Chương 1: Lý luận chung về kinh doanh du lịch và tính thời vụ trong du lịch.
I. Khái niệm chung về kinh doanh du lịch
1. Du lịch
2. Khách du lịch
3. Tài nguyên du lịch
4. Điểm du lịch, khu du lịch
5. Kinh doanh du lịch
6. Sản phẩm du lịch
7. Doanh nghiệp kinh doanh du lịch
II. Tính thời vụ trong du lịch
1. Khái niệm
2. ảnh hưởng của tính thời vụ trong du lịch
3. Các nhân tố quyết định
4. Các căn cứ để khác phục tính thời vụ trong du lịch
5. Các biện pháp khắc phục
Chương 2: Giới thiệu về Công ty cổ phần Du lịch Ao Vua
I. Khái quát chung
1. Hoàn cảnh ra đời
2. Lịch sử phát triển
3. Chức năng nhiệm vụ
II. Cơ sở vật chất kỹ thuật
1. Sơ đồ tổng thể khu du lịch Ao Vua
2. Các khu vực
3. Cơ sở hạ tầng khác
III. Cơ cấu tổ chức
1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức
2. Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận
3. Nguồn lao động
IV. Chính sách đối với một số dịch vụ bổ trợ
V. Mối quan hệ với chính quyền và dân cư địa phương
VI. Kết quả hoạt động kinh doanh
1. Kết quả
2. Nhận xét
VII. Phương hướng, mục tiêu phát triển của Công ty tới năm 2005
Chương 3: Tính thời vụ trong du lịch tại Công ty cổ phần Du lịch Ao Vua
I. Các nhân tố tác động
1. Địa hình
2. Khí hậu
3. Khả năng đón tiếp của Công ty
II. Kết quả kinh doanh theo thời vụ
1. Kết qủa
2. Nhận xét
III. Kết luận
IV. Giải pháp khắc phục tính thời vụ trong du lịch tại Công ty cổ phần Du lịch Ao Vua
1. Giải pháp sản phẩm
2. Giải pháp phân phối
3. Giải pháp giá cả
4. Giải pháp xúc tiến hỗn hợp
5. Giải pháp lao động
V. Kiến nghị đối với Nhà nước.
58 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 4685 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính thời vụ trong du lịch và các biện pháp khắc phục tại công ty cổ phần du lịch Ao Vua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điện nước, nhà cửa. Trồng, chăm sóc, bảo vệ cây cảnh, hồ nước và rừng cây chung quanh.
Phó Giám đốc Phụ trách Kinh doanh, kiêm Trưởng phòng Kinh doanh: (Điểm) Điều hành các công việc kinh doanh hàng ngày của Công ty, ngoài ra còn phụ trách phòng tài vụ, các công tác tài chính, chấm công, trả lương cho người lao động. Quản lý năm khu vực là: khu Trung tâm, khu Chân thác, khu Nhà sàn, khu Khách sạn và Vườn thú ; cùng tổ Hành chính, tổ Y tế, tổ Cảnh quan.
Tổ Cảnh quan: gồm 5 người, làm công việc bán vé vào cổng.
Tổ Y tế: gồm 2 người, với các trang thiết bị, đồ dùng, thuốc thang, phục vụ sơ cứu tạm thời.
Tổ Hành chính: gồm 5 người, thực hiện các công việc văn thư, đánh máy, kế toán tài chính, chấm công, trả lương cho người lao động.
Văn đại diện tại Hà Nội: mới được ra đời có trụ sở tại 78B Nguyễn Du – Hà Nội. Văn phòng gồm 3 nhân viên và 5 người làm cộng tác viên.3. Nguồn lao động
Đặc điểm nổi bật của lao động của Công ty là gần như toàn bộ lao động được bố sinh hoạt trong khuôn viên của khu du lịch.
Thời gian lao động và các nội quy lao động được tuân thủ chặt chẽ.
Khối lượng công việc không nhiều (trừ số ít những lúc cao điểm) và ít đòi hỏi tính chuyên môn hoá, luôn có sự cơ động thay thế giữa các bộ phận.
