Đề tài Toàn cầu hoá và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

PHẦN NỘI DUNG 2

I/ TOÀN CẦU HOÁ 2

1/ Qúa trình hình thành và phát triển toàn cầu hoá: 2

2/Nội dung của quá trình toàn cầu hoá 4

II/ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 6

1/Tính tất yếu hội nhập kinh tế Việt Nam 6

1.1.Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan 6

1.2.Cơ hội và thách thức của Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế 8

2/ Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 10

2.1. Giai đoạn trước năm 1985 10

2.2. Giai đoạn mở cửa hội nhập tù năm 1986 đến năm 1990 11

2.3. Giai đoạn từ năm 1991- 1995 12

2.4. Giai đoạn đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1996 đến nay 13

III/ Thực trạng và giải pháp để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 14

1/ Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 14

2/ Các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 15

KẾT LUẬN 17

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Toàn cầu hoá và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia gắn bó và tuỳ thuộc vào nhau, dần dần hình thành một thể thống nhất xoá dần đi những ngăn trở và khoảng cách về nhiều phương diện. - Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc tế đã đạt tới trình độ rất cao, không chỉ giới hạn ở chuyên môn hoá sản phẩm mà đã là chuyên môn hoá các chi tiết sản phẩm. Với phương châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các nước làm phân xưởng của mình, các nước có thể lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của nước khác, từ đó thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Thí dụ, một loại xe của hang Toyota sản xuất tại Mỹ có 25% linh kiện được sản xuất ở ngoài nước mỹ. Một loại xe ô tô của công ty Ford có 27% linh kiện do nước khác sản xuất. - Các công ty xuyên quốc gia phát triển chưa từng có trong lịch sử và đóng vai trò hết sức quan trọng, nó thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, năm 1996, thế giới có 44.000 công ty xuyên quốc gia, trong đó 28.000 công ty con có tổng giá trị sản xuất chiếm 40% GDP thế giới, chiếm 50% giá trị thương mại của thế giới. Tổng kim ngạch tài sản năm 1996 của các công ty xuyên quốc gia này lên tới 3.200 tỷ USD.Hàng năm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của chúng chiếm 90% đầu tư trực tiếp của thế giới. Năm 1998, các vụ sát nhập đã lên đến 2.500 tỷ USD. Năm 1999, riêng 10 vụ sát nhập các công ty lớn trên thế giới đã lên tới 1.500 tỷ USD.Năm 2000, các cuộc cạnh tranh và sát nhập các tập đoàn lớn lại diễn ra gay gắt, quyết liệt với quy mô chưa từng thấy. - Trong quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế, dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Đó là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh châu Âu ( EU), Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Liên minh các nước Đông Nam á (ASIAN), Thị trường tự do Nam Mỹ Mercosur, Khối cộng đồng kinh tế Tây Phi, và hang chục tổ chức kinh tế khác ở khắp các châu lục. Thông qua các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế này, quy mô lưu thông vốn quốc tế lớn chưa từng thấy, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế; các lĩnh vực hợp tác trong toàn cầu hoá kinh tế không ngừng phát triển. - Qúa trình toàn cầu hoá kinh tế hiện đại tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị, dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế mà lớn nhất là Liên hợp quốc. Liên hợp quốc cùng với các tổ chức của nó như Cương trình phát triển LHQ (UNDP), Quỹ LHQ về các hoạt động dân số (UNFPA), Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của LHQ (UNESCO), Quỹ Nhi động LHQ (UNICEF), Hội nghị Liên Hợp Quốc tế và phát triển (UNCTAD) đang tác động mạnh ,mẽ đến tất cả các khu vực, các nước trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự phát triển của các tổ chức này, luật pháp quốc tế cũng hình thành. Thí dụ: Công ước quốc tế về luật biển (1982), Công ước quốc tế về quyền trẻ emNhư vậy, có thể nói rằng, toàn cầu hoá thúc đẩy sự thẩm thấu lẫn nhau chẳng những của các nền kinh tế mà còn lan toả ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và các quốc gia trên thế giới. Hai là, hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất quốc tế và giá cả quốc tế Ngày nay, khi xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất như đường giao thong, sân bay,bến cảng, kho bãi, hệ thống thong tin lien lạc và cả các lĩnh vực khác như dịch vụ, khách sạncác quốc gia đều giựa theo tiêu chuẩn quốc tế. Hệ quả của nó là tạo ra điều kiện thuận lợi hơn cho mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia. Toàn