thiện, đặc biệt ở tuyến tỉnh do thiếu cán bộ.
2.2. Về phía doanh nghiệp
Phần lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam đều có sức cạnh tranh yếu, thậm chí rất yếu trên thị trường thế giới. Giá thành cao, chất lượng không ổn định, mẫu mã chủng loại nghèo nàn, bao bì kém hấp dẫn, khả năng giao hàng không chắc chắn, dịch vụ hậu mãi kém,...là những nét đặc trưng phổ biến của rất nhiều chủng loại hàng hoá xuất khẩu. Sản phẩm dược mặc dù có những đặc thù riêng song vẫn không tránh khỏi những tồn tại trên. Khi được hỏi về nguyên nhân của tình trạng này, thì hầu như các doanh nghiệp đổ lỗi nhiều cho “thiếu vốn” và “thiết bị lạc hậu”. Hai yếu tố này tác động qua lại và tạo thành vòng xoáy khiến doanh nghiệp dù “rất mong muốn nhưng không thể thoát ra được”. Vốn và thiết bị đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm nhưng bên cạnh vốn và thiết bị còn rất nhiều yếu tố khác cũng tác động vào sức cạnh tranh của sản phẩm. Những yếu tố này có thể là yếu tố vĩ mô (như lãi suất, thuế suất,....) nhưng cũng có thể là yếu tố vi mô (như quy trình sản xuất và khả năng quản lý của từng doanh nghiệp,....). Nếu có thể cải tổ những yếu tố này thì vấn đề vốn và thiết bị nhiều khi lại trở thành vấn đề thứ yếu trong việc nâng cao sức cạnh tranh. Một tài liệu nghiên cứu gần đây chỉ ra rất rõ rằng “ Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại xu hướng cạnh tranh dựa trên mức lương thấp và các nguồn tài nguyên thiên nhiên”. Đây là nhận xét hoàn toàn chính xác. Có thể nói phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang theo đuổi một chiến lược cạnh tranh thụ động là dựa vào các “lợi thế vốn có”. Các yếu tố như lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí độc quyền, trợ cấp riêng rẽ, lãi suất ưu đãi, ... được nhiều doanh nghiệp coi như là cơ sở để tồn tại và phát triển. Rất ít doanh nghiệp dám theo đuổi một chiến lược chủ động mà điểm cót lõi của nó là tạo ra một vị thế cạnh tranh khác biệt, mang tính dài hạn, dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành và khả năng tạo ra các sản phẩm độc đáo hơn cũng như quy trình sản xuất hợp lý hơn. Hơn nữa do đặc thù của ngành, một số doanh nghiệp chưa nghiên cứu kỹ quy định về xuất nhập khẩu thuốc và các quy chế chuyên môn dẫn đến việc lập đơn hàng có nhiều sai sót gây mất thời gian cho chính doanh nghiệp và cơ quan quản lý.
Một số doanh nghiệp cả trong nước và nước ngoài vi phạm về lập đơn hàng dẫn đến vi phạm về những quy định lưu thông phân phối thuốc.
Hiện nay xuất hiện tình trạng vi phạm về chất lượng thuốc. Bộ phận đảm bảo chất lượng thuốc của một số doanh nghiệp hoạt động chưa thực sự có hiệu quả. Vấn đề chất lượng thuốc phải được quan tâm ngay từ khâu lựa chọn nguyên liệu đầu vào. Nếu nhà sản xuất không quan tâm đến các điều kiện kỹ thuật, nguyên liệu đầu vào thì có thể sẽ sản xuất ra những loại thuốc kém chất lượng.
Hoạt động tái xuất khẩu không có ý kiến của Bộ Y tế (Cục quản lý Dược).. Một số trường hợp thuốc không đạt chất lượng đã có công văn yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ nhưng doanh nghiệp vẫn tái xuất khẩu có thể để sử dụng hoặc tái chế ở nước ngoài, gây những hậu quả và ảnh hưởng không tốt đối với thị trường thuốc.
Như vậy, xét về tổng thể , tuy đã đạt nhiều thành tích đáng khích lệ nhưng hoạt động xuất khẩu dược phẩm vẫn còn khá nhiều mặt tồn tại và bất cập. Những tồn tại và bất cập này đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân nhưng cũng lại là hậu quả của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt khoát và có hệ thống trong thời gian tới đây.