Kết cấu lao động:
(Số liệu tháng 4 năm 2002)
Các chỉ tiêu
Số lượng (người)
Tỉ trọng (%)
1. Tổng số lao động
120
100
2.Trình độ nghiệp vụ :
Đại học, cao đẳng
Trung cấp
Sơ cấp
12
40
68
10,0
33,3
57,7
3. Lao động trực tiếp
100
83,3
4. Lao động gián tiếp
20
16,7
5. Số lượng Nam
37
30,8
6. Số lượng Nữ
83
69,2
Qua bảng trên ta thấy Lực lượng lao động gián tiếp của Công ty chỉ có 16,7% tổng số lao động nhưng chủ yếu là đội ngũ lãnh đạo các bộ phận đòi hỏi ở bộ phận gián tiếp phải có trình độ chuyên môn, trình độ quản lý giỏi thì mới tổ chức và điều hành tốt việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Ngoài ra còn đòi hỏi ở bộ phận này khả năng nắm bắt các thông tin kinh tế, sự thay đổi về nhu cầu thị hiếu của khách du lịch, đồng thời phải xử lý các thông tin đó một cách nhanh nhạy và chính xác để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp, các kế hoạch tối ưu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở cả hiện tại và cả trong tương lai. Do vậy để đáp ứng đòi hỏi đó, bộ phận gián tiếp của công ty du lịch Ba Vì chủ yếu đã được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn ở trình độ đại học. Bộ phận lao động gián tiếp không trực tiếp tạo ra doanh thu cho doanh nghiệp nhưng nó có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh và tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, lượng lao động ở bộ phận này lại không chịu sự biến động của tính thời vụ du lịch nên chi phí hàng năm cho bộ phận này không phải nhỏ. Do vậy, để đem lại hiệu quả kinh tế cao và phù hợp với tình hình cạnh tranh của lĩnh vực kinh doanh du lịch trong nền kinh tế thị trường, công ty du lịch Ba Vì đã tổ chức bộ máy quản lý tương đối gọn nhẹ, phù hợp với tình hình hoạt động của công ty nhưng vẫn đảm bảo được khối lượng công việc và đáp ứng được yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp.
Còn lượng lao động trực tiếp hàng năm của công ty là rất lớn (so với quy mô kinh doanh và tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty), dẫn đến chi phí cho bộ phận này không phải nhỏ nếu như với lượng lao động đó hoạt động liên tục trong năm. Tuy nhiên, do hoạt động của công ty chịu ảnh hưởng rất lớn của tính chất mùa vụ cho nên vào những tháng ngoài vụ thì lượng du khách đến với công ty giảm xuống làm cho khối lượng công việc phục vụ trong kinh doanh giảm, dẫn đến lượng lao động ở bộ phận trực tiếp cũng giảm theo. Chính điều này đã không tạo ra sự chuyên môn hóa nghề nghiệp làm cho trình độ chuyên môn ở một số khâu dịch vụ của bộ phận lao động này có chất lượng phục vụ chưa cao do chưa được đào tạo qua các lớp có chất lượng cao và công việc có tính chất mùa vụ. Cụ thể là số lượng được đào tạo ở trình độ đại học, cao đẳng ở bộ phận lao động trực tiếp mới chỉ đạt 6 người (đạt 5% trên tổng số lao động). Mặc dù với lượng lao động trực tiếp trình độ chuyên môn còn thấp nhưng chất lượng phục vụ của nhân viên luôn đạt ở mức khá cao. Có được chất lượng phục vụ như vậy là do bản thân mỗi nhân viên trong công ty luôn vừa làm vừa học tập kinh nghiệm. Hơn nữa các cấp lãnh đạo luôn có sự sâu sát trong quản lý cũng như thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện, bồi dưỡng và đào tạo nghiệp vụ cho các nhân viên trong toàn công ty nên chất lượng phục vụ ở đây rất được sự khen ngợi từ phía du khách.
Tính theo kết cấu về giới tính thì lực lượng lao động ở đây chủ yếu là nam giới do đặc thù công việc ở nhiều bộ phận như Bảo vệ, Môi trường, Xây dựng, Bể Bơi, Vườn chim thú, Cảnh quan đòi hỏi đại đa số nhân viên là nam. Còn một số bộ phận khác nữ giới lại phải chiếm chủ yếu như bộ phận Lễ tân tại các Quầy.
IV. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI MỘT SỐ DỊCH VỤ BỔ TRỢ.