cầu hoá kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành giá cả quốc tế. Ngày nay, các sản phẩm phổ biến ( như xăng dầu, gạo, sắt, thép, cà phê) đều có giá cả quốc tế. Sự xuất hiện giá cả quốc tế lại giúp cho các quốc gia tìm ra lợi thế cảu mình, tập trung sản xuất những sản phẩm có thế mạnh để xuất khẩu và mua những sản phẩm mà chưa sản xuất được hoặc chất lượng chưa cao, giá cả lại đắt. Chính vì vậy, trong những thập niên gần đây, thương mại quốc tế phát triển rất mạnh mẽ và có những xu hướng mới. Ba là, Nền kinh tế mới trong toàn cầu hoá là nền kinh tế công nghệ cao- nền kinh tế tri thức. Cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều phát minh khoa học, một cuộc cách mạng thực sự đã diễn ra trong vật lý học: Phát hiện ra tia Rơn-ghen (1895), hiện tượng phóng xạ (1896), điện tử (1897), radium (1898), rồi đến những phát minh trong thế giới vi mô (nguyên tử), và vĩ mô (vũ trụ). Khoa học đã thu thập được một khối lượng khổng lồ những tri thức về thế giới tự nhiên tạo nền móng cho khoa học hiện nay. Theo tính toán của nhiều nhà khoa học, toàn bộ lượng thông tin, tri thức trong thế kỷ XX tăng gấp 1.000 lần so với hồi đầu thế kỷ, và vượt trội so với tổng tri thức mà loài người tích luỹ được trong suốt 19 thế kỷ qua. Khoa học hiện đại ngày càng phát triển, tiến vào lĩnh vực vi mô và vĩ mô. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đầu thế kỷ XX là cái nguồn tất yếu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, mở đầu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nền kinh tế toàn thế giới bắt đầu cơ cấu lại, trang bị lại. Bên cạnh những ngành kinh tế gắn với nền đại công nghiệp, như các ngành luyện kim, điện lực, sản xuất ô tô, xi măng. sắt thépcòn có các ngành kinh tế mới phát triẻn cực nhanh (điện tử - bán dẫn, máy tính, viễn thông), trong đó có các dịch vụ liện quan đến thông tin ( ngân hàng, tư vấn, thiết kế, bảo hiểm) phát triển mạnh, thậm chí ở một số nước, lĩnh vực này chiếm tới 70% thu nhập của nền kinh té quốc dân.Các ngành công nghệ cao được hình thành và trở thành những mũi nhọn kinh tế của các quốc gia. Thứ hai là sự phát triển vượt bậc của công nghệ sinh học, khoa học hiện đại đã khám phá ra gen dưới dạng các phân tử hình xoắn kép (AND), hiểu rõ được mật mã của sự sống, đã tạo ra một tiềm năng vô tận cho việc sản xuất cac vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người. Sự phát triển của công nghệ sinh học, việc tạo ra những sinh vật và nhân giống chúng một cách tối ưu đã mở ra những triển vọng vô cùng to lớn trong việc tăng năng suất lao đọng, giải đáp những vấn đề nhu cầu cuộc sống mà loài người trước đây chưa từng biết. Thứ 3, nhiều công nghệ mới quan trọng khác như công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụra đời, mở ra những tiềm năng mới, triển vọng mới. Ngày nay, việc sử dụng nguồn điện nguyên tử, thuỷ điện nguyên tử, thuỷ điện và điện mặt trời ngày càng nhiều trong đời sống xã hội. Các vật liệu mới như chất dẻo dặc biệt, vật liệu tổng hợp, sợi quang họcthay thế ngày càng nhiều những nguyên liệu truyền thống. II/ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 1/Tính tất yếu hội nhập kinh tế Việt Nam 1.1.Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan Thời đại ngày nay, quan hệ kinh tế quốc tế đang phát triển rất mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu, trở thành một xu thế tất yếu mà không một quốc gia nào có thể phát triển nếu đứng ngòai xu thế đó. Trong thời đại ngày nay,toàn cầu hoá kinh tế lôi cuốn mọi quốc gia vào dòng xoáy của nó, dù là quốc gia tiên tiến hay lạc hậu, phát triển hay chậm phát triển. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những thời cơ và những thách thức mới; quốc gia nào nắm bắt được thời cơ, vượt qua được thách thức sẽ phát triển nhanh hơn, ngược lại sẽ bị tụt hậu xa hơn. Trong bối cảnh đó, hội nhập vào nền kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với mọi quốc gia Khi mà xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển ngày càng nhanh thì các nước trên thế giới ở mức độ này hay mức độ khác đều phụ thuộc vào nhau, quan hệ qua lại với nhau. Vì thế,nước nào đóng cửa lại với thế giới là đi ngược với xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc hậu. Trái lại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tuy có thể phải trả giá nhất định, song đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển và nó cũng vì mục tiêu phát triển kinh tế nhanh đuổi kịp các nước khác trên thế giới, xu thế trên trở thành xu thế khách quan, lôi kéo tất cả các quốc gia không loại trừ một nước nào.Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, Việt Nam muốn bắt kịp các nước khác trên thế giới phải gia nhập vào “dòng chảy” phát triển cúa thế giới, nhanh chóng học hỏi và nắm bắt những công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất tạo ra những bước đột phá phát triển đất nước. Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế là tất yếu khách quan, việc nhận thức được xu thế chung của thời đại và việc đề ra việc hội nhập là một trong những tư tưởng sang suốt của Đảng ta đã khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp phải gằn liền với việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trở thành tất yếu khách quan và là một trong các nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ qua độ ở nước ta và được nhấn mạnh nhiều lần trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quôc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Chuẩn bị tốt các điều kiện để kí kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức thương mại thế giới WTO” 1.2.Cơ hội và thách thức của Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế Ngày nay, toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Đại diện cho xu thế toàn cầu hóa này là sự ra đời và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). WTO là tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu, với sự tham gia của 148 nước thành viên, không chỉ điều tiết thương mại hàng hóa mà còn cả các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ, chiếm trên 90% tổng kim ngạch thương mại thế giới. Việt Nam Gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây: Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và củng cố cải cách kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi ích như: Đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO. Thứ hai, gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. So với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp định của Vòng Uruguay vì theo quy định của WTO, hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế, sẽ rất có lợi từ quy định này. Bên cạnh việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa trong nước, Việt Nam còn tận dụng được cơ hội từ nhập khẩu như lựa chọn nhập các loại hàng hóa có kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến để nhanh chóng phát triển các ngành có công nghệ cao, ngành mũi nhọn, nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển trên thế giới. Thứ ba, Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì sẽ nhận được một số ưu đãi đặc biệt như được miễn trừ sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng hóa thuộc loại cạnh tranh, sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm. Thứ tư, Việt Nam sẽ có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần những bất hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Thứ năm, Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm quản lý và công nghệ mới của nước ngoài. Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đã trở thành một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chủ yếu vào việc chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam trong những năm qua. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động tích cực như: tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm về cách thức quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ khách hàng Sáu là, nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tự do hóa thương mại của WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong việc tạo sản phẩm mới, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm Bên cạnh những cơ hội đó, Việt Nam đồng thời cũng phải đương đầu với các thách thức sau khi gia nhập WTO. Bởi lẽ, so với thế giới, Việt Nam còn là một trong những nước nghèo với mức GDP đạt 372 USD/người/năm, hệ thống chính sách kinh tế-xã hội đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đồng bộ, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lýcó sự chênh lệch lớn so với các nước phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải thực thi đầy đủ các cam kết của mình, đặc biệt là các cam kết trong một số lĩnh vực như dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các biện pháp đảm bảo thương mại công bằng, an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, kiểm dịch động thực vật và hàng rào kỹ thuật thương mại, nên việc thực thi sẽ rất khó khăn. Điều này không chỉ yêu cầu Việt Nam phải thông qua các luật lệ, quy định phù hợp với WTO và nền kinh tế thị trường, mà còn đòi hỏi tình hình thực tiễn phải đáp ứng được các yêu cầu của WTO. Cụ thể, Việt Nam phải nâng cao đáng kể năng lực cho các cơ quan có liên quan cũng