MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CÁC LÝ LUẬN CƠBẢN VỀNHẬP SIÊU
1. Nhập siêu và các khái niệm liên quan . 5
2. Các yếu tốtác động đến nhập siêu . 5
2.1. Tác động của tỷgiá hối đoái . 5
2.2. Tác động của việc thay đổi thu nhập ởnước xuất khẩu và nước nhập khẩu 7
2.3. Cơcấu và chu kỳkinh tế. 7
2.4. Sựmất cân đối giữa tổng đầu tưvà tiết kiệm . 8
2.5. Các biện pháp bảo hộmậu dịch . 9
3. Tác động của nhập siêu đến nền kinh tế. 9
3.1. Các tác động tích cực . 9
3.2. Những rủi ro do nhập siêu . 10
4. Bài học giải quyết tình trạng nhập siêu từcác nước ASEAN . 11
CHƯƠNG 2: TÌNH TRẠNG NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM QUA
CÁC NĂM
1. TÌNH TRẠNG NHẬP SIÊU . 13
1.1. Thực trạng nhập siêu Việt Nam giai đoạn 1990- nay . 13
1.2. Mặt hàng nhập siêu . 14
1.3. Thịtrường nhập siêu . 17
1.4. Các nhận định vềnhập siêu . 19
1.4.1. Tình hình nhập siêu . 19
1.4.2. Mặt hàng nhập siêu . 20
1.4.3. Vấn nạn nhập siêu từTrung Quốc. 21
1.5. Nguyên nhân nhập siêu . 24
1.5.1. Nhà nước . 24
1.5.2. Doanh nghiệp . 26
1.5.3. Người dân . 28
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIẢM NHẬP SIÊU VIỆT NAM
1. Giải pháp Nhà nước, Bộ, Ngành năm 2011 . 30
2. Giải pháp, nhận định của các chuyên gia . 35
3. Các đềxuất của nhóm . 42
3.1. Các giải pháp ngắn hạn. . 42
3.1.1. Cơquan nhà nước . 42
3.1.2. Doanh nghiệp . 42
3.2. Các giải pháp dài hạn . 43
3.2.1. Tái cơcấu nền kinh tế. 43
3.2.2. Tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam . 44
3.2.3. Gia tăng giá trịmặt hàng xuất khẩu . 45
3.2.4. Xuất khẩu bằng giá CIF, nhập khẩu bằng giá FOB . 46
3.2.5. Phát triển du lịch – ngành “xuất khẩu tại chỗ” . 47
3.2.6. Thu hút kiều hối . 48
3.2.7. Đẩy mạnh “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” . 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 53
Tiếng Anh . 53
Tiếng Việt . 54
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3240 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình trạng nhập siêu của Việt Nam qua các năm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấy, nhập siêu từ nước láng
giềng đang ngày càng chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng nhập siêu của Việt Nam,
mà giá trị lan tỏa về công nghệ cũng như về xã hội không cao như kỳ vọng”.
Hiện nay, có nhiều ý kiến về vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc.
Theo GS-TS Võ Thanh Thu, nếu giải được nhập siêu từ Trung Quốc, VN có thể
giải quyết được bài toán nhập siêu, cũng là giải quyết được nhiệm vụ quan trọng
trong công tác điều hành XNK hàng hoá. Theo TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng
Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nếu giảm được lượng thiết
bị máy móc và hàng trung gian nhập về để sản xuất hàng tiêu dùng trong nước thì
có thể giảm được nhập siêu.
