MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I.KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÁI SẢN.3
I- Khái niệm về tội cướp giật tài sản 3
1. Tội cướp giật tài sản trong pháp luật hình sự từ thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 3
2. Tội cướp giật tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Hình sự năm 1999. 5
II-Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản qui định tại Điều 136 BLHS 1999. 10
1.Khách thể của tội phạm 11
2.Mặt khách quan của tội phạm 12
3.Chủ thể của tội phạm. 18
4.Mặt chủ quan của tội phạm. 19
III.Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số tội khác. 20
1.Tội cướp giật tài sản và tội cướp tài sản 20
2. Phân biệt tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. 23
CHƯƠNG II. ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN.25
I. Khung hình phạt cơ bản 25
II. Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất 25
III. Khung hình phạt tăng nặng thứ hai 32
IV.Khung hình phạt tăng nặng thứ ba. 32
V. Hình phạt bổ sung. 33
CHƯƠNG III. THỰC TIỄN TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.
I - Thực tiễn áp dụng tội cướp giật tài sản và một số vấn đề bất cập 34
II.Một số đề xuất, kiến nghị 41
KẾT LUẬN 45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
51 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12476 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tội cướp giật tài sản - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm làm tê liệt ý chí của chủ tài sản mà chỉ lợi dụng sơ hở để chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng. Và sau khi người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật tài sản thì chủ tài sản và người xung quanh điều biết; do đó, chủ tài sản vẫn có đủ các điều kiện để thực hiện các biện pháp chống lại hành vi chiếm đoạt để bảo vệ tài sản của mình. Người phạm tội nhận thức được điều đó nên để đảm bảo an toàn, để không bị bắt giữ thì người phạm tội phải lẩn tránh hoặc tẩu thoát. Vì vậy, tẩu thoát chỉ là thủ đoạn thường gặp của hành vi cướp giật tài sản mà không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Thực tiễn, có nhiều trường hợp, người phạm tội sau khi chiếm đoạt được tài sản họ không chạy trốn cũng như không có hành vi nào đe dọa vũ lực hay uy hiếp tinh thần của người chủ tài sản.
Ví dụ:
A là một tên côn đồ khét tiếng về việc đánh nhau ở địa bàn quận H. Hôm đó, A đang ngồi uống nước ở quán thì thấy anh B là thương binh ngồi trên xe lăn. A đứng dậy tiến gần anh B giật lấy dây chuyền rồi A xuống đường một cách từ từ mà không cần nhanh chóng chạy trốn.
Ví dụ trên đã chứng tỏ, tẩu thoát không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội cướp giật tài sản. A vẫn không hề lẩn tránh sau khi thực hiện hành vi phạm tội nhưng hành vi của A đã bị xét xử theo Điều 136-BLHS1999 về tội cướp giật tài sản.
Như vậy, hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản mang tính chất công khai và nhanh chóng chiếm đoạt. Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, không kể đã chiếm đoạt được tài sản đó hay chưa. Đây là một trong các điểm khác nhau so với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Chị B đến cửa hàng chị A để thu tiền nợ. Anh C thấy chị B để tiền trong một túi đen. Lúc chị B rời khỏi cửa hàng đi được một đoạn, đến quãng đường vắng vẻ, anh C liền áp sát rồi giật lấy cái túi đen của chị B. Anh C mở ra không thấy tiền mà chỉ thấy áo chống nắng, khẩu trang và một số đồ lặt vặt. Chị B trước khi rời khỏi cửa hàng đã để túi tiền trong cốp xe máy, điều này khiến anh C bị nhầm. Tuy tài sản anh C không chiếm đoạt được nhưng hành vi của anh C vẫn bị cấu thành tội cướp giật tài sản đã hoàn thành theo qui định của Điều 136 BLHS 1999.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt là một trong những hình thức thể hiện của hành vi khách quan trong các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, ở từng tội phạm cụ thể, hành vi này thể hiện một cách khác nhau. Trong tội cướp giật tài sản, hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng hình thức: công khai và nhanh chóng. Đây cũng là những dấu hiệu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội, xác định trách nhiệm hình sự một cách đúng đắn.
Tính nguy hiểm khách quan của tội phạm là ở chỗ, tội phạm đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Sự gây thiệt hại này là một trong những nội dung biểu hiện của yếu tố mặt khách quan của tội phạm. Đó là hậu quả nguy hiểm cho xã hội - hậu quả của hành vi khách quan.
