Đề tài Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU - Giải pháp phát triển

LỜI MỞ ĐẦU .1

 NỘI DUNG .2

 I - Tổng quan về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. .2

 1 ) Vai trò của hoạt động xuất khẩu .2

 2 ) Vai trò của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam .2

II - Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Viẹt Nam sang thị

 trường Châu âu .4

 1 ) Thị trường EU và hàng dệt may Việt Nam .4

1.1 Thị trường EU .4

1.2 Phương thức xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị

 trường EU .4

 2 ) Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU.6

 2.1 Kim ngạch xuất khẩu .6

 2.2 Quản lý và thực hiện hạn ngạch dệt may vào thị trương EU .7

2.3 Khó khăn và thuận lợi .8

 III - Các giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may .10

 1 ) Cải thiện môi trường đầu tư .10

 2 ) Chính sách về nguyên liệu và phát triển sản phẩm .11

 3 ) Công tác quản lý hạn ngạch hàng dệt may vào thị trường EU .12

 4 ) Đầu tư nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất

 khẩu sang thị trường EU .13

 5 ) Tăng cường khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư .14

 KẾT LUẬN.15

 MỤC LỤC . .16

 TÀI LIỆU THAM KHẢO .17

 

doc16 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2582 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU - Giải pháp phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. Từ đó góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội. Hàng dệt may còn có vị trí đặc biệt quan trọng với sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, trong điều kiện buôn bán với các nước đang ngày càng được mở rộng, phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, hàng dệt may luôn là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta, đem lại nguồn thu ngoại tệ tương đối lớn để mua máy móc thiết bị,HĐH đất nước. Mặt khác sự phát triển ngành dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn, thông qua tăng trưởng sản xuất bông, đay, tơ tằm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. II - tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU. 1. Thị trường EU và hàng dệt may Việt nam 1.1.Thị trường EU. EU là một thị trường rộng lớn với khoảng hơn 375 triệu người tiêu dùng, bao gồm 15 quốc gia nên nhu cầu về hàng hoá rất đa dạng và phong phú, đặc biệt đối với hàng dệt may có tính mùa vụ và thời trang cao. Tuy có sự khác biệt về tập quán và thị hiếu tiêu dùng giữa thị trường của các quốc gia song 15 nước trong khối EU đều nằm ở khu vực tây và Bắc âu nên có những tương đồng về kinh tế và văn hoá. Trình độ phát triển kinh tế của các nước này khá đồng đều nên người EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng. Người tiêu dùng EU có những sở thích và thói quen sử dụng hàng của những hãng nổi tiếng thế giới vì họ cho rằng những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng và uy tín lâu đời nên sử dụng những mătj hàng này có thể yên tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Những sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ít danh tiếng hay những nhãn hiệu ít biết đến sẽ rất khó tiêu thụ ở thị trường này. EU là một cộng đồng kinh tế hùng mạnh và là trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại. Mức sống của dân cao và tương đối đồng đều nên họ yêu cầu khắt khe về chất lượng và độ an toàn. Vì thế cạnh tranh về giá cả không hẳn là một biện pháp tối ưu khi xâm nhập thị trường này. 1.2 Phương thức xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU. Dựa trên đặc điểm và quá trình phát triển của mình, nhành dệt may Việt Nam đã đi vào thị trường thế giới trong đó có EU theo hai phương thức: gia công xuất khẩu theo hiệp định và xuất khẩu trực tiếp. a- Hình thức gia công xuất khẩu theo hiệp định. Theo hình thức này để nguyên phụ liệu trở thành thành phẩm phải trải qua ba trung tâm