Vậy việc nhập siêu từ Trung Quốc có thật sự là vấn nạn? Trong Hội thảo khoa
học “Thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát và hạn chế nhập siêu” do trường Đại học Kinh
tế TPHCM tổ chức, có một số ý kiến cho rằng việc nhập siêu từ Trung Quốc chưa
23
hẳn là “vấn nạn”, và đối phó với vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc chưa chắc là lời
giải cho bài toán nhập siêu. Theo đó, nhập khẩu nhiều là bản chất của nền kinh tế
Việt Nam, bởi chúng ta đang trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu
không nhập siêu từ Trung Quốc, liệu Việt Nam có thể đảm bảo sẽ không nhập siêu
từ các quốc gia khác?. Hàng hóa nhập khẩu vào theo luồng vốn FDI, ODA, và với
các cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam không thể can thiệp để hạn chế nhập siêu
bằng các biện pháp phi thị trường. Có ý kiến cho rằng, bài giải cho bài toán nhập
siêu từ Trung Quốc là nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Ngoài ra,
theo GS. TS Đào Thị Hồng Vân, việc đối đầu với một quốc gia như Trung Quốc là
điều không tưởng, do đó, để xoay chuyển tình thế, Việt Nam nên hợp tác với Trung
Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Trên thực tế chúng ta không nên hoàn toàn cự tuyệt sự hỗ trợ từ phía Trung
Quốc, thế nhưng chúng ta không thể không đắn đo trước đề nghị trên bởi vì một khả
năng lớn là việc chấp nhận cho các doanh nghiệp Trung Quốc sang đầu tư ồ ạt ở
Việt Nam sẽ làm cho giá trị nhập siêu từ Trung Quốc sẽ càng lớn hơn nữa. Bởi vì
khi được trúng thầu các dự án ở Việt Nam, các nhà nhà thầu Trung Quốc mang theo
hầu như tất cả những gì họ có (từ Trung Quốc) để phục vụ công trình, từ máy móc,
công nghệ đến nguyên, vật liệu (chưa kể công nhân)… Chính vì vậy mà giá trị nhập
khẩu từ Trung Quốc chắc chắn sẽ tăng chứ không giảm. Vì thế chúng ta cần cân
nhắc lựa chọn những ngành thật sự là cần thiết, có thể góp phần vào sự phát triển
chung của nền kinh tế mới cho đầu tư, không nên vì những lợi ích trước mắt mà dẫn
đến những tổn thất trong tương lai.
Câu chuyện nhập siêu từ Trung Quốc còn nhiều vấn đề cần bàn luận. Qua đó có
thể thấy giải quyết vấn đề nhập siêu của Việt Nam không đơn giản và không thể
giải quyết trong ngắn hạn.
24
1.5. Nguyên nhân nhập siêu
1.5.1. Nhà nước
Nhập siêu để phát triển đất nước
Việt Nam định hướng sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
hóa vào năm 2020. Trong khi nền sản xuất trong nước còn lạc hậu, không đáp ứng
đủ cho nhu cầu phát triển, việc nhập khẩu sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia.
Thông qua con đường nhập khẩu, nước ta có cơ hội tiếp xúc nhiều máy móc, thiết bị
hiện đại và công nghệ tiên tiến. Nhờ đó, sản xuất trong nước sẽ phát triển và xuất
khẩu cũng được nhiều sự hỗ trợ từ nhập khẩu.
Công tác điều hành quản lí còn lỏng lẻo
Theo ý kiến của GS.TS Võ Thanh Thu và GS.TS Hoàng Thị Chỉnh, công tác điều
hành xuất nhập khẫu của ta còn kém nên dẫn đến nhập siêu. Ta chưa xây dựng được
các rào cản thương mại hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này dẫn đến
thế bị động trong công tác quản lí nhập khẩu khiến việc nhập khẩu tràn lan tại nước
ta. Hệ quả là sản phẩm nhập khẩu chất lượng thấp xuất hiện, nhiều sản phẩm sản
xuất được trong nước nhưng vẫn nhập, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nước.
Đơn cử như hàng năm doanh nghiệp nước ta nhập khẩu hàng tỷ USD nông sản
nhưng ta chưa xác định được tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm
cho những mặt hàng này. Ngoài ra, công tác dự báo và thông tin còn hạn chế dẫn
đến tình trạng như thừa vẫn cứ nhập (phân bón), hàng hóa bán với giá rẻ (gạo)…
Chính sách tỷ giá
Theo ông Đinh Tuấn Minh (VERP, đại học Quốc gia Hà Nội), một trong những
nguyên nhân dẫn đến nhập siêu đó chính là chính sách tỉ giá. Trong cơ chế tỉ giá thả
nổi, tỉ giá phụ thuộc vào cán cân thương mại và các dòng tiền khác. Mặt khác, tỉ giá
25
là yếu tố điều chỉnh cán cân thương mại về trạng thái cân bằng trong mối tương
quan với các dòng vốn khác.