1. Dịch vụ chụp ảnh.
Đây là dịch vụ mang lại thu nhập rất lớn và khá quan trọng. Các năm trước dịch vụ chụp ảnh được gần như là khoán trọn cho tư nhân đảm nhiệm, Công ty có dành cho họ một phòng dùng cho việc đặt máy trảng rửa ảnh. Nhưng yêu cầu phải tuân theo một số nội quy như Công ty quy định mức giá, không được chèn ép khách, tổng số máy ảnh không được quá mức (năm ngoái là không được quá 150 máy, mỗi thợ ảnh được phép dẫn theo một người giúp việc trả ảnh), máy ảnh phải đảm bảo chất lượng không được quá cũ hay bị hỏng hóc. Công ty cũng cùng với tổ ảnh đề ra nội quy đối với việc chụp ảnh của khách như không cho khách chụp ảnh bằng máy ảnh cơ. Năm ngoái người “thầu” dịch vụ chụp ảnh phải nộp cho Công ty tổng cộng là 120 triệu đồng. Tuy nhiên việc khoán trắng này đã xẩy ra một số bất cập, đó là nhiều khi thợ chụp ảnh còn chèn ép khách, ảnh chụp xấu không không muốn lấy thì lại ép họ phải lấy... Bước vào năm nay Ban lãnh đạo công ty quyết định có một số sự thay đổi như tuy vẫn giao cho tư nhân bên ngoài phụ trách khâu này nhưng công ty có một vai trò tích cực hơn, đề ra nhiều quy định mới như thi tay nghề thợ ảnh, chỉ cho phép những người có tay máy khá vào, quy định về chất lượng máy ảnh phải đạt được, củng cố lại hệ thống các quy định khác. Nhận xét về dịch vụ chụp ảnh ta thấy đây là một dịch vụ có khả năng thu lợi nhuận rất lớn do nhu cầu chụp ảnh, lưu giữ những khoảng khắc kỷ niệm của du khách là cao mà không phải du khách nào cũng có máy ảnh (máy ảnh tự động) hoặc họ đòi hỏi chất lượng ảnh cao cần đến những thợ ảnh chuyên nghiệp. Tuy nhiên, đây là loại hình dịch vụ rất khó quản lý bởi không thể theo dõi sát xao những người thợ chụp ảnh để biết thu nhập của họ... tránh tình trạng biển thủ tiền nếu như họ là nhân viên của Công ty. Trong tình trạng trước mắt thì việc giao cho tư nhân rồi Công ty thu tiền khoán theo hàng tháng là biện pháp tối ưu. Nhưng đòi hỏi Công ty phải có sự theo dõi tránh các tình trạng lộn xộn có thể có cũng như các hành vi làm ảnh hưởng đến chất lượng tiếng tăm của khu du lịch. Ngoài ra việc xác định đúng đắn mức tiền hàng tháng mà Tổ chụp ảnh phải nộp là quan trọng tránh gây thiệt hại cho Công ty là rất cần thiết.
2. Dịch vụ vệ sinh chung:
Với một diện tích rộng lớn, trải trên một địa hình khá hiểm trở và với số lượng người rất đông nên lượng rác thải nhiều , ngoài ra do ý thức của du khách chưa tốt vẫn xả rác thải bừa bãi mà đối với một khu du lịch phải ngăn nắp, sạch sẽ nên công việc giữ gìn vệ sinh ở đây rất được coi trọng. Hiện nay, việc quét dọn, thu gom, đổ rác thải được công ty giao khoán cho một số người dân địa phương đảm nhiệm. Với yêu cầu phải luôn luôn sạch sẽ. Công ty bỏ tiền đầu tư sắm sửa các thùng đựng rác, tại các khu vực chính có thùng đựng rác bằng sắt được để trên lối đi bên các khu vực mà nhu cầu xả rác là nhiều. Tổng số thùng loại này là 100 thùng, đảm bảo được tính mỹ thuật cũng như chắc chắn được rằng du khách rất thuận tiện trong việc đổ rác. Trên đường dọc theo hai bên suối luôn có các thùng rác được đan bằng tre (khoảng 50 m lại có một thùng) tuy nhiên đây lại là những địa điểm mà du khách thường xả rác nhiều mà lại hay thiếu ý thức vứt bừa bãi, đòi hỏi phải luôn luôn được dọn. Ngoài ra Công ty còn sắm các xe chở rác, chuẩn chị bãi rác phục vụ cho công tác vệ sinh chung. Vào những lúc ít khách, không phải mùa vụ thì số lượng người đảm trách công việc này là ít thường là 2 người làm việc hàng ngày vào một khoảng thời gian nhất định thường là buổi chiều. Công ty phải giả cho họ 700.000 đồng. Càng đến lúc khách đông thì số lượng người tăng lên đáng kể, lúc cao điểm lên tới gần 10 người. Nhận xét về công việc vệ sinh chung ta thấy đây là việc rất quan trọng nó mang lại bộ mặt, ấn tượng cho khu du lịch nhưng có lẽ do tính mùa vụ, khối lượng công việc thay đổi nhiều nên công ty không tự tay quản lý trực tiếp mà thuê (gần như khoán) cho tư nhân đảm nhiệm. Điều quan trọng là công ty cần có sự theo dõi nhắc nhở việc làm của họ để đảm bảo cho vấn đề vệ sinh của toàn khu.
