MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. NỘI DUNG 2
1.1. Tại sao việc chia sẻ rủi ro không giải thích được các đặc trưng của ngân hàng cho vay. 3
1.1.1. Hợp đồng tối ưu khi dòng tiền là có thể quan sát 4
1.2. xác định tình trạng giá trị 6
1.2.1. Hợp đồng thương thích nhạy cảm 7
1.2.2. Hợp đồng tương thích nhạy cảm hiệu quả 8
1.2.3. Hợp đồng chống lại sự làm giả hiệu quả 10
1.2.4. Động lực của hợp đồng nợ với việc xác minh tình trạng giá trị. 11
1.3. độ nhạy cảm đối với thanh toán 13
1.3.1. sự đe doạ cuối cùng 13
1.3.2. chiến lược thanh toán nợ :trường hợp con nợ cao 15
1.3.3. Nợ cá nhân và sự không chuyển nhượng của vốn con người. 20
1.4 MORAL HAZARD 22
1.5 . Tến tới hợp đồng chưa hoàn thành 25
1.5.1. Uỷ quyền thương lượng lại 27
1.5.2. Hiệu quả của các điều khoản cho vay của ngân hàng. 29
1.6. Đồ kí quỹ và quy mô vốn vay như phương sách đối với cấu trúc 35
1.6.2. Vốn vay với biến quy mô 40
1.7. Những vấn đề: 42
1.7.1. Chia sẻ rủi ro tối ưu với thông tin cân xứng. 42
1.7.2. Hợp đồng nợ tối ưu của MORAL HAZARD (từ innes 1987) 42
1.7.3. Sự tối ưu hoá của kế hoạch thanh toán các khoản ngẫu nhiên. 43
1.7.4. Vai trò của HARD yêu cầu trong giới hạn quản lý ( trích từ HARD và MOORE 1995). 44
1.7.5. Đồ ky quỹ và sự hạn chế ( trích từ BESANKO và THAKOR 1987). 45
1.7.6. Sự bảo đảm ( từ GREENBAUM và THAKOR 1987) 46
1.8. Những cách giải quyết. 47
1.8.1. Tối ưu việc chia sẻ rủi ro với thông tin cân xứng. 47
1.8.3. Tối ưu của kế hoạch thanh toán sổ sách ngẫu nhiên. 48
1.8.4. Vai trò của yêu cầu HARD trong quản lí giới hạn. 48
II. MỞ RỘNG VÀ ỨNG DỤNG 51
III. KẾT LUẬN 53
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1723 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tối ưu hoá lợi ích của hai tác nhân trong mối quan hệ giữa người đi vay và cho vay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nứớc chịu rủi ro tín dụng, một nhà đầu tư nước ngoài sẽ luôn chấp nhận điều đó và theo cách đó sẽ hành động như một công ty bảo hiểm đối diện với rủi ro lớn của đất nước. Bulow và Rogoff chỉ ra rằng nếu nợ phải trả trong tương lai của một đất nước có kỳ vọng giá trị chiết khấu hiện tại dương. Đất nước đó sẽ trở lên khá hơn bởi việc đình chỉ thanh toán trên hợp đồng danh tiếng của nó và bắt đầu một loạt hợp đồng tiện ích trong tiền mặt mà sẽ sao lại hợp đồng cuối cùng tại mức chi phí thấp hơn.
Như một kết quả, việc đối mặt với sự đe dọa bởi đất nước vỡ nợ( là được ngăn chặn loại trừ từ thị trường tín dụng) làm mất đi sức mạnh của nó. Sự chọn lựa của người đi vay sau đó không để trả hoặc đối mặt với giao động thu nhập mà không có nhiều khả năng của việc đi vay. Nhưng thực sự đúng hơn để thanh toán hoặc để trả tiền mặt đối với một cơ chế bảo hiểm. Bulow và Rogoff cho rằng vỡ nợ chi phối việc thanh toán, kết quả cuối cùng. Sử phạt vắng mặt đối với một đất nước vỡ nợ điều đó ngăn chặn họ thông qua cơ chế bảo hiểm, thị trường tín dụng sẽ là không tồn tại.