Ông dẫn chứng Thái Lan làm ví dụ. Đầu năm 2005, nền kinh tế Thái Lan nhập
siêu lớn. Nhờ cơ chế tỷ giá thả nổi nên đồng baht tự động bị mất giá, giúp cho nhập
siêu giảm. Xét trong một giai đoạn dài, chẳng hạn năm 2006 – 2007, khi Thái Lan
có xu hướng xuất siêu lớn, giá trị đồng baht đã tăng rất nhanh. Ngược lại năm 2008,
khi nền kinh tế Thái Lan có xu hướng nhập siêu, đồng baht mất giá trở lại. Chính
nhờ cơ chế tỷ giá thả nổi như vậy nên cán cân thương mại hàng tháng của Thái Lan
luôn dao động trong trạng thái khá cân bằng trong biên độ +/– 2 tỉ USD.
Tuy nhiên, cơ chế tỉ giá của Việt Nam lại không làm được điều này. Do tỷ giá
chính thức về cơ bản là cố định nên trong hầu hết quãng thời gian các năm 2006,
2007 và 2009 tốc độ nhập siêu ngày càng tăng mạnh nhưng tỷ giá thì hầu như
không thay đổi; ngược lại, trong giai đoạn nửa cuối năm 2008, bất chấp tốc độ nhập
siêu giảm dần, VND lại vẫn mất giá rất nhanh. Cơ chế tỉ giá chính thức áp đặt đã
không điều chỉnh được các hoạt động xuất nhập khẩu và gây ra tình trạng nhập siêu
ngày càng tăng tại Việt Nam
Ngành công nghiệp phụ trợ èo uột
Theo Viện nghiện cứu quản lí trung ương, công ty Daihatsu (Nhật) đã từng sang
Việt Nam tim kiếm nhà cung cấp ốc vít, nhưng đã khảo sát tới 64 doanh nghiệp
nhưng vẫn không lựa được doanh nghiệp nào đủ yêu cầu. Canon cũng phải mất một
thời gian dài mới tìm được nhà cung cấp tại Việt Nam, song 90% trong số đó là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến năm 2011, sau hơn 10 năm hoạt động,
tỷ lệ nội địa hóa của ngành ô tô cao nhất cũng chỉ đạt 10% (Honda Việt Nam), kế
tiếp là Toyota Việt Nam (7%). Các công ty ô tô còn lại chỉ đạt 2-4%. Hai ngành
xuất khẩu chủ lực là dệt may và da giày cũng không khá gì hơn, vẫn phụ thuộc lớn
vào nguyên phụ liệu nhập khẩu.
26
Thất bại của ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam dẫn tới hậu quả là các doanh
nghiệp trong nước và xuất khẩu phải phụ thuộc vào hàng nhập khẩu, làm mất tính
cạnh tranh của hàng hóa và giá trị gia tăng đi xuống. Kết quả nghiên cứu của Viện
Nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công thương) cho thấy tỉ lệ giá
trị gia tăng trong giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp năm 1995 đạt 42,5%,
đến năm 2000 giảm xuống còn 38,45%, năm 2005 là 29,63% và năm 2007 còn
26,3%.
Ngoài ra còn ảnh hưởng đến việc thực hiện các cam kết tự do hóa thương mại và
đầu tư theo các hiệp định mà Việt Nam tham gia. Các nhà đầu tư nước ngoài thay vì
tổ chức sản xuất tại Việt Nam sẽ chuyển qua nhập khẩu sản phẩm của chính họ để
phân phối trên thị trường Việt Nam, và các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam lần
hồi sẽ chỉ còn là những đại lý phân phối cho các công ty nước ngoài. Điều này
dường như đã bắt đầu xảy ra.
Theo ông Đỗ Mạnh Hồng, hiện đang công tác tại Đại học Obirin (Tokyo, Nhật
Bản) và là chuyên gia nghiên cứu lâu năm về lĩnh vực này thì việc phát triển công
nghiệp phụ trợ của Việt Nam suốt hơn một thập niên qua không thoát khỏi trạng
thái bùng nhùng có thể do ba nguyên nhân. Một là bản thân chính sách hỗ trợ thiếu
rõ ràng, do đó chỉ tập trung hỗ trợ một số doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực này.