như thay đổi cơ bản về quản lý và tổ chức, đầu tư đáng kể cho nguồn nhân lực, hợp lý hóa công tác tổ chức thương mại và phân bổ ngân sách. Nếu không, sẽ phát sinh hai vấn đề: Thứ nhất, Việt Nam không thể thực hiện các nghĩa vụ WTO của mình và thứ hai là Việt Nam không thể tận dụng được hết các cơ hội khi gia nhập WTO, từ đó sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng, có thể gây tổn hại cho nền kinh tế. 2/ Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 2.1. Giai đoạn trước năm 1985 Không phải bây giờ chúng ta mới hội nhập, chủ trương hội nhập đã có từ khá lâu. Vào trước năm 1945, nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vn là nền kinh tế phong kiến tự cung tự cấp.Cho đến những năm 1945, thắng lợi của cuộc cách mạng Việt Nam năm 1945 đã chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc Việt Nam. Ngay sau khi giành độc lập, tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với kinh tế thế giới đã được chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong thư gửi tổng thư kí Liên Hợp Quốc năm 1946. Người viết: “ Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa hội nhập và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Nước Việt Nam nhận sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà ký thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kinh tế của mình. Nưốc Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảng quốc tế. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự chỉ đạo của Liên Hợp Quốc. Chỉ sau khi thống nhất đất nước năm 1975 mở ra cơ hội to lớn cho sự nghiệp tái thiết và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Việt Nam đã tìm cách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước, ký hiệp định buôn bán song phương mới, nâng tổng số bạn hàng buôn bán lên gần 40 nước. Mặc dù vậy, đầu tư vào Việt Nam vẫn chủ yếu là các nước XHCN dưới hình thức viện trợ không hoàn lại vầ cho vay không tính lãi. Tháng 6-1978, Việt Nam tham gia hội đồng tương trợ kinh tế (SEV),tuy nhiên hiệu quả cũng rất hạn chế. Mặc dù có những cố gắng để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và tham gia vào liên kết kinh tế XHCN nhưng kết quả của những hoạt động hội nhập của nước ta trong thời kỳ 1976-1985 còn khá khiêm tốn. 2.2. Giai đoạn mở cửa hội nhập tù năm 1986 đến năm 1990 Chúng ta cố gắng hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, song do cơ chế, chính sách không phù hợp, cơ chế thị trường chưa hoạt động mà chủ yếu hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chúng ta vẫn chưa thể hội nhập một cách đầy dủ. Những năm đầu thập kỷ 80 nền kinh tế nước ta bị lâm vào khủng hoảng kéo dài với tốc độ tăng trưởng giảm và không ổn định. Trước tình hình đó, tháng 12-1986, dại hội VI của Đảng đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện mang tính chiến lược, quyết định xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước. Đại hội VI xác định: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia phân công lao động quốc tế, trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào, CamPuChia, với các nước khác trong cộng đồng XHCN đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”. Hoạt động kinh tế đối ngoại có nhiều biến chuyển tích cực, chúng ta đã cải thiện được đáng kể tình trạng nhập siêu trong cán cân thương mại ( giảm từ 280% trong những năm 1981-1985 xuống còn 180% trong những năm 1986-1990) giá trị kim ngạch xuất khảu hàng năm tăng từ 570triệu USD/ năm trong giai đoạn 1981-1985 lên 1370 triệu USD trong những năm 1986-1990. Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt dầu khởi sắc từ năm 1988 với 37 dự án và 371,8 triệu vốn pháp định Như vậy, nhờ các chính sách cải cách kinh tế trong nước và các biện pháp mở cửa đơn phương thu hút đầu tư từ bên ngoài, nền kinh tế nước ta đã vượt qua cuộc khủng hoảng đầu những năm 1980, trở thành nước xuất khẩu gạo, dầu thô và kiềm chế được lạm phát. 2.3. Giai đoạn từ năm 1991- 1995 Trong lúc cuộc khủng hoảng thứ nhất đầu những năm 1980 còn chưa được khắc phục một cách cơ bản thì cuộc khủng hoảng thứ hai xuất phát từ bên ngoài lại ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta. Đó là sự sụp đổ của Liên Xô cũ và hệ thống các nước XHCN ở Đông âu. Nền kinh tế nước ta phải đương đầu với những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua được khi nguồn vốn đầu tư bị cắt giảm đột ngột, nguồn viện trợ không còn, thị trường xuất nhập khẩu bị đảo lộn và thu hẹp đột ngột trong khi Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận kinh tế đối với nước ta. Lạm phát tăng trở lại lên tới 67,1% năm 1990 và 6.75% năm 1991, kim ngạch xuất