như ba mắt xích của quá trình sản xuất, đó là: nhà sản xuất- người đặt hàng- người tiêu dùng. Trong đó người đặt hàng giữ vai trò trung gian. Các nước trung gian nhận đơn đặt hàng của khách hàng và tổ chức điều hành, tiếp thị, phân phối và các nước nhận gia công tổ chức giáp nối với mẫu mã và nguyên vật liệu được cung cấp sẵn, phát triển dần từ hình thức may gia công đến các hình thức sản xuất khác với các công đoạn phức tạp hơn, giá trị gia tăng cao hơn. Hiện nay, hơn 70% hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU dưới hình thức này. Một thực tế có thể thấy ngay là qua trung gian, các nhà sản xuất và công nhân phải chấp nhận giá công rất thấp. Trung bình các nhà sản xuất chỉ nhận được khoảng 20% tính trên giá thành xuất khẩu, còn 80% thuộc về người đặt hàng và các công ty trung gian cung cấp nguyên phụ liệu và mẫu mã. Ngoài ra, chúng ta còn mất quyền chủ động trong kinh doanh. Mặc dù vậy, gia công xuất khẩu vẫn là phương thức quan trọng để hàng dệt may Việt Nam tham gia vào thị trường EU. Ưu điểm có thể thấy rõ của phương thức này là độ rủi ro ít. vốn đầu tư đòi hỏi không nhiều. Hơn nữa, do nhu cầu giải quyết việc làm, ngành dệt may vẫn tiếp tục khuyến khích thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu phù hợp với việc phân bổ hạn ngạch. b-Hình thức xuất khẩu trực tiếp Đây là kiểu tổ chức sản xuất chỉ bao gồm chủ đặt hàng và người sản xuất. Theo phương thức này, giá trị gia tăng tạo ra cao hơn phương thức gia công trong tam giác sản xuất. Giá trị gia tăng bao gồm chi phí nhân công và chi phí nguyên phụ liệu. Các nhà sản xuất Việt nam có thể thoả thuận với chủ đặt hàng về việc sử dụng nguyên phụ liệu trong nước có thể sản xuất ra. Hiện nay, tỷ lệ xuất khẩu hàng dệt may vào EU theo hình thức này còn quá nhỏ , chỉ chiếm từ 20%-30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam vào thị trường này. Tăng lượng xuất khẩu theo giá FOB là mục tiêu của ngành bởi bán hàng theo hình thức này đem lại lợi nhuận cao. Thị trường EU nổi tiếng là khó tính và đòi hỏi hàm lượng chất xám cao trong sản phẩm, phần lợi nhuận lớn nằm trong các công đoạn đòi hỏi chất xám đó. Bên cạnh đó xuất khẩu theo hình thức này giúp cho các nhà sản xuất có thể tiếp cận trực tiếp với thị trường, nắm được nhu cầu thị hiếu và các xu hướng, tránh được tính mùa vụ và những bị động mà hình thức gia công gặp phải. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp và người tiêu dùng bắt đầu biết được hàng dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, muốn xuất khẩu hàng dệt may theo phương thức này các doanh nghiệp Việt Nam phải nắm chắc các thông tin về thị trường, về các nhà cung cấp nguyên phụ liệu, thông tin khách hàng...Chính sự yếu kém trong công tác thông tin hiện nay là nguyên nhân dẫn đến thực trạng tỷ lệ hàng dệt may xuất khẩu trọn gói theo giá FOB thấp. Trong thời gian tới khắc phục sự yếu kém này. 2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU. 2.1 Kim ngạch xuất khẩu: Từ khi hiệp định VN-EU về hàng dệt may chính thức có hiệu lực vào năm 1993, gía trị sản phẩm công nghiệp dệt may tăng nhanh rõ dệt làm thay đổi bộ mặt ngành dệt may nước ta. Kim ngạch xuất khẩu có sự gia tăng nhanh chóng, tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1993- 1998 là 42,65%,(riêng năm 1992 chỉ đạt 161tr USD thì đến năm 1993 là 259tr, tức là tăng55,3%/năm), cao hơn 2 lần tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân cả nước cùng thời kỳ, tỷ trọng kim nhạch xuất khẩu hàng dệt may vào EU thường chiếm khoảng 34%-38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường hạn ngạch chiếm 39%, tăng 3% so với cùng kỳ năm 1998, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang EU chiếm 80% thị trường hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN vào EU vẫn có sự tăng trưởng qua các năm: năm1994 là 298trUSD, năm 1995 là 350trUSD, năm 1996 khi hiệp định được chính thức ký kết, số mặt hàng dệt may bị quản lý đã giảm từ 106 Cat xuống còn 29 Cat, kim ngạch xuất khẩu tăng 1,68 lần so với năm 1993(kim ngạch năm 1996 là 420trUSD). Hiệp định buôn bán hàng dệt may VN-EU giai đoạn 1998-2000 được ký kết tháng 11/1997 cho phép nâng hạn ngạch từ VN sang EU tăng 40% so với giai đoạn 1993-1997 với mức tăng trưởng từ 3-6%/ năm, số mặt hàng quản lý giảm xuống còn 29 Cat, kim ngạch xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng và đạt khoảng 602 trUSD thị trường EU chiếm 41,52% trong năm 1998. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước đạt 1,7 tỷ USD thì riêng EU đã chiếm khoảng 620trUSD, chiếm 35,5%, tăng gần 3% so với năm 1998. Năm 2000, theo số liệu hải quan, thì toàn ngành dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu là 1.892,3trUSD tăng 8% so với năm 1999, trong khi thị trường hạn ngạch (chủ yếu là EUchiếm 96%) đạt trên 700trUSD, tăng 9,74% so với năm 1999. Tháng 3/2000, VN đã ký kết với EU hiệp định song phương về hàng dệt may và giày dép, theo đó EU sẽ tăng hạn ngạch dệt may cho VN lên 27%. Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực từ 05/06/2000 và sẽ kéo dài hết năm 2002. Và nếu đến thời điểm đó hai bên không có ý kiến gì thì hiệp định được nghiễm nhiên gia hạn thêm một năm. Những ưu ái mà EU dành cho VN đã cho thấy EU đánh giá cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của VN. Đay chính là cơ hội để ngành dệt may VN tăng kim ngạch xuất khẩu trong các năm tới. 2.2 Quản lý và thực hiện hạn ngạch dệt may vào thị trường EU: Theo hiệp định buôn bán hàng dệt may VN-EU, trong giai đoạn đầu (1993-1995), số mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch là 106Cat. Hai năm tiếp theo giảm xuống còn còn 54Cat và giai đoạn 1998-2000 chỉ còn 29Cat. Căn cứ trên số lượng hạn ngạch được quy định cho hằng năm theo hiệp định, các doanh nghiệp dệt may trong cả nước được thông báo để tiến hành đăng ký hạn ngạch sử dụng. Sau mỗi năm, tuy tình hình thực hiện cụ thể và diễn biến mới trên thị trường EU, quy định về việc quản lý và sử dụng hạn hạn ngạch có sự thay đổi cho phù hợp. Các doanh nghiệp trong cả nước có nhu cầu sử dụng hạn ngạch phải gửi về vụ xuất nhập khẩu Bộ Thương Mại. Việc giao hạn ngạch có thu phí được tiến hành theo nguyên tắc công khai, bình đẳng, khuyến khích xuất khẩu sản phẩm có sử dụng nguyên liệu trong nước. Đối tượng được giao hạn ngạch là các daonh nghiệp sản xuất hàng dệt may đủ kỹ thuật làm hàng xuâts khẩu, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư nước ngoài tại VN. Đối với thị trường EU, 30% hạn ngạch từng chủng loại hàng được dành cho các doanh nghiệp ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng là nhà công nghiệp Châu Âu do Uỷ ban Châu Âu giới thiệu. Ngoài ra, một tỷ lệ hạn ngạch khoảng 5% để ưu tiên và thưởng khuyến khích cho các daonh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước, mức ưu tiên không quá 10% số hạn ngạch cùng chủng loại doanh nghiệp đã thực hiện năm trước. Các doanh nghiệp được giao hạn ngạch, nếu không có khả năng thực hiện phỉa hoàn trả cho Bộ Thương Mại để liên bộ điều chỉnh cho daonh nghiệp khác, không được mua bán hạn ngạch. Sự phối hợp của liên bộ trong việc phân bổ và quản lý hạn ngạch dệt may vào EU thời gian qua đã có tác động tích cực trong việc đẩy mạnh hàng dệt may VN vào thị trường EU. 2.3 Khó khăn và thuận lợi : a) Thuận lợi: Hàng dệt may VN xuất khẩu vào thị trường EU có những thuận lợi sau: - EU là một thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới, đây cũng là khu vực khá ổn định và có đồng tiền riêng tương đối ổn định.Với triển vọng phát triển kinh tế rất khả quan của EU và triển vọng mở rộng EU lên 28 thành viên trong những năm tới thì thị trường EU sẽ trở thành môi trường lý tưởng cho các nhà xuất khẩu VN noí chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng thể hiện sức mạnh của mình. - EU đang từng bước đẩy mạnh quan hệ hợp tác phát triển với VN trên tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.Mở đầu cho quan hệ hợp tác giữa VN và EU là hiệp định về hàng dệt may được ký ngày 15/12/1992,có hiệu lực trong 5 năm, từ 1/1/1993. Tháng 11/1997 hai bên đã ký hiệp định buôn bán hàng dệt may cho giai đoạn 1998-2000. Nó đã tạo nên điều kiện thuận lợi và ổn định cho sự phát triển sản xuất kinh doanh các sản phẩm dệt may của VN, đồng thời tạo cho VN cơ hội tiếp cận và hội nhập cách làm ăn hiện đại trên thế giới. b) Khó khăn : Sau 5 năm thực hiện hiệp định hàng dệt may , EU đã trở thành thị trường hàng may mặc lớn nhất của Việt Nam . Mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng cũng còn gặp nhiều khó khăn : - Thiếu bạn hàng tiêu thụ trực tiếp , không ký được hợp đồng xuất khẩu trực tiếp với các bạn hàng EU mà phải thông qua trung gian nên gần 80 % hàng dệt may xuất khẩu sang EU phải gia công qua nước thứ ba, hiệu quả kinh tế thấp . Phần gia công cho các nước khác ( không thuộc ASEAN ) xuất sang EU thì không được hưởng ưu đãi thuế quan dành cho Việt Nam . - Số lượng hàng hoá EU dành cho Việt Nam còn quá thấp so với nhiều nước và khu vực băng 5 % của Trung Quốc , 10 – 20 % của các nước ASEAN . - Số hạn ngạch bị hạn chế so với thành nhiều nhóm hàng so với các nước khác Thái Lan co 20 nhóm hàng , Singapore có 8 nhóm hàng trong khi đó Việt Nam 1993 – 1995 có 106 nhóm hàng , 1996 – 1998 có 54 nhóm , từ 1998 có 29 nhóm hàng . - Sản phẩm xuất khẩu chỉ tập trung vào một số sản phẩm truyền thống ( hàng quen làm dễ thu lợi nhuận ) như : áo Jacket , áo sơ mi và quần tây. Các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp , chất lượng cao thì Việt Nam chưa sản xuất được hoặc sản xuất với một tỷ lệ thấp . III- các giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may VN sang thị trường Châu âu 1.Cải thiện môi trường đầu tư Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất để phát triển bất cứ một ngành sản xuất kinh doanh nào. Việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may VN đòi hỏi phải có sự đầu tư đồng bộ từ khâu nguyên liệu sản xuất , tìm kiếm thị trường và xuất khẩu hàng hoá. Do vậy vấn đề đầu tư càng trở nên quan trọng. Về cải thiện môi trường đầu tư, chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010(Báo cáo của BCH TW Đảng khoá VIII tại ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX của Đảng) đã chỉ rõ:” Tiếp tục cải thiện môi trường, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và phát luật đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty nắm công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thế giới...”.Cải thiện môi trường đầu tư phải tính đến vấn đề hoàn thiện các văn bản luật và dưới luật, cần có sự điều chỉnh kịp thời các quy định còn không phù hợp hay chưa rõ ràng. Với chính sách đầu tư trong nước, Nhà nước nên tập trung đầu tư vào một số doang nghiệp nhà nước có năng lực, có khách hàng, làm ăn có hiệu quả. Tiến hành cổ phần hoá, tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả. Cổ phần hoá doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp may, không chỉ là giải pháp cơ bản nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư từ trong nước mà còn là giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.Để đẩy nhanh cổ phần hoá ngành may, cần giải quyết một số vướng mắc làm chậm tiến trình này như bất cập trong đánh giá lại tài sản, trong đối xử với các đối tượng mua cổ phần... Với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, cần có chính sách khuyến khích đầu tư dưới mọi hình thức:các xí nghiệp liên doanh, cổ phần hay 100% vốn nước ngoài. Tập trung đầu tư vào các mặt hàng mới phức tạp mà doanh nghiệp chưa có khả năng sản xuất ưu tiên dành hạn ngạch cho doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư tìm thị trường phi hạn ngạch. Thu hút sự giúp của các tổ chức quốc tế, tăng cường khai thác quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Liên minh châu Âu để phát triển doanh nghiệp dệt may. Đặc biệt cần tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường thế giới cho “ sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện nay, các doanh nghiệp công nghệ dệt nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO 14000. Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước quan tâm nhiều đến môi trường có thể là hướng giải quyết tốt cho VN trước khó khăn này. 2- Chính sách về nguyên liệu và phát triển sản phẩm. Hiện nay, phần lớn nguyên phụ liệu của ngành dệt may Việt Nam như bông, sợi tổng hợp, hoá chất nhuộm, vải chất lượng cao phục vụ cho may xuất khẩu các phụ liệu may mặc khác vẫn phải nhập khẩu nên khó khăn sản xuất các mặt hàng này là việc làm cần thiết vừa để giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên phụ liệu nhập ngoại chủ động trong sản xuất kinh doanh, vừa để nâng cao lợi nhuận, hiệu quả xuất khẩu, nhờ đó ngành dệt may Việt Nam có thể phát triển nhanh hơn. Nhà nước cần phải có những biện pháp quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu và có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu để tạo nguồn nguyên liệu cho ngành dệt. Về sản xuất sợi tự nhiên thì việc quy hoạch khu vực trồng bông và hỗ trợ người trồng bông là cần thiết trước mắt. Vì vậy nhà nước cần quy hoạch vùng trồng bông trên cơ sở bố trí lại cơ cấu cây trồng thích hợp để tăng diện tích trồng bông, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, khuyến nông áp dụng các kỹ thuật mới... Về sản xuất sợi hoá học, khi công nghiệp lọc dầu phát triển sẽ là cơ sở để đầu tư xây dựng một số nhà máy sản xuất tơ sợi tổng hợp, sản xuất hoá chất nhuộm... để thay thế một phần các nguyên phụ liệu mà ta đang phải nhập để phục vụ may xuất khẩu. Đối với vấn đề phát triển sản phẩm, nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích trong khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, tổ chức đào đội ngũ thiết kế mẫu mã.Thành lập trung tâm tạo mẫu Việt Nam, gắn trung tâm này với các trung tâm tạo mẫu của EU và các trung tâm khác. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, đưa hàng dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới với tên hiệu của chính mình. 3- Cải cách công tác quản lý hạn ngạch hàng dệt may vào EU. Hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU hiện nay vẫn còn đang chịu sự quản lý bằng hạn ngạch. Điều này hạn chế rất lớn đến khả năng xuất khẩu của Việt Nam vào EU và không tương xứng với năng lực sản xuất hàng dệt may của Việt Nam. Việc cải cách công tác phân bổ và quản lý hạn ngạch cũng là một biện pháp rất cơ bản. Cải cách công tác quản lý hạn ngạch cần bắt đầu từ việc đổi mới phương thức quản lý, tránh tình trạng như hiện nay phân bổ hạn ngạch hàng dệt may còn phức tạp, cồng kềnh, chia cắt, phân tán. Thậm chí có những mặt hàng có tới ba cơ quan phân bổ hạn ngạch, đó là liên bộ Thương mại- Công nghiệp- Kế hoạch đầu tư, sở TM Hà nội, sở TM Thành Phố Hồ Chí Minh. Tiếp tục tăng cường hình thức thưởng hạn ngạch với các doanh nghiệp có sử dụng nguyên liệu trong nước để sản xuất, các doanh nghiệp xuất khẩu theo phương thức mua đứt bán đoạn(Bán FOB), các doanh nghiệp ở vùng kinh tế khó khăn từng bước giảm dần các mặt hàng bằng hạn ngạch. Cải cách công tác đấu thầu hạn ngạch, nhằm phát huy hết ưu điểm của phương thức quản lý này đồng thời vẫn tạo nên công bằng cho các doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ không có cơ hội trúng thầu, các doanh nghiệp có đủ khả năng xuất khẩu nhưng không có hạn ngạch và nhất là tránh tình trạng đấu thầu đẩy giá hàng hoá lên quá cao làm hàng Việt Nam không cạnh tranh được về giá. Đồng thời với biện pháp trên, chính phủ cần tăng