Đề tài Tính tất yếu của qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam

 

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT

A)ĐẶT VẤN ĐỀ:

B)NỘI DUNG

I.Đưa đất nước ta đi lên CNXH là sự lựa chọn duy nhất, đúng đắn của Đảng và nhân dân ta

1.Cơ sở lý luận

1.1.Khái niệm về chế độ XHCN

1.2.Tính tất yếu của cách mạng XHCN

2.Cơ sở thực tiễn

2.1.Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản (CNXH) trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

2.2.Sự lựa chọn con đường CNXH trong giai đoạn hiện nay.

3.Đặc điểm nước ta đi lên XHCN

3.1 Nhận xét chung tình hình:

3.2.Đường lối cụ thể:

II) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp xây dựng XHCN ở nước ta

1)Khái niệm về công nghiệp hoá hiện đại hoá và các vấn đề cơ bản

1.1Khái niệm công nghiệp hoá hiện đại hoá

1.2Vai trò và những mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá

1.3.Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH

2)Hoàn cảnh nước ta và yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá

3.Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những biện pháp thực hiện

3.1.Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý

3.2.Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ nước ngoài

C)KẾT LUẬN

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4077 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính tất yếu của qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành hiện thực, chúng ta còn phải trải qua nhiều gian lao thử thách 2.2.Sự lựa chọn con đường CNXH trong giai đoạn hiện nay. Hiểu rõ tính tất yếu của sự quá độ lên CNXH ở nước ta, Đảng và nhân dân ta kiên trì với mục tiêu CNXH. Đây là vấn đề rất quan trọng trong tình hình lịch sử hiện nay và cả trong tương lai. Sự kiên trì đó có cở sở là sự giác ngộ trước đây của nhân dân ta về những CNXH. Gần đây đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, đem lại những thắng lợi bước đầu rát quan trọng. Điều đó giúp cho chúng ta vững tin vào con đường CNXH đã lựa chọn. Tuy nhiên, hiện nay xuất hiện một số nguy cơ đối với con đường đi lên CNXH ở nước ta. Trước hết, là cuộc khủng hoảng rất nghiêm trọng của các nước XHCN, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ CNXH ở một số nước đã tác động lớn đến tâm tư, tình cảm, nhận thức của con người về CNXH, Sự tan rã nhanh chóng của nhiều nước XHCN làm cho một số người dao động, mất đi lòng tin vào CNXH đã được xây dựng nf năm. Hai là, nhiều người chỉ thấy được thành tựu mà không thấy cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội mà không thấy được những mâu thuẫn sâu sắc bên trong. Ba là, bản thân nước ta ũng lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Qua đổi mới, những thành tựu đã đạt được có tác dụng củng cố lòng tin của nhiều người vào CNXH. Nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi khó khăn tệ nạn xã hội còn phổ biến và nghiêm trọng. Bốn là, các thế lực phản động vẫn luôn tìm mọi các chống phá ta về mọi mặt và bằng mọi âm mưu, thủ đoạn. Do đó, việc nhận thức rõ tính cất yếu của CNXH để kiên trì với con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là rất quan trọng. Trong tình hình còn nhiều khó khăn, chúng ta vẫn nhận thấy việc đưa nước ta đi lên CNXH là lựa chọn đúng đắn và duy nhất. Bởi vì các nguyên nhân sau: Nhân dân lao động nước ta đã từng chiến đấu hy sinh không chỉ nhằm được độc lập dân tộc, mà còn vì mục đích xây dựng cuộc sống ấm lo, tự do bình đẳng và hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có CNXH mới đáp ứng được. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta lấy chủ nghĩa mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và phấn đấu vì lý tưởng XHCN, cộng sản chủ nghĩa. Kho giành được chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, tất nhiên là phải cải tạo, đưa đất nước tiến lên XHCN . XHCN đã từng trở thành hiện thực ở một số nước và đã từng đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Đó là sự thể hiện cụ thể phương hướng phát triển của xã hội loài người. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh quy luật đã thành chân lý là độc lập dân tộc gắn liền với XHCN. Mặt khác, chúng ta cũng có những điều kiện nhất định để xây dựng thành công XHCN. Trong khi XHCN sụp đổ ở những nước khác, thì Đảng ta đã xây dựng được đường lối đổi mới đúng đắn, xây dựng được trên những nét chủ yếu quan niệm về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng được trên những nét chủ yếu quan niệm về xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng và con đường xây dựng XHCN. Với quá trình đổi mới, Đảng ta đã từng bước tìm được bước khắc phục khủng hoảng kinh tế xã hội. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, Đảng viên, cốt cán của ta vẫn trung thành với sự nghiệp cách mạng, vẫn là một tập thể đoàn kết, vững vàng về chính trị, có khả năng lãnh đạo đất nước, đối phó với những khó khăn, thử thách. Nói tóm lại, để đi lên xã hộ chủ nghĩa là lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. 3.