khẩu giảm. Để đổi phó tình hình, Đảng ta đã đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CHXH chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000 (1991-2000). Đại hội VII (6-1991) của Đảng đã khẳng định việc tiếp tục đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá. Theo tinh thần “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Thực hiện các quan điểm hội nhập kinh tế đa phương hoá, đa dạng hoá trong thời kỳ này, chúng ta đã tiến hành đàm phán về trả nợ quá hạn cho IMF và đã nối lại được quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB từ tháng 10-1993 sau gần 15 năm bị gián đoạn, nhờ đó đã bình thường hoá quan hệ được với các tổ chức này. Tiếp đó, ngày 17-10-1994, Việt Nam chính thức gửi đơn xin gia nhập ASEAN vầ trở thành thành viên kể từ ngày 28-7-1995 với cam kết sẽ bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) từ ngày 1-1-1996, cũng trong thời gian này tháng 12-1994, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập WTO. Cùng với các chính sách đổi mới về cơ chế và tổ chức quản lý bên trong, các nỗ lực hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần tích cực vào việc thắng lợi kế hoạch 5 năm (1991-1995).Hầu hết các chỉ tiêu của kế hoạch đã được hoàn thành vượt mức. Nó cho thấy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của ta đã phát huy được vai trò của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước. 2.4. Giai đoạn đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1996 đến nay Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới, các tư tưởng và chủ trương chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập ngày càng rõ, cụ thể hơn. Đại hội đã khẳng định và cụ thể hoá chủ trương xây dựng một nền kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu; mở rộng quan hệ quốc tế hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước; các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền. Tuy nhiên từ cuối năm 1996 trở đi, khi các yếu tố về kinh tế, về đổi mới cơ chế, tổ chức quản lý đã được khai thác một cách tương đối đầy đủ, sự phát triển về chiều rộng đã bộc lộ những hạn chế, chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế chưa được chú trọng, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, thì cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực bùng nổ, tác động mạnh mẽ đến nước ta trên cả phương diện đầu tư trực tiếp nước ngoài và thị trường xuất khẩu. Do đó tốc độ tăng trưởng GDP đã giảm sút mạnh từ 8.2% năm 1997 xuống còn 5.8% năm 1998 và 4.8% năm 1999.Nhịp độ tăng trưởng công nghiệp- xây dựng giảm tương ứng rừ 12.6% xuống còn 8,3% và 7,7%; dịch vụ từ 7,1% xuống còn 5,1% vầ 2,3%. Trước tình hình đó, tại hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ tư (khóaVIII), ngày 29-12-1997 đã nhấn mạnh tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tranh thủ vốn, công nghệ và gia nhập thị trường quốc tế, nhưng phải trên cơ sở độc lập tự chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực, dựa vào các nguồn lực trong nước là chính. Để thực hiện các chủ trương trên, chính phủ đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm giữ vững và mở rộng thị trường; khôi phục thị trường Nga và các nước Đông Á, phát triển quan hệ thương mại chính ngạch với Trung Quốc, tăng cường quan hệ buôn bán, hợp tác với ẤN Độ, mở rộng thị trường Mỹ, đẩy mạnh việc tìm thị trường ở Trung cận Đông, Châu Phi, Mỹ La Tinh. Đến tháng 9-2000, Việt Nam đã mở rộng ngoại giao với 170 nước và quan hệ kinh tế thương mại với trên 150 nước và lãnh thổ trên thế giới. III/ Thực trạng và giải pháp để thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 1/ Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế . Nghị quyết này đã kế thừa, cụ thể hóa và triển khai các đường lối của Đảng đề ra từ trước tới nay, đồng thời đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của tiến trình HNKT quốc tế của Việt Nam. Chính nhờ vào chủ trương đúng đắn này nên trong những năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu. Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã ký 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và 40 Hiệp định chống đánh thuế hai lần với các nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với trên 160 nước và nền kinh tế, thiết lập quan hệ với các tố chức tài chính - tiền tệ quốc tế, là thành viên của ASEAN, ASEM, APEC... Ta đã thực hiện thành công chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000); GDP tăng trưởng bình quân 8,2%/năm trong giai đoạn 1991 - 2000, khoảng 7% trong hai năm 2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7391.doc
Tài liệu liên quan