Như vậy, hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi khách quan phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Trong tội cướp giật tài sản, hậu quả nguy hiểm cho xã hội trực tiếp là những thiệt hại về vật chất nhưng dấu hiệu này không là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm song nó có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của tội phạm đã thực hiện.
3.Chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có thể là con người cụ thể. Nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi được qui định trong luật hình sự. Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải là hành vi có lỗi. Do vậy, chỉ những người có điều kiện có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có đủ điều kiện có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hai điều kiện: năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi là những dấu hiệu pháp lí bắt buộc của chủ thể tội phạm. Như vậy, chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Chủ thể của tội cướp giật tài sản là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Trong đó, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tại Điều 12 BLHS 1999 qui định:
1. “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Theo Khoản 8 Điều 3 BLHS 1999 thì tội cướp giật tài sản tại Điều 136 BLHS 1999, khung hình phạt lần lượt là: - khung thứ nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến năm năm (tội nghiêm trọng) - khung thứ hai áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười năm (tội rất nghiêm trọng) - khung thứ ba áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười lăm năm (tội rất nghiêm trọng) - khung thứ tư áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến tù chung thân (tội đặc biệt nghiêm trọng).
Như vậy, đối với tội cướp giật tài sản, chủ thể của tội phạm trước hết bao gồm những người từ đủ 16 tuổi trờ lên, có năng lực trách nhiệm hình sự và những người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi cướp giật tài sản trong trường hợp thuộc Khoản 2 Điều 139, Khoản 3, Khoản 4 BLHS 1999.
Ví dụ:
Ngày 13/10/2000, chị Nguyễn Thị Thu V, 22 tuổi đi xe máy trên đường thì bị hai đối tượng đi xe máy cùng chiều là Hoàng Ngọc T (sinh năm 1983) và Lê Quốc N (1987) giật mất túi tiền để trước giỏ xe. Nghe nạn nhân kêu cứu, quần chúng và dân phòng đã đuổi theo và truy bắt được cả hai tên.
Tại bản án hình sự sơ thẩm sơ thẩm số 120 ngày 15/03/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh H tuyên: chỉ có Hoàng Ngọc T là chủ thể của tội cướp giật tài sản vì T đã 20 tuổi, nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi đó, còn Lê Quốc N phải không phải chịu trách nhiệm hình sự vì tính tại thời điểm đó, N mới 13 tuổi, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể tội cướp giật tài sản là một trong bốn yếu tố trong cấu thành tội phạm, nếu thiếu yếu tố này thì không cấu thành tội phạm.
4.Mặt chủ quan của tội phạm.
Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội. Với ý nghĩa là một mặt của hiện tượng thống nhất, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại độc lập mà luôn luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm là hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội, bao gồm các nội dung: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Đối với tội cướp giật tài sản, mặt chủ quan của tội phạm gồm dấu hiệu lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản, người phạm tội biết mình có hành vi công khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác, thấy trước hậu quả nguy hiểm do hành vi của mình gây ra nhưng lại mong muốn hậu quả đó xảy ra, mong muốn thực hiện trọn vẹn quá trình phạm tội.
Trong mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản, ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc còn có động cơ và mục đích phạm tội.
Động cơ của tội cướp giật tài sản được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách cố ý.
Mục đích của tội cướp giật tài sản là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.
III.Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số tội khác.
Từ trên các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cướp giật tài sản, chúng ta có thể phân biệt với một số tội phạm nhằm làm rõ hơn những điểm khác nhau cơ bản giữa các tội phạm khác với tội cướp giật tài sản. Từ đó, tạo thuận lợi cho quá trình áp dụng trong thực tiễn xét xử.
1.Tội cướp giật tài sản và tội cướp tài sản
Tội cướp giật tài sản và tội cướp tài sản giống nhau đều là tội xâm phạm quyền sở hữu và đều là các tội có tính chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ở tội cướp tài sản, dấu hiệu chiếm đoạt thể hiện ở mục đích của người phạm tội. Còn trong tội cướp giật tài sản, dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện bằng hành vi chiếm đoạt.
Trong tội cướp tài sản, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Những hành vi đó mà người phạm tội thực hiện sử dụng là để tác động, tấn công người quản lý tài sản hoặc người xung quanh nhằm đè bẹp sự kháng cự của họ. Còn trong tội cướp giật tài sản, người phạm tội không sử dụng vũ lực, không đe dọa sử dụng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự kháng cự của nạn nhân để chiếm đoạt tài sản mà chỉ lợi dụng sự sơ hở của nạn nhận, nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng lẩn tránh. Điểm cơ bản này giúp chúng ta dễ dàng phân biệt được tội cướp tài sản và tội cướp giật tài sản.
Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp, người phạm tội cướp giật tài sản có hành vi xâm phạm đến thân thể nạn nhân nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi để dễ dàng chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này, rất cần thiết có sự phân biệt giữa trường hợp bị coi là tội cướp tài sản hay chỉ là tội cướp giật tài sản. Ví dụ những hành vi tác động lên nạn nhân như: ngáng chân làm cho nạn nhân ngã rồi chộp lấy tài sản, bỏ chạy hoặc đánh vào tay người đang cầm tài sản để nạn nhân buông tay rồi chiếm đoạt tài sản. Những trường hợp đó cho thấy việc dùng vũ lực nhưng không phải là tội cướp tài sản bởi hành vi sử dụng vũ lực không chứa đựng khả năng đè bẹp sự kháng cự của người quản lý tài sản mà chỉ có ý nghĩa tạo thuận lợi cho việc chiếm đoạt bằng thủ đoạn nhanh chóng mà thôi.
Trong thực tiễn còn cần phải phân biệt giữa tội cướp giật tài sản và trường hợp chuyển hóa từ tội cướp giật thành tội cướp tài sản. Nhiều trường hợp lúc đầu, người phạm tội chỉ có ý định cướp giật tài sản nhưng trong quá trình thực hiện hành vi cướp giật tài sản bị chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản chống cự giữ lấy tài sản hoặc giằng lấy lại tài sản nên người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chiếm đoạt bằng được tài sản, thì hành vi phạm tội đó không còn là hành vi cướp giật tài sản nữa mà phải bị coi là cướp tài sản. Khoa học pháp lý gọi là chuyển hóa thành tội cướp tài sản.
Ví dụ:
Vào lúc 13h 30 phút ngày 3/1/2008, sau khi nhậu xong, Huỳnh Văn Tuấn và Phan Văn Linh cùng rủ nhau đến khu triển lãm ở bãi cát phường Cái Khế - thành phố Cần Thơ để đón khách qua đường xin tiền. Cả hai gặp anh Trần Thanh Tâm từ một ngõ hẻm chạy xe ra liền chặn xe lại để xin tiền. Trong lúc anh Tâm không chú ý, Tuấn nhanh tay giật một sợi dây chuyền 4 chỉ vàng 9999, đeo trên cổ anh Tân, đồng thời lấy luôn chiếc chìa khóa của xe gắn máy. Anh Tâm dắt xe theo Tuấn và Linh để năn nỉ xin lại đồ vật đã bị chiếm đoạt. Lúc bấy giờ, Linh dùng con dao thái lan khua đi khua lại để cho anh Tâm sợ và cũng là để cho Tuấn chạy thoát. Sau đó, Linh cũng quăng dao bỏ chạy.1 Tạp chí Toà án, 2008, số 5, tr18
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã truy tố Huỳnh Văn Tuấn và Phan Văn Linh về tội cướp tài sản. Xung quanh vụ án này còn có nhiều quan điểm khác.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ, truy tố hành vi của Huỳnh Văn Tuấn và Phan Văn Linh về tội cướp tài sản là đúng. Bởi vì, lúc đầu, Tuấn và Linh chỉ có ý định cướp giật tài sản. Nhưng khi bị anh Tâm đuổi theo để đòi lại tài sản, Tuấn và Linh đã có hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt bằng được tài sản đó. Do đó, hành vi của Tuấn và Linh đã chuyển hóa từ tội cướp giật tài sản thành tội cướp tài sản.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ truy tố Tuấn và Linh về tội cướp tài sản là không chính xác. Bởi vì, Tuấn và Linh chỉ thực hiện hành vi cướp giật tài sản của anh Tâm. Sau khi Tuấn giật tài sản của anh Tâm cả hai đều bỏ đi. Do anh Tâm đi theo chúng để xin lại tài sản, Linh mới dùng dao dọa để ngăn việc anh Tâm đi theo và để chúng thực hiện hành vi chiếm đoạt một cách chót lọt mà thôi. Việc đe dọa dùng vũ lực trong trường hợp này không nhằm chiếm đoạt tài sản “thực tế chúng đã chiếm đoạt được tài sản trước khi dùng vũ lực”. Do vậy, thực chất hành vi của Tuấn và Linh không phải là hành vi cướp tài sản và cũng không thuộc trường hợp chuyển hóa từ cướp giật tài sản sang cướp tài sản. Hai tên Tuấn và Linh chỉ phạm tội cướp giật tài sản theo qui định tại Điều 136 BLHS 1999. Theo chúng tôi nhận thức rằng: chúng tôi đồng tình với quan điểm này.