1.3.3. NỢ CÁ NHÂN VÀ SỰ KHÔNG CHUYỂN NHƯỢNG CỦA VỐN CON NGƯỜI.
Bõy giờ hóy trở lại trường hợp hợp đồng của một con nợ cao nhất. Trong trường hợp trái ngược với trường hợp trước, nếu người đi vay cao nhất phá sản nhà tín dụng cú thể thanh toán dự án đú. Như thế điều đó là sự mở rộng mụ hỡnh trước một cách đơn thuần mà sẽ đơn thuần sửa đổi điều kiện đó đạt trước đú nhưng không giải thích kinh tế của họ. Đáng lẽ là sự thỏa thuận này sẽ nhấn mạnh hạn chế cái mà con nợ chiến lược bắt phải đáp ứng vào thời gian xác định trong cấu trúc nợ thanh toán. Theo một trật tự đó làm, cân nhắc việc thanh toán của một khoản nợ ban đầu trên tầm nhỡn hạn chế T hơn vấn đề kiểm tra sự cho vay trước đú. Hart và Moore nhấn mạnh đặc trưng chính của hợp đồng nợ, thực tế rằng nú khụng thể bắt hóng phải hạn chế tự do làm mọi cỏch. Tỡnh trạng không hứa hẹn đối với hóng này khụng để rút khỏi vốn nhõn lực từ dự án đầu tư sẽ ngụ ý rằng: Lợi nhuận của dự án sẽ không được trích quỹ và nhỡn chung thời gian của việc thanh toỏn sẽ bị ảnh hưởng bởi giá trị đúng cửa của dự ỏn. Để nhỡn thấy điều này, xem xét một hóng trung lập rủi ro muốn đầu tư một lượng I vào dự án mà lợi tức dũng vào chắc chắn của dũng tiền chiết khấu yt (t=1......T) . Nếu hóng khụng bị giới hạn về tiền mặt thỡ họ sẽ đầu tư khi và chỉ khi I ≤ ∑ yt .Trong đú ∑ yt là giỏ trị hiện tại của dự ỏn ( tỷ lệ lói suất ớt rủi ro là chuẩn húa tiến tới 0). Trường hợp mà sẽ núi tập trung ở đây là tất nhiên, cái đú trong trường hợp cú dũng tiền và dự ỏn phải là tiền quỹ bởi một hợp đũng nợ. Nếu khoản vay vốn theo sau điều kiện ngoài, sơ lược thời gian đối với sự trả nợ Rt (t=1.........T) là bị hạn chế bởi giới hạn nợ, mệnh đề:
0 ≤ Rt ≤ yt t=1.........T
Khi hóng khụng thể hứa hẹn không làm theo cách khác từ dự án, họ sẽ sử dụng xác suất trong cách chiến lược này. Vỡ vậy hoàn cảnh trong trường hợp này phải là mô hỡnh như một trũ chơi. Tại mọi thời điểm con nợ cú thể đe dọa vào cuối hợp đồng, cú thể nhận một chi phí cơ hội, từ dũng tiền tuơng lai sẽ bị mất hoặc giảm xuống.
Nếu sự đe dọa này là đáng tin thỡ con nợ và chủ nợ sẽ đi vào trũ chơi khế ước. Trong đú chủ nợ sẽ đạt mức giá trị thanh toán thấp của dự án đầu tư nhưng cú thể đạt nhiều hơn nếu dự án là không được thanh toán.
Một yếu tố quyết định là làm thế nào trũ chơi khế ước được giải quyết, quyền khế ước là sự phân phối giữa hai người chơi như thế nào. Thảo luận này sẽ kiểm tra trở lai 2 trường hợp cuối cùng trong đú khả năng khế ước thuộc về cả 2 chủ nợ và con nợ. Biểu thị bởi Vt. Vt là giá trị của dự án đối với chủ nợ nếu hóng chịu từ bỏ.Vt cú thể diễn tả tiờu biểu cho sự phụ thuộc, giỏ trị thanh toỏn của tài sản, hoặc giỏ trị hiện tại dũng của dự ỏn nếu nhà quản lý phải thực hiện nú.
. Xem xét trường hợp đầu tiên, trong đú ngõn hàng cú tất cả khả năng thanh toán. Điều này ngụ ý rằng, ngõn hàng đạt nếu nợ bị quỵt ở thời điểm t. Bây giờ mọi dự án cú giới hạn kiềm chế nợ thỏa món sẽ là chứng cớ chống lại sự quỵt nợ. Khối lượng lớn nhất mà dự án cú thể tăng sẽ là , và vỡ vậy một dự ỏn sẽ được chuyển từ ngắn hạn thành dài hạn khi và chỉ khi dũng tiền hiện tại là hữu hạn.
. Tiếp theo , giả thiết r hóng cú tất cả khả năng thanh toán, sau đú kế hoạch nợ phải trả sẽ chống lại sự quỵt nợ nếu: ,t=1,..,T
Thật vậy, trong trường hợp quỵt nợ này cú thể cải tiến được vị thế của con nợ, từ đú sẽ không bao giờ chống lại được sự thâm nhập của quá trỡnh khế ước thanh toán.
Dự án sẽ được tiến hành chỉ khi cú một hợp đồng vay nợ mà giá trị hiện tại của nợ phải trả vượt quá khối lượng L của khoản vay và nếu hóng cú đủ giá trị đầu tư tài chính: và W+L≥I,
Trong đú Rt là kế hoạch thanh toỏn nợ phải trả chống lại sự quỵt nợ. W là giỏ trị của hóng.