cường những nỗ lực đàm phán để tăng thêm mguồn hạn ngạch và điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất để tận dụng hết nguồn hạn ngạch được giao. 4- Đầu tư chiều sâu nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU. Để làm chủ nguồn nguyên liệu, chủ động trong sản xuất kinh doanh, từng bước chuyển từ gia công xuất khẩu sang xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam phải chú trọng hơn nữa đến đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, thay thế máy móc thiết bị lạc hậu để nâng cao năng lực sản xuất và tăng chất lượng sản phẩm. Phương án tối ưu cho các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam sang EU là nhập khẩu máy móc công nghệ nguồn từ EU. Các nước EU hiện nay có thế mạnh trong lĩnh vực điện tử, sản xuất máy móc thiết bị, nhập khẩu máy móc công nghệ nguồn từ EU đã không chỉ giải quyết vấn đề về phương tiện sản xuất hiện đại mà còn giải quyết phần nào khó khăn do yêu cầu khắt khe về chất lượng từ phía EU. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam thì nhập khẩu máy móc công nghệ nguồn từ EU tốt nhất là thông qua việc thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quy trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Thực hiện biện Pháp này, Việt Nam vừa thu hút được nguồn từ EU vừa nâng cao và tiêu chuẩn hoá chất lượng hàng hoá xuất khẩu nói chung và hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU nói riêng. Muốn chiếm lĩnh được thị trường và đứng vững trên thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam phải giải quyết được vấn đề cơ bản nhất, đó là nâng cao chất lượng sản phẩm, phải đáp ứng yêu cầu tín dụng, thường xuyên chế biến mẫu mã, kiểu dáng theo thị hiếu khách hàng, cụ thể ngành dệt may cần chú trọng phát triển đào tạo nhiều hơn nữa đội ngũ các nhà tạo mẫu giỏi hơn để hàng Việt Nam theo kịp được với ngành tạo mẫu thời trang quốc tế (đây là một trong những điểm còn rất yếu của ngành dệt may Việt Nam), hạ giá thành sản phẩm, giao hàng đúng hạn . Các doanh nghiệp nên tiến hành kiểm tra chặt chẽ chất lượng, nguyên phụ liệu tuân thủ đúng các quy định của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, mẫu mã, kích thước, nhãn mác, đóng gói bao bì...Thực hiện quy trình kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng hàng hoá trước khi xuất khẩu(Hiện nay nhiều khách hàng nhập khẩu hàng dệt may đã yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thực hiện “ Giám định hàng hoá ở bên đi”(Pre Shipment inspection- PSI). Đây là biện pháp hữu hiệu để đảm bảo chất lượng cũng như các tiêu chuẩn khác của sản phẩm, khắc phục các thiếu sót của lô hàng nơi sản xuất, tiết kiệm chi phí và thời gian thông quan tại cảng đến. Mặc dù giá thành không phải là yếu tố quyết định với hàng dệt may trên thị trường EU song đó lại là một trong những nhân tố quan trọng trong cạnh tranh. Hạ giá thành sản phẩm bằng cách hợp lý hoá lại quá trình sản xuất, tận dụng các nguyên phụ liệu trong nước sản xuất nhưng vẫn đảm bảo duy trì về chất lượng. 5. Tăng cường khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn đầu tư: Các doanh nghiệp dệt may VN hiên nay đang cần lượng vốn lớn để đầu tư phát triển mà trên thực tế vốn đang là vấn đề khó khăn với hầu hết các doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hạn hẹp để đáp ứng các yêu cầu phát triển sản xuất và xuất khẩu, các doanh nghiệp dệt may VN có thể áp dụng một số biện pháp sau: Huy động các nguồn lực tự có như khấu hao cơ bản, vốn có được do bán, cho thuê tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho... Các doanh nghiệp hoạt động tốt, cần nghiên cứu khả năng phát hnàh trái phiếu, cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế. Xin phép sử dụng vốn ngân sách cho các trường đào tạo, nghiên cứu chuyên ngành như các trường công nghiệp kỹ thuật may, viên tạo mẫu, các trung tâm đào tạo chuyên gia tạo mẫu... Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư còn cần chú ý đến việc tăng nhanh khả năng thu hồi vốn. kết luận Ngành dệt may là một ngành công nghiệp nhẹ có vị trí hết sức quan trọng trong cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của nước ta. Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu của ngành đã đạt được những thành tựu to lớn, kim ngạch xuất khẩu tăng dần qua từng năm. Từ một còn số hết sức khiêm tốn 238,8 triệu USD năm 1993 và đến năm 1996 kim ngạch xuất khẩu đã vượt qua con số 1 tỷ USD. Và đến năm 2000 đã đạt gần 2 tỷ USD, năm 2002 là 2,3 tỷ USD. Hiện nay, ngành dệt may đang đứng thứ 2 trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và có nhiều triển vọng vươn lên vị trí dẫn đầu trong vài năm tới. Đạt được những thành tựu to lớn ấy, bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của các doanh nghiệp dệt may trong nước và chính phủ Việt Nam cần phải kể tới thiện chí hợp tác song phương của các bạn hàng, đặt biệt là thị trường EU. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu dệt may cũng gặp không ít khó khăn cả khách quan và chủ quan đang và sẽ cản trở kim ngạch đạt tới mức tiềm năng của ngành. Trong giai đoạn tới, với những nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu của mình, ngành dệt may Việt Nam nhất định sẽ tìm ra những giải pháp tối ưu nhất để vượt qua những khó khăn để đạt dược mục tiêu phát triển của ngành đến năm 2010 : “hướng vào xuất khẩu nhằm tăng nguồn thu ngoài tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng, đáp ứng nhu cầu trong nước, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm thực hiện đường lối CNH – HĐH đất nước”. Mục lục lời mở đầu ..........................................................................................1 nội dung ...............................................................................................2 I - Tổng quan về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam....... .2 1 ) Vai trò của hoạt động xuất khẩu .......................................................2 2 ) Vai trò của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam ...............................2 II - Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Viẹt Nam sang thị trường Châu âu ..................................................................................4 1 ) Thị trường EU và hàng dệt may Việt Nam .......................................4 1.1 Thị trường EU ................................................................................4 1.2 Phương thức xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU ...................................................................................4 2 ) Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU..6 2.1 Kim ngạch xuất khẩu ....................................................................6 2.2 Quản lý và thực hiện hạn ngạch dệt may vào thị trương EU .........7 Khó khăn và thuận lợi ...................................................................8 III - Các giải pháp phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may ...10 1 ) Cải thiện môi trường đầu tư .............................................................10 2 ) Chính sách về nguyên liệu và phát triển sản phẩm ..........................11 3 ) Công tác quản lý hạn ngạch hàng dệt may vào thị trường EU ........12 4 ) Đầu tư nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU .................................................................13 5 ) Tăng cường khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư ..14 kết luận..............................................................................................15 mục lục .........................................................................................

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7130.doc
Tài liệu liên quan