Đặc điểm nước ta đi lên XHCN 3.1 Nhận xét chung tình hình: Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta từ trước chúng ta thấy rằng khó khăn lớn nhất là nước ta nghèo và kém phát triển, thu nhập bình quân đầu ngươi còn thuộc vào diện thấp nhất trên thế giới. hơn nữa trong sản xuất còn chưa cần kiệm cũng như chưa tiết kiệm trong tiêu dùng và dồn vốn lớn cho đầu tư phát triển trong khi ngân sách còn eo hẹp. Tình trạng tiêu xài lãng phí của công còn chưa được ngăn chặn và xử lý thích đáng. Bên cạnh đó, trong bộ máy Nhà nước, tổ chức Đảng và đoàn thể còn tồn tại nhiều tiêu cực. Hệ thống lập pháp và hành pháp còn chưa nghiêm, pháp luật còn chưa chặt chẽ để nhiều chỗ hở khiến cho kẻ xấu lợi dụng làm thiệt hại không ít tiền của. Một khó khăn khó có thể tránh khỏi trong cơ chế thị trường, đó là nạn thất nghiệp gia tăng, phân cách giàu nghèo ngày càng lớn. Việc lãnh đạo, xây dựng quan hệ sản xuất còn nhiều lúng túng và vướng mắc. Quản lý nhà nước về kinh tế – xã hội còn yếu. Cơ cấu cán bộ còn nhiều nhược điểm như đội ngũ cán bộ có năng lực và trình độ lãnh đạo còn kém, không phù hợp với cơ chế mới: Bộ máy chính quyền còn chậm chạp trong tổ chức quản lý điều hành, thủ tục hành chính còn quan liêu rờm rà, gây phiền nhiễu cho nhân dân. Về mặt xã hội, chất lượng giáo dục đào tạo, y tế nhiều nơi còn yếu kém nhất là ở các vùng nông thôn, vùng rừng núi xa xôi hay ở ngoài hải đảo. Các tệ nạn xã hội gia tăng mạnh mẽ, trật tự an toàn xã hội vẫn còn tồn tại khó khăn chưa được giải quyết, ý thức xã hội của người dân còn thấp... ở nước ta, chuyên chính vô sản ra đời trong tình hình lực lượng sản xuất hết sức lạc hậu, những tiền đề vật chất cần thiết cho việc xây dựng CNXH còn rất yếu. Bản thân nền sản xã hội đứng lại trong một thời gian ở tình trạng sản xuất nhỏ. đối với nước ta, một nước thực hiện quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN, việc xoá bỏ thành phần kinh tế tư chủ nghĩa và mọi hình thức bóc lột khác, ngăn chặn khuynh hướng phát triển tự bản chủ nghĩa và mọi hình thức bóc lột khác, ngăn chặn khuynh hướng phát triển TBCN của sản xuất nhỏ, đâp tan mội âm mưu ngóc đầu dậy của các phần tử thù địch, đảm bảo an ninh trật tự,...là một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, phức tạp, là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của chuyên chính vô sản. Tuy nhiên muốn xây dựng thành công CNXH và tiến tới chủ nghĩa cộng sản thì việc trấn áp các giai cấp bóc lột cùng mọi lực lượng phản cách mạng khác, việc xoá bỏ thành phần kinh tế TBCN cùng mọi hình thức bóc lột khác là chưa đủ. Vấn đề cơ bản là phải cải tạo sản xuất nhỏ, cá thể thành sản xuất lớn XHCN, là xây dựng mới gần như toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của XHCN. Hay nói cách khác thì muốn đảm bảo được thắng lợi hoàn toàn và triệt để cho CNXH thì ta phải đồng thời tiến hành ba cuộc cách mạng; cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng về khoa học kỹ thuật là then chốt. 3.2.Đường lối cụ thể: Nước ta quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN chúng ta không có sẵn nền đại công nghiệp, một cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao. Nhưng cũng không thể tiến tới XHCN trên cơ sở một nền nông nghiệp phân tán, lạc hậu, trong khi vẫn duy trì thành phần kinh tế TBCN và kinh tế cá thể, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhằm hoàn thiện chế độ làm chủ của nhân dân lao động trong quản lý kinh tế và phân phối sản phẩm lao động. Từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH, đi đôi với cách mạng quan hệ sản xuất, chúng ta phải tiến hành cách mạng kỹ thuật nhằm nhằm biến lao động thủ côg thành lao động cơ giới, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật mới của XHCN. Hiện nay, trên thế giới, khoa học kỹ thuật đang rất phát triển ở nhiều nước. Vì vậy,lực lượng phát triển sản xuất của nước ta vừa phải phát triển tuần tự theo quy luật chuyển từ sản xuất sang sản xuất lớn, vừa có thể và cần phải phát triển nhảy vọt lên cơ giới hoá và tự động hoá. Xây dựng CNXH còn phải xây dựng những con người mới CNXH, đem lại giá trị chân chính cho con người. Do đó, song song với cuộc cách mạng vê kinh tế, tất yêu phải tiến hành cách mạng về tư tưởng, tinh thần và văn hoá của toàn xã hội Xây dựng nền sản xuất lớn XHCN ở nước ta thực chất là quá trình cải biến quan hệ sản xuất đi đôi với tiến hành cách mạng kỹ thuật, biến lao động thủ công thành lao động cơ giới, là quá trình phân công lại lao động xã hội, xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Để làm điều đó, chúng ta phải biết xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý và tiến hành một sự phân công lại lao động mới. Trước năm 1986, đường lối phát triển kinh tế ở nước ta tập trung vào hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN nhưng không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong đường lối công nghiệp hoá thì chú trọng phát triển công nghiệp nặng không chú ý đến thực tế của Việt Nam. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Do đó đã làm nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng. Đến đại hội VI năm 1986. chúng ta đã tiến hành đổi mới và thu được những kết quả khả quan. Đại hội VI, VII, VIII, IX đều khẳng định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là chủ trương chiến lược lâu dài và là đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH tức là khẳng định tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Năm 1986 cũng đánh dấu bước đổi mới về đường lối công nghiệp hoá, điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế theo đường lối tập trung thực hiện ba chương trình về kinh tế là lương thực, thực phẩm,hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đại hội VI khẳng định vị trí hàng đầu của nông nghiệp, vài trò của công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp ; phát triển công nghiệp nặng có trọng điểm phù hợp với nước mình; công nghiệp hoá hiên đại hoá nông thôn ; gắn công nghiệp hoá với hiên đại hoá ; xây dựng cơ cấu kinh tế, tập trung vốn đầu tư vào các vùng trọng điểm để thúc đẩy động lực phát triển kinh tế. đồng thời ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước chỉ thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nên kinh tế, cơ chế thị trường sẽ quyết định ba vấn đề cơ bản của sản xuất, dùng đòn bẩy kinh tế như giá cả, lãi xuất, trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh, thực hiên tư do hoá giá cả. trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại cũng có nhiều thay đổi : đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại ( xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, dịch vụ,..), chuyển từ nên kinh tế đóng sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập quốc tế, tự do giá cả ngoại thương... Nhờ những thay đổi trong chính sách kinh tế, nước ta đã đạt được những thành tựu như kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế dịch chuyển, tích luỹ phát triển. II) Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp xây dựng XHCN ở nước ta 1)Khái niệm về công nghiệp hoá hiện đại hoá và các vấn đề cơ bản 1.1Khái niệm công nghiệp hoá hiện đại hoá Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là một quá trình có tính chất lịch sử. Tất cả các nước công nghiệp phát triển đều trải qua quá trình công nghiệp hoá ở các thời điểm khác nhau, với những quy mô tốc độ khác nhau trong những điều kiện lịch sử kinh tế xh khác nhau. Với hầu hết các nước phát triển hiện nay công nghiệp hoá là một trong những chính sách chủ yếu và là một thách thức lớn. Tuy nhiên, chính sách công nghiệp hoá trong giai đoạn hiên nay có nhiều khác biệt lớn so với các nước công nghiệp hoá giai đoạn trước đây . Chính điều này đã làm cho chính sách ở các nước, ở các thời kỳ thêm đa dạng. Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, hội nghị lần thứ VII ban chấp hành TW Đảng khoá VII đã đưa ra quan niệm mới về công nghiệp hoá hiện đại hoá và đây cungx chính là quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Theo tư tưởng này, công nghiệp hoá hiện đại hoá là qúa trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao 1.2Vai trò và những mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá Vai trò của công nghiệp hoá Một là phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục nghuy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Hai là, củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ, tạo công ăn việc làm khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Ba là, tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh quốc phòng. Bốn là, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Mục tiêu nhiệm vụ của công nghiệp hoá hiện đại hoá: Do vị trí và tầm quan trọng của các tác dụng nói trên của công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, nên qua tất cả các kỳ đại hội Đảng ta luôn luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt quá trình quá độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam lại một lần nữa xác định mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá là: “xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiên đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sóng vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. 1.3.Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh: mỗi phương thức sản xuất của xã hội chỉ có thể xác lập một cách vững chắc trên cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng, và chính cơ sở này là một trong những nhân tố quan trọng nhất xác định phương thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội- lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất của xã hội là tổng thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt được trong những điều kiện lịch sử nhất định của sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật, dựa trên đó lực lượng lao động của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu vật chất của xã hội. Do trong lịch sử xã hội đã hình thành và tồn tại những mối liên hệ tất yếu, nên phương thức sản xuất ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những yếu tố của cơ sở vật chất – kỹ thuật của phương thức sản xuất trước đó, trên cơ sở đó cải tạo và phát triển thành cơ sở vật chất – kỹ thuật của bản thân mình Phương thức sản xuất TBCN tuy xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ XVI , nhưng nó chỉ trở thành phương thức sản xuất thống trị