Chương III
Phương hướng và một số giải pháp nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu dược phẩm của Việt Nam trong những năm tới.
I.Phương hướng
1.Phương hướng quản lý hoạt động xuất khẩu các năm tới
Việc quản lý xuất nhập khẩu thuốc đã được luật hoá và thông qua hoạt động quản lý, Bộ Y tế có trách nhiệm đối với chất lượng thuốc.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng tại công văn số 2961/VPCP-KTTH của Văn phòng Chính phủ: “Để hoạt động xuất nhập khẩu được điều hành nhất quán, ổn định và đạt mục tiêu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, kiểm soát được nhập khẩu ( đáp ứng được yêu cầu của đầu tư và sản xuất trong nước) chủ yếu bằng các biện pháp thuế quan và các chính sách bảo hộ có mục tiêu, có thời hạn, đồng thời phải phù hợp với yêu cầu cấp bách về công tác cải cách hành chính cũng như tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế”, trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm quản lý các năm qua, nhằm đảm bảo tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, Bộ Y tế đã dự kiến cơ chế và quy định điều hành xuất nhập khẩu áp dụng cho nhiều năm.
Dự thảo của Bộ Y tế trên nguyên tắc tạo thông thoáng, thuận lợi cho các doanh nghiệp, khuyến khích xuất khẩu nhưng vẫn phải đảm bảo thực hiện đúng các quy chế chuyên môn nhằm đảm bảo chất lượng thuốc, giữ uy tín cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế; đề cao trách nhiệm Giám đốc doanh nghiệp; đảm bảo trật tự thị trường thuốc trong nước; chống việc sản xuất và lưu hành thuốc sai quy chế; gian lận thương mại, xin sản xuất thuốc xuất khẩu nhưng thực tế tiêu thụ tại thị trường trong nước.
Xuất khẩu thuốc và nguyên liệu làm thuốc đã có số đăng ký, không chứa hoạt chất thuộc danh mục thuốc gây nghiện, tiền chất.
Khi có nhu cầu xuất khẩu các mặt hàng thuốc, nguyên liệu dược sản xuất trong nước thì doanh nghiệp chỉ cần làm thủ tục xuất khẩu tại Hải quan cửa khẩu theo quy định của Hải quan. Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đảm bảo thuốc xuất khẩu đúng các chỉ tiêu đã đăng ký như: tên thuốc, số đăng ký, tên nhà sản xuất, thành phần, hàm lượng,thời hạn sử dụng, tiêu chuẩn chất lượng, nhãn mác,....Nếu thuốc xuất khẩu có thay đổi so với thuốc đã đăng ký thì doanh nghiệp phải xin phép Cục Quản lý Dược đồng thời phải cung cấp các tài liệu cần thiết có liên quan cho Hài quan.
Đối với hoạt động xuất khẩu thuốc, nguyên liệu thuốc nước ngoài đã nhập khẩu vào Việt Nam thì: doanh nghiệp phải có giấy uỷ quyền của công ty nước ngoài và ý kiến đồng ý của Cục Quản lý Dược Việt Nam.
Đối với hoạt động xuất khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc chưa có số đăng ký: Căn cứ Nghị định 89/CP, thuốc là hàng hoá đặc biệt, mỗi thuốc có chỉ tiêu kỹ thuật khác nhau, Bộ Y tế không thể đưa ra các chỉ tiêu kỹ thuật chung cho tất cả các thuốc để Hải quan làm căn cứ cho phép xuất khẩu. Do đó, đối với thuốc, nguyên liệu làm thuốc chưa có số đăng ký, các doanh nghiệp phải lập đơn hàng xuất khẩu kèm theo hồ sơ kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế (Cục Quản lý Dược) để được cho phép xuất khẩu.