3. Dịch vụ vệ sinh cá nhân:
Công ty đã xây dựng nhiều nhà vệ sinh cá nhân rất sạch sẽ hiện đại ở các vị trí thuận lợi phục vụ cho các nhu cầu vệ sinh cá nhân của du khách. Các nhà vệ sinh này được công ty giao cho một số cá nhân là người dân địa phương quản lý, họ được phép thu tiền cho mỗi lần đi của du khách (500 đồng). Họ phải có trách nhiệm giữ gìn vệ sinh luôn luôn phải sạch sẽ, thường xuyên có người của Công ty đi kiểm tra. Hàng tháng họ phải nộp cho Công ty một khoản tiền nhất định tuỳ theo mùa vụ. Năm 2001 tiền Vệ sinh thu được là 20.000.000 đồng.
4. Dịch vụ bán hàng giải khát, qùa lưu niệm:
Dịch vụ này cũng có giá trị rất cao. Công ty cho xây dựng các dẫy hàng quán tập trung nền xi măng lợp bằng tôn trông khá hiện đại và mỹ thuật. Các hàng quán này được Công ty giao cho người dân của địa phương kinh doanh. Việc lựa chọn người, bố trí chỗ bán cũng là khá khó khăn, phải sắp xếp lựa chọn theo thứ tự ưu tiên là: Gia đình chính sách, gia đình khó khăn, gia đình có người thân làm việc cho công ty, các mối quan hệ ngoại giao,.... Những hàng quán này phải tuân thủ các quy định như không được bán bia rượu, cơm phở... chỉ được bán các đồ nước giải khát ngọt, bánh kẹo, thuốc lá, hàng lưu niệm. Phải đảm bảo về chất lượng các sản phẩm bán ra và đặc biệt giá cả phải được cao quá, nếu bị phát hiện sai phạm sẽ bị xử lý theo các hình thức như phạt hành chính hoặc tịch thu quầy bán hàng không cho bán nữa. Hằng năm, mỗi quầy hàng này phải nộp cho Công ty một khoản tiền, năm 2001 là 1,5 triệu đồng, năm 2002 là 2 triệu đồng.
V. MỐI QUAN HỆ VỚI CHÍNH QUYỀN VÀ NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG
Với đặc điểm của ngành du lịch là mối quan hệ tương tác giữa bốn nhóm nhân tố: Khách du lịch, Công ty du lịch, Chính quyền địa phương và Dân cư địa phương, thì ở đây mối quan hệ với dân cư và chính quyền địa phương là phải được đặc biệt coi trọng.
Công ty cổ phần du lịch Ba Vì nằm trong địa bàn của huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây với diện tích đất trải trên hai xã Ba Vì và Tản Lĩnh. Ngay từ khi còn là một Tổ dịch vụ cho đến khi phát triển như ngày nay, công ty luôn có một đội ngũ các bộ lãnh đạo cũng như đại đa số nhân viên chính là người dân của huyện Ba Vì với chủ yếu thuộc hai xã Ba Vì, Tản Lĩnh. Chính vì vậy mối quan hệ với chính quyền và nhân dân địa phương luôn được vun đắp và luôn thể hiện sự gắn bó thân thiết, tình nghĩa. Dưới góc độ của Công ty đã làm rất nhiều việc để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp này thể hiện ở rất nhiều khía cạnh có thể kể ra đây như sau:
Chủ tịch HĐQT - Giám đốc Công ty là Đại biểu Hội đồng nhân dân huyện. Là đại diện cho nhân dân địa phương, bảo vệ quyền lợi trách nhiệm cho họ.
Công ty luôn luôn thăm hỏi chính quyền đoàn thể địa phương nhân các ngày lễ kỷ niệm trong năm như Ngày Thương binh liệt sỹ, ngày thành lập Quân đội nhân dân, Ngày thành lập Hội Phụ nữ Việt Nam...