Vì vậy, trong quá trình xét xử cần phải hết sức thận trọng xem xét tất cả các tình tiết vụ án để định tội và quyết định hình phạt được chính xác, tránh nhầm lẫn giữa tội này với tội khác, đảm bảo việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2. Phân biệt tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Cả hai tội đều có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai. Tuy nhiên, hành vi chiếm đoạt tài sản giữa hai tội khác nhau ở chỗ:
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được hiểu là ngang nhiên chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý, bất chấp sự có mặt của chủ tài sản. Đặc trưng của tội này là hành vi công khai, ngang nhiên chiếm đoạt, khi thực hiện hành vi chiếm đoạt. Trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, người phạm tội thường lợi dụng chủ tài sản không có khả năng, điều kiện để chống trả, bảo vệ nên khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội không cần nhanh chóng chiếm đoạt cũng như không cần phải nhanh chóng lẩn trốn và cũng không sợ bị bắt giữ vì người chủ tài sản không có khả năng ngăn cản việc chiếm đoạt. Đây là điểm khác biệt với tội cướp giật tài sản.
Ví dụ:
Anh A để xe trên bờ sông, rồi nhảy xuống tắm sông. Anh B đi qua thấy liền dắt xe của anh A và nổ máy đi. Hành vi của anh B cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chứ không phải tội cướp giật tài sản. Bởi vì, anh B đã lợi dụng sự mất cảnh giác của anh A, anh B biết rõ anh A đang tắm sông nên không thể đuổi bắt y ngay được nên, anh B không cần phải nhanh chóng tẩu thoát. Còn với tội cướp giật tài sản, người phạm tội biết rõ chủ tài sản hoàn toàn có khả năng ngăn cản việc chiếm đoạt, có khả năng lấy lại tài sản nên ngay sau khi công khai chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội phải nhanh chóng tẩu thoát - nhanh chóng lẩn trốn.
Việc phân biệt giữa tội cướp giật tài sản và các tội phạm khác có ý nghĩa rất quan trọng trong vấn đề định tội danh, xác định trách nhiệm hình sự một cách chính xác và đúng đắn.
CHƯƠNG II
ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
I. Khung hình phạt cơ bản
Khoản 1 Điều 136 BLHS 1999 qui định: “Người nào cướp giật tài sản của người khác thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm”.
Như vậy, một người thực hiện hành vi chiếm đoạt công khai, nhanh chóng tài sản của người khác trong điều kiện thông thường thì sẽ bị áp dụng mức phạt tù từ một năm đến năm năm. Trong đó, tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị dưới 50 triệu đồng. Bởi theo quy định của Khoản 2 Điều 136 BLHS 1999: nếu tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên đến dưới 200 triệu đồng thì sẽ bị áp dụng mức phạt tù từ 3 năm đến 10 năm.
II. Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất
Khoản 2 Điều 136 BLHS 1999 qui định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến 10 năm ”.
Các tình tiết tăng nặng bao gồm:
1. Phạm tội có tổ chức
Theo khoản 3 Điều 20 BLHS 1999 : “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cũng thực hiện tội phạm”. Như vậy, phạm tội có tổ chức gồm là: “đồng phạm” và có sự “cấu kết chặt chẽ ”.
Trong tội cướp giật tài sản, phạm tội có tổ chức mang nét đặc trưng là: (1) Nhóm phạm tội được hình thành do một hoặc một số người đứng ra rủ rê, tập hợp với phương hướng hành động có tính chất lâu dài, bền vững. Trong nhóm tồn tại quan hệ chỉ chuy thống nhất, quan hệ phục tùng, đều coi và sử dụng tổ chức phạm tội như một công cụ sức mạnh trong hoạt động phạm tội của mình. (2) Nhóm phạm tội có sự tính toán kỹ lưỡng, chuẩn bị đầy đủ phương tiện cũng như thủ đoạn tinh vi, xảo quyết, hậu quả mà nhóm gây ra thường là lớn, nguy hiểm cho xã hội. Trong nhóm cướp giật tài sản thường có sự phân công công việc rõ ràng như: người làm nhiệm vụ thực hiện hành vi cướp giật, người quan sát, người thực hiện ngăn cản sự truy đuổi...có sự tính toán kỹ lưỡng để việc phạm tội được tiến hành trót lọt.