II. một số Giải pháp
1.Khuyến khích đầu tư vốn cho sản xuất dược phẩm
Hoạt động thương mại bắt nguồn từ hoạt động sản xuất. Vì lý do đó hoạt động đầu tư cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh nguồn hàng với khối lượng lớn và chất lượng cao, tạo được nhiều ngành hàng chủ lực, đáp ứng đúng nhu cầu và thị hiếu trên thị trường ngoài là yếu tố hết sức quan trọng. Chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu cần được thi hành một cách triệt để và nhất quán hơn theo nguyên tắc sản xuất hàng xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một. Các hình thức ưu đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu, nhất là hoạt động xuất khẩu dược phẩm trong thời gian hiện nay. Để xuất khẩu dược phẩm có được nguồn vốn đầu tư cần thiết trong hoàn cảnh tích luỹ nội bộ có hạn cần phải thực hiện một số biện pháp như:
- Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất hàng xuất khẩu: cho phép vay vốn với lãi suất ưu đãi thấp, giảm hoặc miễn nộp thuế lợi tức một số năm đối với một số sản phẩm làm ra trong những năm đầu chưa có lãi hoặc lãi thấp, Nhà nước có thể áp dụng chính sách trợ cấp có điều kiện,....
- Xoá bỏ ngay các thủ tục phiền hà, đặc biệt là việc phê duyệt nhập khẩu máy móc thiết bị. Hiện nay, do các doanh nghiệp dược phẩm của Việt nam có trình độ và điều kiện về vốn còn thấp nên nhu cầu về đổi mới công nghệ là cần thiết song không phải ở mức độ cao, mà điều đó còn phụ thuộc vào thực tế của doanh nghiệp và không phải doanh nghiệp nào cũng cần những máy móc, thiết bị hiện đại nhất. Do vậy các chính sách về nhập khẩu máy móc,thiết bị cũng cần linh động sao cho phù hợp với tình hình thực tế.
Chính sách khuyến khích đầu tư cần được xây dựng dựa trên các tiêu chí như tính chủ lực, cấp độ chế biến,....để tránh tình trạng khuyến khích dàn đều, không có định hướng xây dựng sản phẩm chủ lực. Chúng ta cần dựa vào những thế mạnh về nguồn nguyên liệu dược phẩm rất phong phú và đa dạng, nguồn nhân công rẻ,.... để xây dựng cho mình một chiến lược xuất khẩu chủ động, có tính tập trung vào sản phẩm chủ lực. Đồng thời cần ưu đãi, khuyến khích mạnh đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị.
Song song với việc đề cao vị trí của đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, cần hết sức chú ý ổn định môi trường đầu tư. Trong các yếu tố của tổng cầu thì hoật động đầu tư là yếu tố tự thân, phụ thuộc rất nhiều vào nhận định chủ quan của nhà đầu tư, không biến thiên theo thu nhập. Vì lý do đó, ngoài việc ban hành các chính sách khuyến khích, việc duy trì môi trường đầu tư ổn định nhằm tạo tâm lý tin tưởng cho nhà đầu tư mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
2.Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu
Tính năng động và tính hiệu quả của nền kinh tế là hai yếu tố quyết định sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu khai thác được thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có thể đóng góp được nhiều hơn nữa cho xuất khẩu nếu sự tham gia của họ vào hoạt động kinh tế là sự tham gia bình đẳng với thành phần kinh tế quốc doanh. Trước hết là phải bảo đảm bình đẳng hoàn toàn trong việc tiếp cận các yếu tố đầu vào (vốn tín dụng, đất đai, lao động) sau đó là sự bình đẳng trong việc nhận hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ kinh doanh từ phía Nhà nước.
Cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức xuất khẩu dược phẩm để từ đó tạo ra nhiều cơ hội cho sự tham gia của các chủ thể kinh tế tư nhân. Đơn giản hoá đến mức tối đa các thủ tục thành lập doanh nghiệp để kích thích các cá nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất. Nhận thức rõ các yếu tố dân sự trong hoạt động kinh tế như nợ nần, phá sản, mất khả năng chi trả,.... để chấm dứt tình trạng hình sự hoá các vấn đề dân sự gây nản lòng các nhà đầu tư tư nhân.
Tăng cường năng lực cho hệ thống ngân hàng trong việc nhận định rủi ro để giảm dần hình thức cho vay bảo đảm bằng thế chấp sang cho vay trên cơ sở thẩm định tính khả thi của dự án.
3. Tăng cường hoạt động huy động vốn, hoàn thiện thị trường vốn và thị trường tiền tệ
Cơ cấu nguồn thu ngân sách cần được thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận tái đầu tư cho xuất khẩu.