Hai là tư tưởng hỗ trợ mang tính bảo hộ của các nhà làm chính sách, cùng thái độ
trông chờ hỗ trợ của doanh nghiệp nhà nước.Thứ ba là tình trạng hoạt động riêng rẽ
và thiếu chủ động yêu cầu hỗ trợ của khối doanh nghiệp tư nhân, vốn là nhân vật
chính của cuộc chơi kinh tế thị trường và cũng là đối tượng chính cần hỗ trợ.
1.5.2. Doanh nghiệp
Thiếu tính cạnh tranh
Các số liệu thống kê cho thấy trong 8 tháng đầu năm 2007, để các doanh nghiệp
trong nước xuất khẩu giá trị là 13,757 tỷ USD thì bộ phận này đã nhập khẩu các
27
máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu lên đến 24,113 tỷ USD. Như vậy, các
doanh nghiệp trong nước đã nhập siêu lên đến 10,35 tỷ USD, chiếm 75,2% kim
ngach xuất khẩu của bộ phận này. Con số nhập siêu này còn lớn hơn lượng nhập
siêu của nền kinh tế lúc đó là 6,414 tỷ USD. Do các ngành khác và các doanh
nghiệp FDI đã xuất siêu rất cao nên đã bù lượng nhập siêu của các doanh nghiệp
trong nước.
Ngoài ra, còn có sự khác biệt quá lớn giữa các khu vực doanh nghiệp trong nước
và khu vực doanh nghiệp FDI. Khu vực doanh nghiệp FDI có mức tỷ suất lợi nhuận
bình quân trên vốn đạt 11,65% và trên doanh thu đạt 14,6%, cao hơn nhiều so với
mức tỷ suất lợi nhuận bình quân của khu vực doanh nghiệp trong nước với các con
số tương ứng là 4,4% và 5,1%. Các số liệu trên phần nào năng lực còn hạn chế của
các doanh nghiệp trong nước.
Thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải là, thiếu thông tin thị
trường, không biết nhiều về giá cả và xu hướng thị trường mới; nhiều doanh nghiệp
chưa có tầm nhìn vượt khỏi công ty của mình. Việc thiếu thông tin và tầm nhìn hạn
chế dẫn đến khả năng tiếp cận thị trường hạn chế, sản phẩm làm ra không được tiêu
thụ rộng rãi - nhiều khi chỉ trong phạm vi một ngành, một địa phương, không được
các doanh nghiệp khác ở trong nước biết tới - lại càng khó xuất khẩu ra nước ngoài.
Chừng nào các doanh nghiệp trong nước còn chưa cải thiện công nghệ và trình độ
quản lí của mình thì họ sẽ luôn bị hàng nhập khẩu lấn át.
Thiếu tính liên kết, làm ăn manh mún
Trong bài “Thiếu liên kết, doanh nghiệp khó đứng vững” đang trên báo điện tử
của Đài tiếng nói nhân dân VIệt Nam (VOV news), tác giả đã chỉ ra việc thiếu tính
liên kết và hợp tác của các doanh nghiệp trong nước là một điểm yếu lớn của doanh
nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước vẫn duy trì phong cách làm ăn tự
cung tự cấp. Các doanh nghiệp nhỏ thì thiếu tính hợp tác, luôn có tư tưởng chụp giật,
28
triệt tiêu lẫn nhau cũng như chèn ép bạn hàng để giành ưu thế trên thị trường.Điều
này không những làm giảm hiệu quả sản xuất-kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến
khả năng tồn tại của doanh nghiệp.
Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), rất ít KCN, cụm
công nghiêp đạt được tính liên kết cao giữa các doanh nghiệp hoạt động trên cùng
địa bàn. Sự rời rạc, tách biệt trong hoạt động sản xuất - kinh doanh trong KCN,
không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của nhau; sự thiếu vắng các đơn vị hoạt động
chuyên nghiệp trong các dịch vụ hỗ trợ... đang là những rào cản, ảnh hưởng đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hiện nay, trong tình hình hội nhập kinh tế, doanh nghiệp trong nước đang vấp
phải nhiều đối thủ từ nước ngoài, cạnh tranh diễn ra ở mức độ gay gắt làm cho việc
liên kết, hợp tác giữa những doanh nghiệp trở nên cấp thiết. Sự liên kết, hợp tác
giữa các doanh nghiệp nuôi và chế biến cá basa, tôm, các doanh nghiệp trồng và chế
biến chè, cafe, các doanh nghiệp dệt, may... trong việc phát triển thị trường, giải
quyết tranh chấp quốc tế những năm qua là minh chứng rõ nhất về nhu cầu này.