Một cỏch rừ ràng, phần lợi nhuận dự ỏn đầu tư sẽ được giám sát bởi vỡ khụng thể dựng vốn nhõn lực để giảm khối lượng dũng thanh toỏn nợ tớn dụng. Bằng trực giỏc ta thấy giữa hai giả thiết cuối cựng trờn sự phõn phối khả năng thanh toán, kế hoạnh thanh toán nợ phải trả chống lại sự quỵt nợ sẽ đạt được. Điều đú ngụ ý sự thiếu khả năng đối với phân phối tớn dụng. Nhiều hơn thông thường,
Kết quả 1.4 .trong trường hợp hứa hẹn của vốn con người đối với việc đặt cổ phiếu trên tổng số nợ tương lai của một hóng. Sự thiếu khả năng này dẫn đến kết quả xuất hiện duy nhất nhất tập hợp động. Nú diễn giải tại sao cỏc ngõn hàng cú thể liờn quan khụng chỉ với giỏ trị hiện tại dũng của dũng t mà cũng liờn quan đến dự án khác. Hơn nữa như đó đề cập bởi Hart và Moore (1994,p 842), nú sẽ tương ứng với thực tế thường cho “ vay dài nếu khoản vay được ủng hộ bởi mối quan hệ lõu bền “ và cho tài sản xứng hợp với tiền nợ”
1.4 MORAL HAZARD
Đú là đặc trưng cơ bản của công nghiệp ngân hàng, đối với ngân hàng để đối xử như một hội viên trong mối quan hệ thường xuyên với người đi vay. Lý do này dường như tự nhiên giả thiết rằng các ngân hàng lờ đi hoạt động mà người đi vay đang núi đến theo một trật tự để đạt lợi nhuận cao. Điều đú là nét tiêu biểu của một học thuyết MORAL HAZARD, người đi vay phải giữ một hành động mà sẽ ảnh hưởng đến thu nhập đối với người đi vay, người đi vay không thể kiểm soát trên hành động này vỡ khụng thể quan sỏt được.
Thảo luận này sẽ cải tiến mụ hỡnh phức tạp hơn với thu nhập liên tục đầy sự sáng tạo của Innes( 1987), người mà đó sử dụng mụ hỡnh đú để quyết định dạng của hàm thanh toán nợ tối đa. Một giả thiết cốt yếu sẽ là nợ giới hạn của người đi vay. Theo phần này, sự cân nhắc mối quan hệ tĩnh giữa người cho vay và người đi vay trong trường hợp người đi vay Y.. là liên tục ( bao gồm nhị thức kép như ví dụ đơn giản ở chương 2 và sự sắp xếp bị ảnh hưởng bởi hành động e “kết quả”) thực hiện bởi người đi vay và không thể quan sát bởi người cho vay. Giả thiết r cả hai tác nhân là trung lập rủi ro. Cho một hợp đồng R(.) người đi vay sẽ chọn lựa kết quả mức e* mà tối ưu húa kỡ vọng của hàm thỏa dụng. :
V(R,e)=
Trong đú f(y, e) là hàm mật độ của y đối với e đó cho và là hàm lồi tăng, diễn tả cân bằng tiền phải nộp của chi phí đối với kết quả của người đi vay. Được xác định bởi e* mà
Cho một mức hợp lý cỏ nhõn cầu của người cho vay, hợp đồng tối ưu sẽ như là việc tối đa húa độ thỏa dụng của người đi vay, dưới giới hạn kết quả và giới hạn nợ thông thường và giới hạn hợp lý cỏ nhõn.
Vỡ vậy chương trỡnh sẽ đươc giải quyết như sau:
( 0≤R(y) ≤y
V(R,e) ≤ V(R,e*)
E[R(y)e*]≥U0L
Kết quả 1.5.Nếu cho tất cả e1 >e2, tỷ số có thể đúng là một hàm tăng theo y (tỷ số (MLR) có thể đúng đều điều ) hàm phải trả nợ tối ưu là thường xuyên theo loại sau:
R(y)=0 đối y
R(y)=y cho y<
R
R(y)
y
Hình 1.4 diễn tả hình dáng của hàm thanh toán nợ tối ưu
Tài sản MLR (theo Holmtrom 1979) nghĩa là kết quả y của đầu tư là một dấu hiệu tốt cho mức kết quả, cao hơn y là, cao hơn mối quan hệ sẽ là điều mà kết quả có đã cao hơn là thấp.Vì vậy bằng trực giác sau kết quả 1.5 là: cách tốt nhất để quy định đúng nhạy cảm đối với kết quả là để cho tiền thưởng tối ưu của tác nhân này (R(y)=0) khi kết quả là tốt () và tiền phạt R(y)=y khi kết quả là tồi ()(cho bằng chứng thông thường ,xem vấn đề 1.7.3). Thật không may mắn loại hợp đồng này thường không gặp trong thực hành Innes(1987) đã nghiên cứu điều gì xảy ra nếu một sự hạn chế vấn đề xa hơn bởi mong muốn rằng, hàm nợ phải trả là không giảm theo y. Trong trường hợp đó Innes diễn giải rằng hợp đồng tối ưu là một hợp đồng nợ tiêu chuẩn .