Như vậy, phạm tội có tổ chức có tính chất nguy hiểm cao hơn so với phạm tội thông thường nên luật hình sự, coi đây là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điểm a, Khoản 1, Điều 48 BLHS 1999). Trong tội cướp giật tài sản cũng như các tội khác, “phạm tội có tổ chức” được coi là tình tiết định khung tăng nặng.
Ví dụ: Bản án số 165/HS - ST (11/11/1999) của Tòa án nhân dân thành phố H xử T, L, H, Th về tội cướp giật tài sản, áp dụng Điểm a, Khoản 2, Điều 136 BLHS 1999. Vụ án được tóm tắt như sau: Để thực hiện hành vi cướp giật tài sản, T vào kho bạc, ngân hàng quan sát, tìm “con mồi”. Khi T tìm được người thì L, H, sẽ sử dụng sẽ mô tô bám theo đối tượng và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Th sẽ có nhiệm vụ gây cản trở lực lượng truy bắt và tiêu thụ tài sản. Vào ngày 01/03/1999, chúng đã cướp 100 triệu đồng của anh Bùi Quốc M. Nhóm của T là nhóm phạm tội có tổ chức, bởi hành vi phạm tội của chúng được thực hiện trên cơ sở tính toán, chuẩn bị cấu kết chặt chẽ, là nhóm đồng phạm nguy hiểm cho xã hội. Bản án số 165 của Tòa án nhân dân thành phố H tuyên là hoàn toàn đúng pháp luật và đúng tội.
2. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
Theo hướng dẫn của Uỷ ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao qui định: phạm tội có “tính chất chuyên nghiệp” là ngoài bọn lưu manh, chuyên nghiệp ra, người thực hiện một loại tội hay nhiều loại tội cùng loại (thuộc cùng nhóm khách thể), những tội phạm được lặp đi lặp lại nhiều lần hoặc rất nhiều tội (không kể tội gì) lấy đó làm thu nhập chính hoặc nghề sống chính”. Người phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là người phải thực hiện hành vi nhiều lần nhưng không phải tất cả phạm tội nhiều lần đã là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; mà phải xem xét việc thực hiện phạm tội của họ có thật sự là phương tiện sống hay không. Nếu người phạm tội không lấy đó là phương tiện sống thì không thuộc trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
3. Tái phạm nguy hiểm.
Có hai trường hợp về tái phạm nguy hiểm như sau:
Trường hợp thứ nhất: theo Điểm b Khoản 2 Điều 49 BLHS 1999 đòi hỏi, tội phạm trước đó được thực hiện do lỗi cố ý và thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mà chưa được xóa án tích.
Trường hợp thứ hai: Điểm b Khoản 2 Điều 49 BLHS 1999 đòi hỏi, tái phạm là trường hợp một người đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Sau đó, lại phạm tội do cố ý. Điều này có nghĩa, trong tội cướp giật tài sản, một người đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội cướp giật tài sản thì bị coi là tái phạm nguy hiểm (tội cướp giật tài sản luôn thực hiện với lỗi cố ý).
Như vậy, khoản 2, Điều 49 BLHS 1999 và Điều 136 BLHS 1999, trường hợp một người phạm tội cướp giật tài sản bị coi là tái phạm nguy hiểm khi:
Người đó đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội cướp giật tài sản có tình tiết qui định tại Khoản 2, 3, 4 - Điều 136 BLHS 1999.
Người đó đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại tái phạm cướp giật tài sản.
4. Dùng thủ đoạn nguy hiểm
Theo Thông tư số 02/TTLT ngày 25/12/2001, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về áp dụng chương XIV qui định: “Dùng thủ đoạn nguy hiểm trong tội cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác như: dùng xe máy, dùng mô tô để thực hiện việc cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy.”
Ví dụ:
Ngày 26/11/1999, chị Nguyễn Thị Ph đang đi xe máy chở một sọt hàng trên đường Kim Ngưu bị 2 đối tượng Nguyễn Đắc Ch và Đỗ Quyết T đi xe máy giật 1 chỉ vàng. Bất ngờ, chị Ph đã ngã bất tỉnh. Ngày 27/11/1999, 2 tên đã bị bắt
Tại bán án số 204 ngày 05/03/2000, Tòa án nhân dân tối cao thành phố H đã xử phạt 2 tên về tội cướp giật tài sản theo Khoản 2 Điều 136 BLHS 1999 là đúng.