1.5.3. Người dân
Tâm lí thích dùng hàng nước ngoài
Theo bà Đinh Thị Mỹ Loan, P.Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội các nhà bán
lẻ VN cho rằng: nguyên nhân là có thời gian các doanh nghiệp không đáp ứng được
nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập khá trở
lên. Một yếu tố nữa là tâm lý của người tiêu dùng, do các sản phẩm của chúng ta
cũng không có nhiều chi phí quảng cáo, các chiêu thức khuyến mại như các sản
phẩm nước ngoài cũng là một tác động đến tâm lý tiêu dùng. TS Lê Đăng Doanh bổ
sung thêm hàng Việt Nam hiện nay chưa bảo vệ thích đáng được người tiêu dùng.
Chính những loại hàng giả, hàng nhái trong nước đang làm hại các nhà sản xuất.
29
Thích dùng hàng hiệu
Tâm lí thích dùng hàng hiệu là một thói quen khó bỏ của người Việt Nam. Thống
kê đầu năm 2011 cho thấy trong số 10 tỉ USD nhập hàng xa xỉ, có tới 9 tỉ USD là
nhập rượu ngoại, thuốc lá, đố trang sức, điện thoại. Theo TS Nguyễn Minh Phong,
nếu so sánh với mức nhập siêu 12,6 tỉ USD, thì con số 10 tỉ USD người dân bỏ ra
tiêu xài hàng ngoại vô cùng đáng lo ngại. Hàng xa xỉ đang khiến nhập siêu tăng cao
và không mang lại giá trị gia tăng cho nền kinh tế cũng như làm hao tổn nguồn lực
ngoại tệ của đất nước.
Tâm lí thích dùng hàng hiệu, hàng mắc tiền không chỉ ảnh hưởng đến cán cân
thanh toán của quốc gia mà còn ảnh hưởng đến chính người tiêu dùng. Do nhu cầu
thể hiện bản thân cao dẫn đến nhu cầu về hàng hiệu cao, giá của các mặt hàng này
càng tăng. Giá cao quá mức đã tác động xấu đến chính người mua. Tuy nhiên do
tâm lí cho rằng hàng hiệu phải mắc, càng mắc mới là hàng hiệu, doanh thu các mặt
hàng không những không bị ảnh hưởng mà còn tăng nhanh.
Vấn đề là ta không thể cấm người dân không mua hàng hiệu vì đó là nhu cầu cá
nhận. Các biện pháp hiện nay như hạn chế cấp ngoại tệ để nhập khẩu hàng xa xỉ,
tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, sử dụng hàng rào kỹ thuật... cũng chỉ dừng ở mức hạn
chế nguồn cung và cầu.Nhưng nếu có thề giải quyết được vấn đề tâm lí này, vấn đề
nhập siêu của ta có thể được cải thiện.
30
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIẢM NHẬP
SIÊU VIỆT NAM
1. Giải pháp Nhà nước, Bộ, Ngành năm 2011
Ngày 24 tháng 2 năm 2011 vừa qua, chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-
CP về một số giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2011.
Sau đây là giải pháp trong Nghị Quyết 11 nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng
lượng
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
Trong quý II năm 2011, ban hành và thực hiện quy định về điều tiết cân đối
cung - cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản
xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu; tiếp tục chỉ đạo, kịp thời
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh để đẩy mạnh
sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ; chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo bảo
đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước, phối hợp với Bộ Tài
chính trong việc điều hành dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực;
thường xuyên theo dõi sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp
thời có biện pháp điều tiết, bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết
yếu. Chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng giá. → Thúc đẩy sản xuất
trong nước nhằm ổn định cung cầu, bình ổn giá khi tiến hành các biện
pháp giảm nhập siêu.
Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu, phấn đấu bảo đảm nhập siêu
không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xây dựng quy trình, nguyên tắc
31
kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính
phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước; phối hợp với Bộ Tài
chính kiểm tra, giám sát bảo đảm thực hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ về việc sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước,
nhất là các dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu nhập khẩu; chủ động
áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng tiêu dùng, hạn
chế nhập siêu. → Mục tiêu nhập siêu không quá 16%.
Chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty thành viên có kế hoạch
huy động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải
điện trong mùa khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; phối hợp với Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc sử
dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp lý để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu
thiết yếu của sản xuất và đời sống.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết
lợi nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng…
thu được từ việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn
giá thị trường.
Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào
nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong
nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ,
dược phẩm,…; tiếp tục thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối
với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011. → Tạo nhiều điều kiện để
giảm thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu chưa thể sản xuất được, để có lợi
nhuận lớn hơn khi xuất khẩu hàng dệt may, giầy dép...
32
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu
ưu đãi đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính
sách ưu đãi về thuế tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát
để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà
trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức
phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên,
nguyên liệu thô. → Tăng thuế xuất khẩu các mặt hàng thô, nhằm hạn
chế xuất khẩu mặt hàng thô, tài nguyên đất nước.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thiết
yếu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng
hóa thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu theo danh mục do Bộ Công
Thương ban hành. → Có danh mục rõ ràng cần nhập khẩu mặt hàng nào
và mặt hàng nào đã có trong nước, hạn chế nhập khẩu thêm. Từ đó, Ngân
hàng có biện pháp cho vay hợp lý giữa 2 trường hợp này.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan,
địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích
phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn, tăng xuất khẩu, tạo việc làm, thu
nhập cho người lao động, bảo đảm an ninh lương thực. → Tăng xuất khẩu
hàng nông nghiệp (nhưng thực chất thì giá trị hàng nông nghiệp lại thấp).
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhất là thành phố
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ tình hình sản xuất, tiêu dùng tại địa
phương, chỉ đạo sản xuất, dự trữ, lưu thông, phân phối hàng hóa thông suốt,
trước hết là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu,...;
tăng cường quản lý giá, bình ổn giá trên địa bàn. → Tích trữ hàng tiêu dùng
thiết yếu để bình ổn giá khi áp dụng các biện pháp giảm nhập siêu.
Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục đẩy mạnh
cổ phần hoá, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, đổi mới quản trị
doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản
33
phẩm hàng hoá, dịch vụ ở mức hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản xuất
kinh doanh chính.
Các Bộ, cơ quan, địa phương tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo triển khai quyết liệt,
tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các quy định về tiết kiệm,
chống lãng phí; xây dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu
tiết kiệm sử dụng điện 10% theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ;
đồng thời, áp dụng các biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích,
khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện,
xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết
kiệm điện.
Đây là các giải pháp căn bản để đảm bảo tăng trưởng bền vững năm nay và
những năm tiếp theo.
Đối với việc khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, Nghị quyết hướng dẫn
cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ Ngành trong việc kiểm tra, giám sát bảo
đảm thực hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng hàng hóa,
vật tư, thiết bị sản xuất trong nước, nhất là các dự án sử dụng máy móc, thiết bị, vật
liệu nhập khẩu; chủ động áp dụng các biện pháp phù hợp kiểm soát nhập khẩu hàng
tiêu dùng, hạn chế nhập siêu.
Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi
nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ
việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường.
Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập
khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu
nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục
thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu
trong năm 2011.
34
Hỗ trợ xuất khẩu
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi
đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về
thuế tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định.
Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất
mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù
hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu
thô.
Tăng xuất khẩu
Đứng trước tình hình khi 4 tháng đầu năm 2011, kim ngạch nhập khẩu nước ta
đạt trên 31,83 tỷ USD, tăng hơn 29% so với cùng kỳ năm ngoái. Trước tình trạng
nhập siêu quá lớn từ một số thị trường nước ngoài, các chuyên gia của các tổ chức
tài chính, thương mại đã tiếp tục vào cuộc đưa ra hàng loạt các giải pháp để cải
thiện tình hình.