Dionne và Viala(1992,1994) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa người đi vay và cho vay trong đó có đồng thời Moral Hazard và xác định tình trạng chi phí. Mô hình của họ là sự tổng hợp của Innes và Townsend, Gale và Hellwig. Họ tìm kiếm hợp đồng nợ tối ưu của Pareto giữa các hợp đồng nợ mà thoả mãn tính tương thích nhạy cảm và gây ra cho người đi vay để đạt được mức kết quả tối đa của. Dưới tài sản MLR, họ cho thấy những hợp đồng nợ tối ưu là một tổ hợp của hợp đồng nợ và là một “hợp đồng lợi tức ” như kết quả đã đạt được trong 2.5. Vì vậy những hàm thanh toán nợ tối ưu được đặc trưng bởi hai ngưỡng R và ,với như :
R(y)=min(y,R) đối với y
R(y)=0 đối với y
Vài mục trên đã nghiên cứu Moral Hazard trong trạng thái động, như Diamond (1991). Trong trường hợp như ngân hàng có thể đưa ra hợp đồng dài hạn, có thể thu xếp tiền trợ cấp thông qua những giai đoạn. Điều này ngụ ý rằng hứa là chủ yếu, khi đó ngân hàng sẽ có lợi hơn bởi sự bội ứơc giản đơn trên lời hứa của họ để hồi phục vốn vay từ kết quả của người đi vay. Vấn đề quan trọng đã có ở đây trong tập hợp chung. Thật vậy, như sự nhấn mạnh Boot,Thakor,và Udell(1991). Nếu một hãng tiến hành đầu tư không quan sát trước khi đạt được tiền từ tài chính của một dự án, sự thiếu hụt của lời hứa thay mặt ngân hàng để chấp nhận một khoản vay với sự mong đợi sẽ giảm mức đầu tư không thể quan sát ở dưới một mức hiệu quả .
Top of Form
Tại sao trung gian tài chính sẽ hứa? Có hai lí do chính tại sao nhân hàng có thể thích thừa nhận hợp đồng để “đem tiền và thoát tiền” thay đổi (1) cả hai xác suất của nguồn điều lệ được chấp nhận bởi người đi vay có thể là khả năng cao (BOOT, THAKOR, and UDELL1991), hoặc(2) ngân hàng có thể xây dựng một danh tiếng cho danh dự hợp đồng của nó. Trong trường hợp cuối này nó sẽ thú vị để thông báo rằng ngân hàng có thể vẫn chọn để “vốn danh tiếng nổi bật” hơn để đối mặt một mất mát vốn quan trọng trong suy yếu về tài chính,nhấn mạnh thời điểm bởi BOOT, GREENBAUM, và THAKOR(1993). Mối quan hệ bên ngoài quan trọng khác giữa ngân hàng và hoạt động của người đi vay là cái mà các hãng với việc đóng mối quan hệ với ngân hàng dường như để ít hạn chế trạng thái trong hoạt động đầu tư của họ hơn độc lập với hãng. HOSHI, KASHYAP, và SCHARFSTEIN(1993) đưa ra khái niệm cho hiện tượng này khi họ nghiên cứu người Nhật “KEIRETSU”, cái đó là kết thành ngân hàng liên kết thân thiết và các hãng công nghiệp. Tương tự kết quả đã đạt được trên dữ liệu GERMAN. (cho giai đoạn 1973 thông qua 1984) bởi ELSTON(1995).
1.5 . TẾN TỚI HỢP ĐỒNG CHƯA HOÀN THÀNH
Lý thuyết kinh tế chứng minh rằng : bản hợp đồng hoàn thành viết tay(ie, những hợp đồng mà là ngẫu nhiên tiềm tàng trên tất cả hoàn cảnh tương lai của tự nhiên ) có thể chỉ cải tiến hậu quả, bởi vì, nó đồng ý cho việc hoàn thành chia sẻ rủi ro thông qua những tình trạng tương lai của tự nhiên. Hơn nữa , hợp đồng hoàn thành không thấy được trường hợp đặc biệt và thậm chí nhiều sự khác nhau với phương pháp này.