Khi chính quyền địa phương có các chương trình hoạt động lớn Công ty luôn sẵn sang tham gia công sức, vật chất cho chương trình đó.
Công ty cũng thăm hỏi tặng quà các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình có công với cách mạng, gia đình khó khăn... trên địa bàn.
Công ty chăm lo cho sự nghiệp giáo dục của huyện, của hai xã như giúp xây dựng các phòng học, tặng các trang thiết bị học tập, trao học bổng... Trong năm 2001 vừa qua tổng chi cho công tác nhân đạo, từ thiện của Công ty là 16 triệu đồng.
Tổ chức các chương trình giao lưu văn nghệ, thể thao với nhân dân chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể xã hội.
Công ty kết hợp đầu tư xây dựng đường giao thông, điện, viễn thông liên lạc....phục vụ cho nhu cầu của công ty và cũng mạng lại nguồn lợi cho người dân.
Đặc biệt là Công ty đã mạng lại nguồn kinh tế rất đáng kể cho chính quyền cũng như nhân dân địa phương. Có thể nói rằng với khu du lịch Ao Vua và Công ty Cổ phân du lịch Ao Vua đã đưa nền kinh tế địa phương đi lên rất nhiều, chắc chắn rằng rất nhiều gia đình hiện nay phụ thuộc kinh tế hoàn toàn vào Công ty. Công ty đã mang lại cho chính quyền địa và nhân dân địa phương nguồn lợi kinh tế to lớn bao gồm:
Khoản thuế và các khoản phí nộp cho chính quyền huyện và hai xã Ba Vì, Tản Lĩnh. Mỗi năm công ty nộp thuế hàng tỷ đồng, năm 2001 là 1,24 tỷ đồng.
Công ty mua các trang thiết bị, nguyên nhiên liệu tại địa phương để phục vụ cho quá trình kinh doanh.
Công ty thuê nguồn lao động trực tiếp chủ yếu là tại địa phương mang lại cho họ những mức thu nhập khá cao ổn định so với làm nông lâm nghiệp.
Nguồn lao động gián tiếp mà nhân dân được hưởng lợi từ công ty bao gồm: người bán hàng, thợ chụp ảnh... số này vào mùa vụ lên tới hàng trăm người.
Công ty còn chi trả cho chính quyển đoàn thể địa phương các chi phí cho việc dọn vệ sinh đường bên ngoài, chi phí điện thắp sáng...
VI. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
1. Kết quả
Bảng Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch của
Công ty cổ phần du lịch Ao Vua 1999- 2001
Nội dung
Đơn vị tính
1999
2000
2001
1. Số lượng khách
Lượt khách
110.000
150.000
180.000
Trong đó : Quốc tế
“
9.700
10.000
18.500
Nội địa
“
100.300
140.000
161.500
2. Doanh thu
Triệu đồng
2.043
3.025
3.545
- Phí thắng cảnh
“
623
802
950
- Kinh doanh dịch vụ
“
1.420
2.223
2.595
Trong đó: Ăn uống
“
774
1.196
1.504
Lưu trú
“
290
479
418
Dịch vụ khác
“
356
548
673
3. Lợi nhuận sau thuế
“
54
85
90
4. Nộp ngân sách
“
795
1.012
1.240
5. Đầu tư xây dựng cơ bản
“
890
2.954
6.540
6. Lương bình quân
Ngàn đồng
440
470
500
2. Nhận xét
Qua bảng tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh trên của Công ty cổ phần du lịch Ao Vua có thể thấy ngay rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời gian qua có sự tăng trưởng khá nhanh.
Về tổng số khách, năm 2000 tăng 36,4% so với năm 1999 với 4 vạn lượt khách tăng thêm. Sang năm 2001 tốc độ tăng có giảm chỉ đạt 20% so với năm 2000 nhưng cũng thêm đến 3 vạn lượt người. Có được những sự tăng trưởng này là do nhu cầu đi du lịch của người dân lên cao và có sự đổi mới đầu tư xây dựng của Công ty. Ngoài ra Công ty luôn là doanh nghiệp dẫn đầu của ngành du lịch Hà Tây về số khách (không kể khu vực Chùa Hương) thường chiếm đến 15% tổng số khách du lịch đến Hà Tây, và chiếm gần 60% tổng lượng khách du lịch của huyện Ba Vì (năm 2001 Ba Vì đón được 301.000 lượt người). Lượng khách quốc tế đến với Công ty có tăng đặc biệt năm 2001 tăng khá cao nhưng so với khách nội địa thì chỉ chiếm một con số quá nhỏ bé khoảng 11% năm 2001. Cùng với tốc độ tăng trưởng của số lượng khách quốc tế hy vọng trong những năm tới tỷ trọng của lượng khách này ngày càng nâng cao hơn nữa với hy vọng biến khu du lịch Ao Vua thành một điểm đến của du khách quốc tế.