Hiện nay số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đang chiếm trên dưới 30% tổng số thu từ thuế các loại. Thuế xuất nhập khẩu, do dễ thu và dễ cưỡng chế, đã được huy động một cách tối đa. Thực tiễn này vừa góp phần làm giảm động lực phát triển ngoại thương vừa không phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại trên toàn thế giới, vừa đưa ngân sách vào tình trạng cực kỳ khó khăn khi những cam kết giảm thuế có hiệu lực và làm cho nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm mạnh. Để giải quyết tình trạng này, cần gấp rút thay đổi cơ cấu nguồn thu, tăng tỷ trọng cuả các sắc thuế khác như các loại thuế trực thu, thuế hàng hoá, tháo bỏ những cản trở đối với việc thu một số loại thuế như thuế chuyển quyền sử dụng đất để giảm dần tỷ trong của số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu.
Tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đi đôi với việc tạo tiền đề cho đa dạng hoá nguồn vốn; khuyến khích mạnh vốn đầu tư cho khu vực sản xuất hàng xuất khẩu.
Khuyến khích thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro. Tại các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc,... . đều có các tổ chức xúc tiến xuất khẩu độc lập. Tổ chức này có trách nhiệm hỗ trợ tối đa cho người xuất khẩu trên cơ sở phi lợi nhuận (chỉ thu của người xuất khẩu một khoản đủ để bù đắp chi phí). Qua tổ chức này, người xuất khẩu có thể thu thập được nhiều thông tin hữu ích về thị trường nước ngoài, về bạn hàng nhập khẩu,....Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu tới nay đã được mở cho tất cả các doanh nghiệp nên đã đến lúc cần có sự thay đổi cơ bản về phương thức quản lý hoạt động của các doanh nghiệp và phương pháp phổ cập thông tin (bao gồm thông tin về hàng hoá, thị trường, giá cả cũng như các quy định về quản lý xuất nhập khẩu,.....). Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn chưa thực hiện được quyền mà Chính phủ trao cho họ chỉ vì hiểu biết hạn chế về thị trường nước ngoài, nghiệp vụ ngoại thương cũng như các quy định của Nhà nước có liên quan tới hoạt động quản lý xuất nhập khẩu.
Trong thời gian tới, cần tăng cường sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Các công cụ như tỷ giá hối đoái, bảo lãnh bán hàng trả chậm, cho vay theo thành tích xuất khẩu, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn,..... đều có thể tác động nhanh và mạnh đến xuất khẩu. Cần khẩn trương cải cách hệ thống trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng thương mại để tránh hiện tượng co cụm, giảm dư nợ như đã xảy ra tại Thái Lan khi số lượng các khoản nợ khó đòi tăng nhanh. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy việc cải tổ hệ thống ngân hàng thương mại, từ đó giải quyết vấn đề vốn cho kinh doanh là việc làm có tầm quan trọng hàng đầu trong tiến trình “chấn hưng” kinh tế và đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu. Ngoài ra, việc cơ cấu lại hệ thống trung gian tài chính, trong đó có cả ngân hàng, còn góp phần quan trọng trong việc làm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh và thúc đẩy cạnh tranh phát triển.
4.Các vấn đề công nghệ
Thực trạng công nghệ yếu kém và lạc hậu đã ảnh hưởng rất mạnh đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Riêng đối với ngành Dược thì điều này thể hiện khá rõ nét. Dây chuyền sản xuất ở Việt Nam còn mang nặng tính chất thủ công, tốn nhiều thời gian mà đặc điểm của sản phẩm lại đòi hỏi đảm bảo chất lượng ở mức độ cao, có kiểm tra độ an toàn chặt chẽ.Điều này cho thấy sự đổi mới công nghệ sản xuất là hết sức cần thiết và cấp bách.
Chú trọng nhập khẩu các loại công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp. Việc hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhưng phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn. Đòi hỏi phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kế khả năng quản lý và vận hành của cơ sở sử dụng thiết bị thực chất không kém gì nhập khẩu thiết bị lạc hậu.
Các loại thiết bị công nghệ cao thường sử dụng ít hoặc rất ít lao động. Trong một số trường hợp, việc nhập khẩu các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0703.doc