Sự thương lượng lại thường xảy ra sau khi hợp đồng đã ký. Một ví dụ tiêu biểu là khi một hãng vỡ nợ, điều đó sắp xếp một giao kèo thông qua cải thiện tất cả đòi hỏi của cổ đông(người nắm giữ). Vì vậy một hoàn cảnh dường như chứng minh(biểu lộ rằng) là quá khó để miêu tả tất cả các sự kiện mà sẽ dẫn tới vỡ nợ(phá sản) và tất cả các hoạt động mà hãng sẽ đem đến trong mỗi người họ.
Lý thuyết hợp đồng chưa hoàn chỉnh ghi nhận đó là thực tế và đồng ý mối quan hệ của loại này về trường hợp đó.
Một trường hợp quan trọng là khi tình trạng tự nhiên là có thể quan hệ được bởi cả hai bên đối với hợp đồng nhưng không thể kiểm tra xác nhận được điều này nghĩa là cả ba bên sẽ không thể quan hệ tình trạng ngẫu nhiên mà đã xảy ra, như xảy ra trong mối quan hệ của BOTTONvà SCHARFSTEIN(1990) và HART và MOARE(1996) c 1.3.1, 1.3 và kết quả, một hợp đồng ngẫu nhiên. Nếu đã được viết lên sẽ không có ít giá trị, khi không tranh thủ sẽ không thể quyết định nghĩa vụ ngẫu nhiên của mỗi bên.
Một hợp đồng chưa hoàn chỉnh sẽ cải tiến đặc biệt trên một vài đại biểu và sự phân phối tới một trong các bên của khả năng chọn giữa việc tập hợp những quyết định trước của hoạt động( lựa chọn đầu tư, nối lại khoản vay, vấn đề chia sẻ mới). Và sẽ tạo khả năng ngẫu nhiên.
Tuy nhiên, nhìn chung những dấu hiệu có thể kiểm tra là không hoàn hảo tương quan với tình trạng không xác định được của tự nhiên.
Tiêu biểu, tác nhân trong viẹc giao nhiệm vụ sẽ hoạt động theo hàm mục tiêu của họ và không thể chọn hầu hết quá trình hiệu quả của hoạt động, trong trường hợp như vậy, có mục tiêu của đàm phán lại. Tất nhiên, hãng sẽ làm trước cho phù hợp với việc khởi đầu này.
Mục tiêu của mục này không nghiên cứu tất cả những mối quan hệ hợp đồng hoàn chỉnh mà có xem xét (nghiên cứu ) mối quan hệ giữa người đi vay và cho vay nhưng tóm lại, để diễn tả trong vài bài báo gần đây vì vậy cho một vài cái của hợp đồng chưa hoàn chỉnh có thể cải tiến sự thoả thuận của mối quan hệ giữa người đi vay và cho vay.
Một kết luận chung của những mô hình này là cái mà ý đồ(kế hoạch) của hợp đồng trên là như thế mà nó giới hạn xã hội hướng của các tác nhân đối với hoạt động không hiệu quả.
Điều này ngụ ý rằng, cho ví dụ, một sự giải thích khác của sự vỡ nợ, những cái đó diễn tả một vai trò bởi vì nó chỉ định sự kiểm soát đối với một bên khác nhau hoặc vì nó là mối đe doạ đáng tin cậy mà cho một độ nhạy cảm (khuyến khích) đối với tác nhân trong sự thay đổi để chọn ra những hoạt động hiệu quả.
Như một ví dụ đơn thuần trong phần của HARTvà MOORE(1995), hãy tưởng tượng rằng một nhà quản lý của hãng là “những chủ thầu có sức mạnh (vị thế)” những người có quyền ưu tiên đối với đầu tư của giá trị hiện tại ròng của sự đầu tư khi giá trị hiện tại ròng hãng là có thể quan sát được nhưng không xác minh được.
Nếu một hãng có những dòng tiền có sẵn, nó sẽ đầu tư, nếu đáng lẽ nó phải làm thanh toán khoản nợ, nhưng nó bị kiềm chế bởi tiền mặt và ngân hàng sẽ cấp vốn chỉ cho những dự án đầu tư có thể đem lại lợi nhuận. Giới hạn nợ này sẽ hữu ích vì nó hạn chế được việc tự do quản lí (độc lập) trong việc lựa chọn đầu tư (chi tiết xem ở 1.7.4). phần này sẽ nghiên cứu hai ví dụ : đầu tiên, là phần của BOLTON và FREIXA(1994) xây dựng trên ý kiến cho rằng người gửi tiền giao phó cho ngân hàng quyền để thương lượng lại những vốn vay đã chấp nhận cho người đi vay. Tiếp theo của GORTON và KAHN(1993) sẽ điều chỉnh mà tại sao ngân hàng cho vay thường xuyên bao gồm cả điều khoản mà có thể đưa ra quyền đối với ngân hàng gọi là khoản vay ra hạn. Thỉnh thoảng gây nên sự phá sản.