Về tổng doanh thu, năm 1999 mới chỉ đạt hơn 2 tỷ đồng thì qua năm 2000 có sự phát triển vượt bậc đạt gần 150%, qua năm 2001 mức tăng có giảm chỉ thêm được 500 triệu đồng nhưng cũng là rất đáng kể. Năm 2000 có sự tăng trưởng như vậy là do doanh thu của 5 vạn lượt khách tăng thêm và do phía Công ty đã thu thêm được nhiều tiền từ phía các dịch vụ được năng cấp trong đó mức thu nhập tăng thêm từ dịch vụ ăn uống là lớn nhất đạt 421,4 triệu đồng. Năm 2001 mức tăng có chững lại chính là bởi sự nở rộ của rất nhiều các khu du lịch tương tự xung quanh địa bàn, đặc biệt có sự giảm sút số thu từ dịch vụ phòng nghỉ giảm 61 triệu đồng so với năm 2000 (trong khi đó năm 2000 so với năm 1999 tăng gần 190 triệu đồng). Trong cơ cấu tổng doanh thu thì tỷ trọng của dịch vụ ăn uống có sức tăng khá hơn cả nhưng nhìn chung là đồng đều qua các năm, thể hiện sự ổn định trong các nguồn thu của Công ty.
Cùng với sự tăng trưởng của doanh thu các chỉ tiêu về nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng lên, riêng năm 2001 đạt 1,24 tỷ đồng chiếm tới 82% tổng số nộp Ngân sách của các doanh nghiệp du lịch huyện Ba Vì.
Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế chỉ đạt rất nhỏ bé so với tổng doanh thu nhưng việc tính toán chỉ tiêu này còn có nhiều vướng mắc và chưa thể hiện được sự lớn mạnh của Công ty.
Về chỉ tiêu đầu tư xây dựng cơ bản, nhìn vào số liệu trong bảng cho thấy chi xây dựng cơ bản là rất cao và đều qua mỗi năm. Đặc biệt năm 2001 vừa qua Công ty đã đầu tư thêm tới 6,54 tỷ đồng thể hiện sự táo bạo, nhưng cũng là mong muốn biến khu du lịch Ao Vua thành một điểm du lịch hiện đại. Đó cũng đánh giá sự lớn mạnh và thịnh vượng của Công ty trong thời gian tới.
Tóm lại Công ty cổ phần du lịch Ao Vua là một doanh nghiệp mạnh trên địa bàn, có được những bước tăng trưởng cao trong thời gian vừa qua và hứa hẹn sự phát triển trong thời gian tới.
VII. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY TỚI NĂM 2005
1. Phương hướng
Phương hướng phát triển của Công ty cổ phần du lịch Ao Vua trong thời gian tới là tiếp tục xây dựng mở rộng quy mô, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, đào tạo nâng cao trình độ phục vụ của đội ngũ nhân viên nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách mà mục tiêu cuối cùng là xây dựng khu du lịch Ao Vua trở thành điểm du lịch cuối tuần hấp dẫn và có vị thế cao trên thị trường, giữ vững vị trí dẫn đầu trong ngành du lịch Hà Tây.
2. Mục tiêu đến năm 2005
Mục tiêu tổng quát
Đầu tư xây dựng khu ăn uống phục vụ du lịch.
Nâng cấp khu phòng nghỉ.
Xây dựng và đưa vào sử dụng sân tenis.
Mở rộng khu vui chơi giải trí (vườn chim, khu nuôi, gây thú).
Khánh thành nhà Long Cung, Động Sơn Tinh - Thuỷ Tinh.
Thường xuyên mời các chuyên gia tới giảng dạy nói chuyện nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên của Công ty. Trước mắt là lập danh sách để có kế hoạch đào tạo thành một đội hướng dẫn viên du lịch có trình độ, am hiểu kiến thức xã hội, thông hiểu về Công ty và có ngoại ngữ tốt cho khu du lịch Ao Vua.