khi đã tạo ra được nền đại công nghiệp cơ khí ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp và quá trình công nghiệp hoá TBCN thế kỷ XVIII – IXX. Tiếp sau đó nó được hiện đại hoá ngày càng cao trên cơ sở của những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là những thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Chính sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí với sản xuất ngày càng xã hội hoá đã tự phát tạo ra tiền đề vật chất khách quan cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới: phương thức sản xuất cộng sản chủ nghiã mà giai đoạn đầu của nó là CNXH. tính tất yếu đó đã được chứng minh trong sự phát triển của lịch sử xã hội: Nước Nga XHCN xuất hiện từ cách mạng tháng 10 năm 1917 mở đầu một thời đại mới; thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Như vậy, do mối liên hệ tất yếu của lịch sử, cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN – giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa phải là nền đại công nghiệp cơ khí hiên đại. Các Mác và Ph.Ăng – ghen, Lênin đã nói nhiều về vấn đề nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại là cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Tại đại hội III quốc tế cộng sản năm 1921 Lênin đã chỉ rõ: “cơ sở vật chất duy nhất của CNXH chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp nhưng không tghể đóng khung ở nguyên lý chung đó. cần phải cụ thể hoá nguyên lý đó. Một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo cả nông nghiệp, đó là diện khí hoá cả nước”. Lênin còn nói “Một lần nữa tôi phải nhấn mạnh rằng cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí. ai quên điều đó người đó không phải là người cộng sản. Chúng tôi phải đặt vấn đề một cách thực tiễn đại công nghiệp hiện đại là thế nào?Đại công nghiệp hiện đại có nghĩa là điện khí hoá toàn nước Nga”. Tóm lại, cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp. luận điểm trên của chủ nghĩa mác Lênin cần phải được vận dụng môt cách thích hợp với đặc điểm của thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật và đặc điểm cụ thể của mỗi nước. Ngày nay trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với 5 nội dung: tự động hoá đồng bộ, năng lượng nguyên tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học, điện tử – tin học. Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa mác – Lênin cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: xã hội – XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Do đó, cho phép chúng ta hiểu rằng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH ở nước ta, phải là nền đại công nghiệp cơ khí ứng dụng những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. 2)Hoàn cảnh nước ta và yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên CNXH trên toàn thế giới, ở nước ta khi đất nước hoà bình thống nhất cả nước đi lên CNXH “Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta”. Nước ta quá độ đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu điều dó cũng có nghĩa là nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. nhưng người ta chỉ bỏ việc xác lập phương thức sản xuất TBCN, chứ không thể bỏ qua việc phát triển lực lượng sản xuất. Cái thiếu nhất của đất nước ta là thiếu một lực lượng sản xuất phát triển. đất nước ta chưa có một cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp với CNXH. Chừng nào chư tạo ra được cái cốt vật chất – kỹ thuật phù hợp với CNXH thì đất nước ta chưa có CNXH hiện thực. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật ấy ở nước ta chính là quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nên kinh tế quốc dân. Văn kiện hội nghị lầ thứ VII ban chấp hành TW khoá VII khẳng định quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là: “Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sứ lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của nông nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Thực chất công nghiệp hoá,hiện đại hoá ở nước ta là quá trình tạo ra những tiền đề vật chất, kỹ thuật về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp – những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất cho CNXH. Nội dung cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao. Xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại – cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là một tất yếu khách quan đối với nước ta quá độ lên CNXH xúat phát từ một nên kinh tế kém phát triển. Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta được thể hiện ở góc độ kinh tế và chính trị xã hội Về kinh tế: Chỉ có công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN mới có cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta sẽ tạo ra một sức sản xuất mới bao gồm nhiều loại công cụ mới và các loại tư liệu sản xuất khác, cùng với những người lao động có tổ chức, tiến hành hiệp tác sản xuất với kỹ năng lao động ngày càng cao từ đó làm cho năng suất lao động tăng lên cái “Đảm bảo cho sự thắng lợi của trật tự xã hội này so với xã hội khác” Do mối quan hệ biện chứng hữu cơ giữa quan hệ sản xuất và cơ sở vật chất – kỹ thuật nên việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH có tác dụng củng cố hoàn thiệp quan hệ sản xuất XHCN – dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng cao của CNXH và quan hệ sản xuất XHCN ngày càng được hoàn thiện, nên sản xuất xã hội sẽ không ngừng phát triển và đời sống vật chất văn hoá của nhân dân sẽ không ngừng được nâng cao trên cơ sở phát triển nền sản xuất đó Công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN còn là một tất yếu về chính trị– xã hội Với cơ sở vật chất – kỹ thuật vừa đạt được trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai cấp công nhân tầng lớp trí thức XHCN có thêm nhiều điều kiện để giúp đỡ nông dân ùng đi lên CNXH. Sự liên minh giữa công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức XHCN ngày càng được củng cố, Nhà nước XHCN được tăng cường. những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo ra nhiều khả năng thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc, giữa các vùng, các miền của đất nước. Tình hình đó đưa đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội – XHCN. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải có sự chuẩn bị vè tư tưởng và văn hoá nhưng công nghiệp hoá, hiện đại hoá lại có tác dụng thúc đẩy xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN. Việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại và sản xuất theo phương thức đại công nghiệp đòi hỏi quần chúng lao động phải có trình độ giác ngộ cách mạng và trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật ngày càng cao. Đồng thời cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH lạ tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết cho việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN. Công nghiệp hoá XHCN còn là một yêu cầu khách quan của quốc phòng. Nguồn lực quốc phòng của một nước phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, trong đó nền kinh tế lớn mạnh, sản xuất nhiều loại sản phẩm chế độ chính trị kinh tế và xã hội vững chắc và việc cung cấp các phương tiện hiện đại hoá quốc phòng có ý nghĩa đặc biệc quan trọng. Công nghiệp hoá hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp trong việc tạo ra các nhân tố đó. Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta là quá trình giai cấp công nhân trưởng thành về số lượng và chất lượng. Giai cấp công nhân ngày càng đông, kỹ thuật sản xuất ngày càng cao, đời sống ngày càng được cải thiện, trình độ giác ngộ XHCN được nâng dần lên. Do đó vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong mọi mặt sinh hoạt của xã hội ngày càng được củng cố. Chỉ có thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN nước ta mới xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ và tham gia phân công hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập. Qua đó có thể khẳng định rằng sự thành công của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá XHCN là nhân tố quyết định sự thắng lợi hoàn toàn và triệt để của XHCN, không làm công nghiệp hoá hiện đại hoá sẽ không có XHCN. xuất phát từ tính khách quan và tác dụng nhiều mặt trên đây của công nghiệp hoá hiện đại hoá XHCN, đảng ta coi công nghiệp hoá hiện đại hoá là “Nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH”. Chỉ có hoàn thành công nghiệp hoá hiện đại hoá XHCN mới có cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ khác một cách triệt để và mới có CNXH một cách đầy đủ Nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất và để có được quan hệ sản xuất XHCN đồng thời để mở rộng cho lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động cải thiện đời sống nhân dân. nhưng, những việc đó chỉ đạt mức cao nhất khi nào cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN được xây dựng xong và cũng chỉ lúc đó quan hệ sản xuất mới được hoàn thiện và củng cố vững chắc. CNXH ở nước ta sẽ được xác lập với các đặc trưng: có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột và bất công làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. các dân tộc trong nhận thức rõ tính tất yếu khách quan của quá trìng công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta”. 3.Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những biện pháp thực hiện 3.1.Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là phân công lại lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá lao động, do đó chuyên môn hoá sản xuất giữa các nghành, trong nội bộ từng nghành và giữa các vùng trong nên kinh tế quốc dân . phân công lao động có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động. Cùng với cách mạng khoa học va công nghệ nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau: Một là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp tăng lên. Hai là, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trí thức ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. Ba là, tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất tăng lên nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất ở nước ta phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: cả nước và t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50130.doc
Tài liệu liên quan