1.5.1. UỶ QUYỀN THƯƠNG LƯỢNG LẠI
Một sự khác nhau chính giữa thị trường tài chính và trung gian tài chính (FIS). Sự khác nhau đó từ quyền thương lại. Thật vậy nếu một trung gian tài chính dược thấy như một sự liên kết giữa những người giữ tiền. Sự thú vị của việc liên kết như vậy là cái mà quyền đối với việc thương lượng lại không bị phân tán giữa nhiều bên cá nhân người cho vay nhưng tập trung trong thể chế tài chính. Người gửi tiền có thể thấy đựơc sự uỷ quyền trong quyền thương lượng của họ đối với trung gian người gửi.
Ý kiến này được lặp lại đúng kiểu trong thực tế mà nó có giá trị nhiều hơn đối với hãng để thương lượng lại (kỳ hạn giả của một trái phiếu mà nó đã được đặt, đánh giá) trong đợt phát hành sau đó là đối với ngân hàng thương lượng lại khoản cho vay.
BOLTON và FREIXAS (1994) đã xây dựng trên ý kiến đối với sự phát triển một mặt hàng của trung gian tài chính mà nó chắc chắn thích hợp với sự thay đổi quan sát trong sự hợp thành nợ của hãng thông qua chu kỳ kinh doanh. Thảo luận này sẽ mang tới một sự tiến tới đơn giản hoá. Tóm tắt từ mục đích chính trong thoả thuận của họ, theo một trật tự minh hoạ những đói thủ và sự chống lại việc thương lượng lại trong một khung giản đơn. Một ý kiến tương tự được sử dụng bởi CHEMMAER và FULGHIERI. Cuộc thảo luận này sẽ đơn giản đưa ra thương lượng lại có thể hấp dẫn hoặc không phụ thuộc vào đặc trưng của hãng như thế nào.
Theo cách đó sự khác nhau giữa vấn đề nợ vào khoản vay ngân hàng sẽ được minh họa. nghĩa là nó sẽ được diễn ra cái mà: thậm chí hợp đồng cho vay của ngân hàng là hiệu quả nó có thể lỗi (thiếu sót) vẫn có thể tin được, trái lại, hợp đồng nợ công khai sẽ được thực hiện.
Cân nhắc mối quan hệ đầu tư ba giai đoạn trong đó tại thời điểm 0 vấn đề nợ của hãng và đầu tư trên một đơn vị tiền tệ của dự án là bàng quan với rủi ro.
Tại thời điểm 1,2 nó sẽ đạt được dòng tiền y1 và y2 dòng tiền cao nhất và thấp nhất là yH và yL) nhận biết (cổ phiếu) được tóm tắt ở một biến, gọi là tình trạng thực, cái mà có thể mang 4 giá trị : (H,H), (H,L),(L,H) và (L,L).
Giả thiết rằng: tình trạng thực được hoàn toàn lộ ra ở thời điểm 1 ( vì vậy mà thời điểm 2 dòng tiền được biết là một cách hoàn hảo một giai đoạn đầu). Cũng giả thiết rằng tình trạng thực là không xác định thậm chí nếu cả hai bên (người đi vay và người cho vay)quan sát được nó. Tuy nhiên, khi dòng tiền là tối thiểu ở yL , phần dòng tiền này là xác định. Lấy thời điểm 1 và thời điểm 2 của dòng tiền là độc lập sắp xếp giống hệt nhau, với xác suất p đạt được yY. Hơn nữa giả thiết tỷ lệ lãi suất chiết khấu (zero coupu) tương đương, tất cả các dòng tền để được chiết khấu trong khung cảnh hợp đồng giữa giữa người đi vay và cho vay không thể tạo nên sự ngẫu nhiên trước dòng tiền không xác định. Vì vậy nó tương đương với hợp đồng nợ giới hạn, trong trường hợp đó khả năng thanh toán của hãng đối với người cho vay trong trường hợp hứa trả nợ không được thực hiện. Trong trường hợp đó người cho vay đặt trước giá trị tương đương ở giai đoạn đầu tiên A.
Khi dự án là kết thúc, giá trị tương đương của nó là 0. Dưới những giá trị hãng thanh toán giai đoạn 2 có thể điều chỉnh cân bằng với khối lượng tại yL.