Mục tiêu cụ thể của hoạt động kinh doanh đến năm 2005
Nội dung
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
1. Doanh thu
Triệu đồng
4.200
4.500
4.800
5.100
Phí thắng cảnh
“
1.050
1.100
1.150
1.200
Kinh doanh dịch vụ
“
3.150
3.400
3.650
3.900
2. Nộp ngân sách
“
1.300
1.350
1.400
1.450
3. Lương bình quân
Ngàn đồng
550
570
600
620
4. Số lượt khách
Người
200.000
220.000
235.000
240.000
CHƯƠNG 3. TÍNH THỜI VỤ TRONG DU LỊCH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH AO VUA
I. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
Khi nghiên cứu các yếu tố quyết định tính thời vụ trong du lịch ở một nơi nào đó, chúng ta cần xem xét bốn vấn đề cơ bản sau:
Chỉ ra được yếu tố nào gây ra tính thời vụ du lịch ở đó.
Xác định được hướng tác động tiêu cực hay tích cực, mức độ tác động.
Xác định cường độ tác động của từng yếu tố.
Tác động tổng hợp của các yếu tố đó.
Trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố quyết định tính thời vụ du lịch cho phép các nhà quản lý nghiên cứu ngành và doanh nghiệp tìm ra phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, sự phát triển kinh tế xã hội của điểm, khu du lịch.
Với những phương hướng như vậy xét các nhân tố tác động tới tính thời vụ trong du lịch tại Công ty cổ phần du lịch Ao Vua như sau:
1. Địa hình, khí hậu.
1.1 Đặc điểm chung
Khu du lịch Ao Vua nằm ở phía tây thủ đô Hà Nội cách 60 km với đường đi rất thuận lợi: từ Hà Nội theo đường cao tốc Láng - Hoà Lạc 30 km, tới ngã ba rẽ phải theo quốc lộ 21A 14 km tới ngã ba Viện 5 rẽ trái theo tỉnh lộ 87 đi 12 km rồi rẽ trái 4 km nữa là tới. Hoặc có thể theo đường Quốc lộ 32 tới thị xã Sơn Tây 42 km rồi đi 2 km tới Viện 5 và tiếp tục đi theo tỉnh lộ 87. Như vậy với quãng đường trên dưới 60 km, đường đi rất tốt từ Hà Nội đến chỉ mất chừng 1 giờ 30 phút, thì khoảng cách tới thị trường gửi khách chủ yếu là không đáng kể, khoảng cách tâm lý cũng khá dễ dàng.
Với địa hình đồi núi, trên độ cao từ 70 mét trở lên, thuộc sườn phía đông thoai thoải và trên vị trí phía bắc của dãy núi Ba Vì, nằm chính trong một khe núi do sự xâm thực của các dòng nước chảy từ trên đỉnh núi xuống trong mùa mưa. Con suối chính khởi nguồn từ trên độ cao 600 m, có độ dốc lớn tạo nên nhiều đoạn suối, thác tuyệt đẹp. Nước suối trong veo chảy luồn lách qua các khe đá, tảng đá lớn, nhấp nhô dưới những tán lá xanh um tùm và tung bọt trắng xoá dưới các tầng thác 1, 2, 3, 4 qua một cái ao nhỏ – chính là Ao Vua rồi tiếp tục uốn lượn chẩy vào hồ Yên Hồng - một hồ nước lớn rộng hơn 1 ha.
Động thực vật nhìn chung nghèo nàn (khác với quần thể Vườn quốc gia Ba Vì nói chung), với một số loài chim, thú, bướm.. Thực vật chủ yếu là rừng mới trồng với các loại cây lấy gỗ như bạch đàn, keo, cây quế và các cây thuộc họ tre cùng các cây tạp khác.
Khí hậu chịu ảnh hưởng của nền khí hậu chung miền Bắc nước ta là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có mùa đông khô và lạnh với các đặc trưng chủ yếu sau: Nhiệt độ trung bình hằng năm vào khảng 20 độ C (Tính trong khu du lịch Ao Vua) mùa nóng từ thàng 4 đến tháng 10 nhiệt độ cao trung bình khoảng trên 24 độ C, tháng nóng nhất là tháng 7 nhiệt độ cao nhất có khi lên tới 36 – 37 độ C. Mùa lạnh nhiệt độ trung bình 17 độ C. Độ ẩm tương đối trung bình từ 85 đến 90 %. Lượng bốc hơi chủ yếu tập trung vào các tháng nóng, lượng bốc hơi trung bình trong vùng nhìn chung là thấp so với các vùng đồng bằng, trung bình khảng 10 mm (Hà Nội có lượng bốc hơi trung bình khoảng 100 mm). Nắng trong vùng mang tính chất chung của vùng Bắc bộ, hàng năm có từ 120 đến 140 ngày nắng chủ yếu trong các tháng mùa hè, số giờ nắng theo thống kê là 1560 giờ. Lượng mưa trung bình hằng năm khá cao vào khoảng 1600 – 1800 mm (Hà Nội 1400 – 1600 mm), mùa mưa chủ yếu trong các tháng 5 đến 10 chiếm khảng 80 đến 85 % lượng mưa cả năm.