5. Hành hung để tẩu thoát
Đây là trường hợp người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được nhưng bị phát hiện và bắt giữ hoặc bao vây nên đã có hành vi chống trả lại người bắt giữ để tẩu thoát. Việc “hành hung để tẩu thoát” được thực hiện dưới nhiều hình thức: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực. Về khách quan đó là việc dùng sức mạnh vật chất như đấm, đá, chém...Về chủ quan, người phạm tội muốn cản trở việc đuổi bắt để thoát thân.
Tuy nhiên, tình tiết “hành hung để tẩu thoát” trong tội cướp giật tài sản cùng nội dung với hành vi dùng vũ lực trong tội cướp tài sản. Điểm khác nhau của hai tình tiết này là về thời điểm thực hiện hành vi, việc “hành hung để tẩu thoát” bao giờ cũng được thực hiện sau khi đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản còn hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực” trong tội cướp tài sản được thực hiện trước hành vi chiếm đoạt tài sản. Và ý thức thực hiện hành vi của người phạm tội cướp tài sản thường chủ động, mãnh liệt hơn ý thức của người phạm tội cướp giật tài sản. Ngoài ra, mục đích của hai hành vi này cũng khác nhau, ở tội cướp tài sản, hành vi dùng vũ lực nhằm để thực hiện mục đích chiếm đoạt tài sản còn trong tội cướp giật tài sản, hành vi hành hung nhằm để thoát khỏi sự bắt giữ của người đang truy đuổi.
6. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11 - 30%.
Đối với tình tiết này, thương tích phải là do chính hành vi phạm tội trực tiếp gây ra. Có thể người phạm tội không trực tiếp cố ý gây thương tích vào thân thể chủ tài sản nhưng do hành vi chiếm đoạt của y mà chủ tài sản rơi vào thế bị động đã đến bị gây thương tích hoặc tổn hại. Như thế, vẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tỷ lệ thương tật là 11 - 30%. Tỷ lệ này do cơ quan giám định công bố.
7. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng
Gía trị tài sản chiếm đoạt được cơ quan tư pháp tiến hành kiểm tra, đánh giá nếu cơ quan tư pháp không tự mình xác định được thì phải trưng cầu giám định. Khi xác định giá trị tài sản cần phải xác định dựa trên căn cứ giá thị trường tại thời điểm phạm tội
Mặc dù điều luật chỉ qui định chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đến dưới 200 triệu mới thuộc trường hợp phạm tội này nhưng theo Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp số 02/2001/TTLT – VKSNDTC - BCA - BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn: chỉ cần xác định người phạm tội có ý định cướp giật tài sản có giá trị như trên cũng đã bị truy cứu TNHS theo Khoản 2 Điều 136 BLHS 1999 (không phụ thuộc vào việc đã chiếm đoạt hoặc chưa chiếm đoạt được)
Ví dụ:
A thấy B trả nợ C 50 triệu đồng tại quán lưu niệm và thấy C bỏ vào túi đen. A liền nảy sinh ý định cướp tài sản của C. A lấy xe máy đi theo C, rồi cướp lấy tài sản. Tuy nhiên, lúc mở túi, A không thấy có tiền vì C đã để túi đó vào trong cốp. A bị bắt, tuy không lấy được 50 triệu đồng nhưng A vẫn bị TCTNHS thuộc Điểm g Khoản 2 Điều 136 BLHS 1999.
Hoặc: Cũng tình huống như trên nhưng giả sử D giật túi của M vì theo dõi thấy M có 50 triệu đồng nhưng khi mở túi của M thì có 50 triệu đồng và 10 cây vàng. Xung quanh việc xác định giá trị tài sản D chiếm đoạt có 2 quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Căn cứ Mục 2 Chương III Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp số 02/2001/TTLT - VKSNDTC - BCA - BTP ngày 25/12/2001 qui định: “Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm sở hữu.” Theo đó, giá trị tài sản mà D chiếm đoạt là 50 triệu đồng, vì theo ý thức chủ quan của D nghĩ là trong túi chỉ có 50 triệu đồng. Khi đó, D phạm tội thuộc Điểm g Khoản 2 Điều 136 BLHS 1999.
Quan điểm thứ hai: Căn cứ Mục 3 Chương II Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp số 02/2001/TTLT - VKSNDTC - BCA - BTP ngày 25/12/2001 qui định: “Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm đến giá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tội cướp giật tài sản - những vấn đề lý luận và thực tiễn.doc