Nếu yL>A thì sự đe doạ của hãng đối với việc đóng cửa trong trường hợp vỡ nợ là không đáng tin. Vì vậy hãng sẽ thường xuyên lấy cớ là không thành công vì tổng số nợ phải trả đối với ngân hàng sẽ chỉ bằng 2yL. Nếu yL < 1/2 thị trường đối với các khoản vay phá vỡ (sụp đổ). Theo cách khác, giả thiết rằng: những người nắm giữ thành phẩm là không thể thương lượng lại vì vậy mà họ sẽ đóng cửa hãng khi nó ở yL. Điều này xẩy ra khi hãng thực sự không thành công ở thời điểm 1 (i, e, trong hoàn cảnh thực [L,H] và [L,L], nhưng cũng trong tình trạng [H,L] [phá vỡ chiến lược]).
Tuy nhiên, khi tình trạng là [H,H], hãng thích trả R (đã cho, vì R < yH), sau đó nó đạt (yH - R) + (yH - yL) thay vì yH - yL.
Do đó sự hứa là đổ bể, thậm chí nó không hiệu quả, đồng y thị trường tài chính cung cấp việc cho vay là thoả mãn.
p2 (R + yL) + (1 - p2) (A + yL) > 1
Vì vậy , lợi nhuận enpost của việc thương lượng lại ở đây là lý do đối với sự phá vỡ của thị trường đối với vốn vay.
1.5.2. HIỆU QUẢ CỦA CÁC ĐIỀU KHOẢN CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG.
Như đã đề cập, việc thương lượng lại giữa các bên biểu diễn một vai trò chính khi hợp đồng là chưa hoàn thành. Thật vậy, cả hai bên biết hợp đồng là không expost hiệu quả. Do đó, khi họ thương lượng lại tốt hơn hợp đồng kỳ hạn (như là sự chia sẻ dòng tiền lãi đối với mỗi bên và thanh toán nợ), họ không thể tin vào lời hứa cam kết không đối với việc thương lượng lại. Trong hợp đồng nợ con nợ có thể đem đến một sự không hiệu quả hoặc hoạt động rủi ro mà sẽ làm giảm giá trị hiện tại ròng của việc thực hiện dự án trong khi tăng lợi nhuận của con nợ tại phí của chủ nợ, rõ ràng trong trường hợp như vậy việc thương lượng lại có thể cải tiến hiệu quả.
Ý kiến này được quan sát bởi GORTON và KAHN (1993) như là để chỉ rõ sự khác nhau giữa ngân hàng cho vay và vấn đề của nợ công chúng (sự sắp xếp thú vị khác là BESTER 1994 mà sự hợp đồng chưa hoàn chỉnh tiến tới chỉ rõ vai trò của sự phụ thuộc vào những hợp đồng nợ). Thật vậy cá nhân bổ nhiệm thích hợp và ngân hàng cho vay thường bao gồm nhiều chi tiết nhiều giới hạn điều khoản hơn trái phiếu công chúng.
Theo GR, sự khác nhau giữa ngân hàng cho vay và vấn đề nợ công chúng là cái: ngân hàng cho vay kiềm chế vị thế mà cho phép ngân hàng gọi khoản vay quá hạn. Khi đó sẽ thu xếp thương lượng lại , nó có thể được cải tiến trong một hợp đồng chưa hoàn thiện.
Vai trò của các điều khoản được nhấn mạnh bởi vì chúng cho phép ngân hàng thương lượng lại khoản vay hiệu quả. Vai trò của sự phụ thuộc giá trị phá sản hãng là điều quan trọng vì, như đã thấy 1.4.2. Sự đe doạ vỡ nợ là có thể xác định chỉ khi nó cho phép ngân hàng đạt được thu hồi cao.
Trong diễn giải này sẽ đơn giản hoá triệt để KR với kết quả mà vài kết quả của họ sẽ bị bỏ đi. Giả thiết rằng: cả hai ngân hàng và hãng đều trung lập rủi ro và kết quả của những việc đó được diễn tả:
Thời điểm 0: hãng đi vay một đơn vị tiền tệ đối với dự án tài chính, đồng ý trả R tại thời điểm t = 2.
Thời điểm 1: z (dấu hiệu không xác định được) là có thể được quan sát bởi hãng và ngân hàng. Ngân hàng và hãng có thể thương lượng lại kỳ hạn của khoản vay. Điều này xảy ra trong trường hợp đặc biệt nếu ngân hàng đe doạ tới sự phá vỡ dự án và nếu sự đe doạ đó là xác định.
Thời điểm 2: Hãng chọn một dự án đầu tư mới (cả G và B) một lợi nhuận xác định từ dự án này là đạt được và được chia sẻ giữa ngân hàng và hãng.
hợp đồng được ký z được quan sát và hoạt động được chọn thương lượng các bên (GARB) và lợi nhuận đã được
t = 0 t = 1 t = 2
Hình 1.5: Đường thẳng thời gian của vấn đề trong mối quan hệ của GORTON và KAHN
Hình 1.5 diễn tả đường thẳng thời gian của các biến cố.