1.2 Tác động tới tính thời vụ trong du lịch
Với đặc điểm tự nhiên như vậy khiến cho vùng núi Ba Vì nói chung và tại khu vực Ao Vua nói riêng rất có điều kiện phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, lội suối. Chính vì vậy có sự phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, mà tự nhiên thì luôn có những biến động, có những biến động theo chu kỳ và cũng có những biến động bất thường. Theo những sự thay đổi này của tự nhiên, hoạt động kinh doanh du lịch tại Ao Vua có những sự thay đổi, thăng trầm.
Sự thay đổi của khí hậu là nhân tố chủ chốt. Cụ thể vào mùa đông, nhiệt độ trung bình xuống thấp, trời lạnh mọi người phải mặc áo ấm chính vì vậy nhu cầu đi du lịch nghỉ dưỡng tham quan leo núi không cao và đặc biệt không thể tổ chức các chương trình du lịch lội suối, tắm mát. Vào mùa hè, thời tiết nóng nực, gây nên những sự mệt mỏi – stress và vì vậy nhu cầu đi du lịch tăng cao, nhất là đối với thể loại du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng với các chương trình lội suối, tắm mát, leo núi và hoà mình vào thiên nhiên. Đây cũng là quãng thời gian chính vụ của du lịch Ao Vua.
Sự thay đổi của lượng mưa, nắng cũng có tác động tới tính thời vụ. Cụ thể với những ngày hè nắng chói chang, nhu cầu tìm đến bóng râm của những tán cây, bên cạnh những hồ nước dòng suối và đặc biệt tới vùng núi rừng với độ cao, gió thổi, khí hậu mát mẻ càng trở nên cấp thiết. Vào mùa mưa lượng nước nhiều làm cho những con suối dòng thác tráng xoá đẹp thêm (mà mưa ở đây chủ yếu vào buổi chiều tối hoặc trải dài liền mấy ngày liền rả rích), trái ngược với mùa khô (các tháng 10 đến 3) lượng mưa rất nhỏ dẫn đến thiếu nước, các dòng suối, thác nước khô kiệt chảy lờ đờ; bể bơi không có nước cho nhu cầu tắm, nô đùa. Cảnh như vậy không thể mạng lại sức hấp dẫn tới du khách. Và như vậy các tháng mùa nắng, mùa mưa lượng du khách đông, hoạt động du lịch nhộn nhịp; mùa khô lượng du khách ít hơn hẳn, các hoạt động du lịch thưa thớt hoặc có những dịch vụ phải ngừng hoạt động.
Tóm lại các điều kiện tự nhiên đã làm nên khu du lịch Ao Vua, trở thành nguồn lực cho sự phát triển du lịch ở đây nhưng cũng chính là nhân tố chủ chốt dẫn đến sự biến động thời vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở nơi này.
2. Thị trường khách.
2.1 Cơ cấu khách
Sơ đồ Cơ cấu lượng khách tại Công ty cổ phần du lịch Ao Vua
Khác
Học sinh,
sinh viên
Công nhân viên chức
Nằm ở vị trí khá thuận lợi của một khu vực trong tương lai trở thành thành phố vệ tinh của Hà Nội. Với việc đề ra chính sách kinh doanh chủ yếu hướng vào du lịch nghỉ dưỡng, du lịch cuối tuần, du lịch sinh thái. Nguồn khách chủ yếu cho công ty được xác định là cán bộ công nhân viên, học sinh, sinh viên của khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận. Đặc điểm của nguồn khách này là có khả năng chi trả thấp, không lưu trú qua đêm hoặc chỉ thuê phòng vài giờ đồng hồ. Trong cơ cấu nguồn khách của công ty theo đánh giá thì: khách là học sinh, sinh viên chiếm khoảng trên 70%.
Một lượng khách khá lớn khác là người lao động, công chức nghỉ ngơi giải trí. Lư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- H0028.doc