Tổng cục Hải quan áp dụng các biện pháp hàng rào kỹ thuật hữu hiệu, đối với
các mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu giúp đẩy cán cân thương mại Việt Nam trở
nên ổn định hơn, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu nhiều hơn để bù đắp thâm hụt từ
hàng nhập khẩu.
Đồng thời, áp dụng biện pháp thuế song song với các giải pháp về tín dụng để
hạn chế nhập hàng tiêu dùng không thiết yếu. Có giải pháp phù hợp duy trì cơ cấu
nhập khẩu hàng tiêu dùng cần thiết và tiến tới hạn chế những hàng tiêu dùng không
cấp thiết.
Tăng các rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu không thiết yếu phục
vụ sản xuất tiêu dùng, phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết. Cụ thể cần: Rà
35
soát lại tất cả các khoản thuế, dòng thuế đối với các hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là
nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến mức cao nhất mà lộ trình đã cam kết
cho phép; Nghiên cứu áp dụng các rào cản phi thuế như các rào cản kỹ thuật, biện
pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm, biện pháp tự vệ, trợ cấp hoặc biện pháp đối
kháng theo đúng các điều kiện do WTO quy định.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh xuất khẩu, thay đổi cơ cấu nhập khẩu, đồng thời với thúc
đẩy phát triển cả thị trường hàng hóa lẫn thị trường yếu tố đầu vào nội địa thông qua
mở rộng sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và chú trọng phát triển công nghiệp phụ
trợ: Hướng vào xuất khẩu các hàng hóa đem lại giá trị gia tăng cao như phần mềm,
linh kiện điện, điện tử...; hướng vào các dịch vụ phi hàng hóa như du lịch, xuất khẩu
lao động...
Đa dạng hóa thị trường, đặc biệt là các thị trường tiềm năng như châu Phi, Trung
Đông để giảm bớt sự phụ thuộc vào một vài nền kinh tế và cũng qua đó chia sẻ
được rủi ro. Cần lập các kênh thông tin thương mại, củng cố vai trò của các đại diện
thương mại ở nước ngoài, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tham gia, tổ
chức hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm đối tác, hỗ trợ và thúc đẩy các công
ty Việt Nam tham gia vào các hội chợ quốc tế chuyên ngành
Cơ cấu ngành cần cân nhắc các nhân tố lợi thế của Việt Nam để lựa chọn phát
triển phù hợp, giảm việc sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu
cũng như giảm áp lực lên cầu nhập khẩu...
Tập trung khai thác thị trường nội địa kết hợp với thị trường xuất khẩu sẽ giảm
những biến động từ tác động bên ngoài...
2. Giải pháp, nhận định của các chuyên gia
Trong bài viết xuất bản ngày 13 tháng 5 năm 2011, tác giả Trần Văn Thọ (ĐH
Waseda, Nhật Bản) nhận định rằng: Nút thắt của nhiều vấn đề kinh tế vĩ mô hiện
36
nay là chuyện nhập siêu, sau bốn tháng đầu năm đã lên đến gần 5 tỉ đô la, trong đó
nhập siêu với Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nhất. Hiện nay tỷ giá đang khuyến
khích cho nhập siêu. Mặc dù nhân dân tệ đang tăng giá so với đô la Mỹ, nhà nhập
khẩu vẫn hưởng lợi lớn khi hàng nhập về bán bằng tiền đồng sẽ có giá tăng (do lạm
phát tiền đồng) nhưng tỷ giá lại được giữ "ổn định".
Tình hình này khuyến khích mọi người nhập khẩu thay vì sản xuất hàng để bán
trong nước. Chuyện hàng nhập khẩu chèn lấn hàng sản xuất trong nước đang diễn ra
ở khắp mọi ngành nghề chứ không chỉ là nhập máy móc, nguyên vật liệu. Các ý
kiến sẽ tập trung làm rõ vấn đề nhập siêu và giải pháp để hạn chế. Ông cho rằng,
đồng tiền Việt Nam phá giá liên tục nhưng nhập siêu vẫn lớn và tiếp tục tăng.Thông
thường đồng tiền mất giá có tác dụng làm tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu nhưng
ở Việt Nam thì không thấy hiệu quả đó, ngược lại nhập khẩu vẫn tăng. Theo ôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp giảm nhập siêu việt nam.pdf