Theo cách chon lựa công nghệ đầu tư không thể quan sát được sẽ minh hoạ hai giai đoạn vấn đề MORAL HAZARD. Cho một giá trị của thông số z (z ≥0), hãng lựa chọn giữa hai dự án đầu tư G và B, dự án mà lợi nhuận được cho bởi:
zyi + A2 với xác suất pi
i = G,B
A2 với xác suất 1- pi
Trong đó A2 là giai đoạn 2 thanh toán giá trị của dự án. Giả định tiêu chuẩn:
pGyG > pByB , yG < yB , sinh ra từ mối liên hệ MORAL HAZARD.
Cho giá trị thanh toán R0 (R0 > A2), sự lựa chọn dự án tối ưu của hãng sẽ là chọn lựa G nếu và chỉ nếu pG (zyG + A2 - R0) ≥ pB (zyB + A2 - R0), điều này tương đương:
(1.11)
Nhưng trong đó
đặt r = (R0 - A2)/z
Phương trình 1.11 có thể được viết r ≤ .
Cho một kết quả, trong tình trạng vắng mặt của việc thương lượng lại, có tồn tại một mức tới hạn z* được xác định bởi R0- A2 ≡ 2* có thể ràng buộc nếu z < z* (điều này là nếu dự án này là thực hiện không tốt ở giai đoạn 2), thì phương án B sẽ được chọn lựa điều đó là không hiệu quả. Lấy A1 là giá trị của dự án gần cân bằng, điều này được giả thiết rằng ở trên A2. Một cách rõ ràng, cho giá trị thấp của z nó không hiệu quả đối với thanh toán dự án ở thời điểm t = 1.
Cho một kết quả, trong tình trạng thiếu sự thương lượng, tổng lợi nhuận kỳ vọng trên vốn vay sẽ là:
1+ủ(R)=Prob[z >z*](PGRO + (1-PG)A2 + Prob[z >z*](PGRO + (1-PB)A2.
Đặt ủ(R) cân bằng tới tỷ lệ sinh lời ít rủi ro.
Giá trị nợ thanh toán ban đầu RO tại cân bằng có thể được xác định. Như một hợp đồng sẽ mang hai nguồn không hiệu quả và sự thiếu hiệu quả gần cân bằng đối với giá trị thấp của z.
l=
l1 Gần sự thanh toán C
A
Tất cả thặng dư
đối với NH
B
r1 r2 yB r=
Hình 1.6: Các loại khác nhau của cân bằng trong mối quan hệ GORTON – KAHN (1993)(với tương ứng khu vực mạnh chính để trả nợ nước ngoài hoặc là Pareto - cải tiến việc thương lượng lại).
Bây giờ thảo luận này sẽ cân nhắc trường hợp mà trong đó ngân hàng là có thể gọi một khoản vay tại thời điểm t=1, và giải quyết trò chơi cân bằng Nash hoàn hảo.
Sự giải quyết vấn đề này sẽ được thông qua bởi phương pháp quy nạp giật lùi. Ngân hàng có thể thương lượng lại kỳ hạn của vốn vay cũng bởi sự giảm khối lượng R (miễn nợ) hoặc bởi sự tăng lên của nó. Nhưng trong trường hợp này nó có thể làm như vậy chỉ khi sự đe doạ tới sự thanh toán là đáng tin, điều này là nếu thanh toán nợ hợp đồng nguyên bản RO như li:
A1>Pi*.RO + (1- Pi*)A2 (1.12)
Trong đó i ê {G,B} diễn tả dự án mà hãng sẽ chọn lựa (cái đó phụ thuộc vào z P).
Giới thiệu một kí hiệu mới l = , điều kiện đó có thể được viết là l>Pi*.r
Nếu 1.13 là không chỉ rõ, sự đe doạ nợ là không đáng tin.
Bây giờ tất cả các loại của vấn đề sẽ được phân tích xác định trong khoảng (l,r). Để bắt đầu với 1.13 là không rõ ràng trong vùng thẳng đứng diễn tả ở 1.6 mà giữa đường thẳng gấp khúc OABC.
Đối với trò chơi thương lượng lại đơn giản, giả thiết rằng ngân hàng có tất cả quyền (khả năng) thương lượng mặc cả. Kết quả nếu 1.13 giữ, ngân hàng sẽ buộc phải thanh toán nợ rủi ro đối với những gì nó đạt được trên thu nhập kỳ vọng tối đa. Điều này có thể là => hoặc . Trường hợp xem xét ở đây sẽ là :
PG < PByB. Vì vậy mà ngân hàng sẽ thực hiện đặt .
Để nghiên cứu giải quyết trò chơi khi sự phá sản bị đe doạ, xác định l1 như bước đầu l1 = pByB. Tuỳ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC1031.doc