Mục lục
Mở đầu ------------------------------------------------------------------------------------------------
Phần I: Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. ------
I. Bối cảnh lịch sử trước ngày ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam -----------------------
1. Thế gới. --------------------------------------------------------------------------------
2. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa và dẫn tới sự thay đổi về cơ cấu giai cấp.
3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam trước khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời ; Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc, nhiều Đảng phái xuất hiện. ---------------------------------------------------------------------------
II. Quá trình chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. ------------------
1. Con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyên ái Quốc. --------------------------------
2. Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. -------------------
3. Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. ------
III. Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. -----------------------------------------------
1. Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam. -----
2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. --------------------------------------------
IV. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. -----------------------
Phần II : Tổng kết 70 năm hoạt động của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930-2000). --------
I. Thành tựu của cách mạng Việt Nam trong 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. ---------------------------------------------------------------------------------------
1. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám (1945).----------------
2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến hành thắng lợi Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945 - 1954.-----------------------------------------------------------------
3. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược - Cách mạng XHCN ở miền bắc và đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975).---------------------------------------------------------------------------
4. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (1975 - 1996).-----------------------------------
II. Vai trò và nhiệm vụ của Đảng Cộng Sản Việt Nam.-----------------------------------
1. Sự Lãnh Đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợicủa cách mạng Việt Nam. ---------------------------------------------------------
2. Vai trò nhiệm vụ của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới. ---------
Phần: Kết luận. -------------------------------------------------------------------------------------------------------------
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2202 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng kết 70 năm hoạt động của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930-2000), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c quốc gia nổi tiếng là văn minh, tự do, bình đẳng, bác ái để tìm hiểu kinh nghiệm họ đã làm như thế nào để được như vậy rồi trở về giúp đồng bào mình.
Gần mười năm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920), Người đến những nước thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ và người đã phát hiện một chân lý : chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân với nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa...
Năm 1918, đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, gửi tới Hội nghị các nước đế quốc thắng trận ở thành phố Vécxây (Pháp) một bản "yêu sách 8 điểm" đòi chính phủ Pháp thừa nhận quyền độc lập, tự do, bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Nhưng, bản yêu sách đó không được chấp nhận. Người rút ra kết luận quan trọng : Các dân tộc bị áp bức bóc lột muốn được tự do, trước hết phải dựa vào lực lượng của chính mình, phải tự mình giải phóng lấy chính mình.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập Đảng cộng sản Pháp. Qua sự kiện này Nguyễn ái Quốc đã trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên và là một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Người được bầu vào đoàn chủ tịch Hội nông dân Quốc tế (l0-1923), và dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Giải thích về việc tán thành Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Pháp của mình Người đã viết :
"Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi muốn."
Bước ngoặt lớn trong tư tưởng Nguyễn ái Quốc là khi Người được đọc bản Sơ thảo đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Qua tác phẩm của Lênin, Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới ... Từ đây, Người kiên quyết đi theo con đường cách mạng của Lênin, con đường Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của Người. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam. Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ khi trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Người đã rất chú ý đến việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin của giai cấp công nhân ở Việt Nam :
+ Về tư tưởng : phải làm cho giai cấp công nhân Việt Nam, nhất là giai cấp công nhân, tiếp thu được một học thuyết cách mạng và khoa học có thể trở thành hệ tư tưởng cho sự nghiệp giải phóng của mình, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin ;
+ Về chính trị : phải xác định được đường lối đấu tranh cách mạng trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam. Đó là đường lối chiến lược Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ;
+ Về tổ chức : phải rèn luyện, xây dựng cho được một đội ngũ và một tổ chức của những người cách mạng tiên phong, thật sự trung thành với dân tộc và quần chúng lao động, có tri thức cách mạng sâu sắc và có bản lĩnh cách mạng kiên cường.
Nguyễn ái Quốc đã tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) của Người. Hầu hết bài viết của Người đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân.
Tư tưởng, quan điểm cơ bản của Người về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp.
Bản án chế độ thực dân Pháp đã tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới những tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam mà ở khắp các thuộc địa. Bằng biểu tượng "con đỉa hai vòi", Nguyễn ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng : chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng". Đồng thời, tác phẩm phê phán gai gắt thái độ cầu cạnh của một số người mang tư tưởng cải lương tư sản; đề cao tinh thần tự lập, tự cường, tự mình giải phóng cho mình và hướng cách mạng thuộc địa phát triển theo con đường cách mạng của Quốc tế cộng sản.
Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận đầu tiên của cách mạng nước ta, góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Nhờ tác phẩm đó và các bài viết của đồng chí Nguyễn ái Quốc, nhân dân ta, trước hết là những người trí thức tiểu tư sản yêu nước tiến bộ đã hướng về và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa tháng 12 năm 1924, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ cách mạng cho một số nước ở Đông Nam á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia ... sáng lập ra Hôi liên hiệp các dân tộc bị áp bức á - Đông.
Tháng 6 năm 1925, đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội một tổ chức có tính chất quá độ vừa tầm, gồm các thanh niên yêu nước lựa chọn từ Tâm Tâm xã, bộ phận trung kiên của Việt Nam quang phục hội một tổ chức yêu nước do Phan Bội Châu sáng lập, để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, giáo dục bồi dưỡng, đưa họ từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam.
Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được hơn 200 cán bộ cách mạng. Trong số này, nhiều người được chọn đi học trường Đai học phương Đông ở Liên Xô (Trần Phú, Lê Hông Phong, Hà Huy Tập...), một số được cử vào học quân sự ở trường Hoàng Phố (Trung Quốc) như Trương Vân Lệnh, Phùng Chí Kiên. Còn những người khác thì trở về nước hoạt động, tiếp tục truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nhân dân, phát triển tổ chức hội ở trong nước và tổ chức các phong trào đấu tranh của quần chúng. Người cho ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Cuốn Đường cách mệnh gồm những bài giảng của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu.
Với một văn phong giản dị, dễ hiểu, người đã trình bày các quan điểm lý luộn về cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn, sáng tạo và khá hoàn chỉnh. Nôị dung bao gồm những vấn đề cơ bản sau :
+ Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới trong thời đại ngày nay. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân, tức là độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ khăn khít với nhau. Nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có tính chất chủ động và độc lập tương đối, có thể thành công trước cách mạng ở chính quốc và góp phần đẩy mạnh cách mạng ở chính quốc tiến lên. Gương cao ngon cờ chống đế quốc, giành độc lập, tự do là tư tưởng chiến lược của cách mạng thuộc địa.
+ Cách mạng là sự nghiệp của đông đảo quấn chúng nhân dân, quần chúng cần được giác ngộ, có tổ chức chặt chẽ và phải có phương pháp đấu tranh thích hợp.
+ “Công nông là gốc cách mạng”, trong đó công nhân là giai cấp lãnh đạo thông qua Đảng tiên phong. Tiểu tư sản, trí thức là đồng minh của cách mạng.
+ Phải thực hiện sự liên minh với các lực lương cách mạng trên thế giới trên cơ sở tính chủ động sáng tạo và ý thức tự lực tự cường.
+ Phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh, phải có học thuyết cách mạng, đó là học thuyết Mác -Lênin. Phải biết vận dụng đúng đắn và sáng tạo học thuyết đó vào hoàn cảnh Việt Nam.
Thực tế đã chứng minh, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Đến lúc này, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức Đảng được tuyên bố thành lập. Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (17-6-1929), Nam Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (25-7-1929), Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9 - 1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba đảng hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Bởi, khi ra đời mỗi tổ chức đều đưa ra tuyên ngôn, nêu rõ đường lối cách mạng của mình, tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vận động quần chúng đấu tranh và phát triển rộng rãi cơ sở ... Làm cho phong trào cách mạng phát triển rất sôi nổi, nhưng hạn chế chung của các tổ chức Đảng đó là điều tự cho mình là chân chính nhất, là cách mạng nhất và không tránh khỏi phê phán các tổ chức Cộng sản khác. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng duy nhất lãnh đạo lãnh đạo cách mạng trong cả nước.
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản ở Đông Dương nêu rõ : "nhiệm vụ quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sớm lập một Đảng cách mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là một Đảng duy nhất và ở Đông Dương chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi". Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất các phần tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Mùa thu năm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hương Cảng (Trung Quốc) chuẩn bị kế hoạch thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên.
Với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã triệu tập đại biểu của ba tổ chức Cộng sản họp Hội nghị Hợp nhất tại Cửu Long (Hương cảng, Trung Quốc) từ ngày 3 tháng 2 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 để thống nhất 3 tổ chức Cộng sản. Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu và Nguyên Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng; Nguyên Thiệu và Châu Văn Liêm, đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng và hai đại biểu Cộng sản hoạt động ở nước ngoài.
Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc, hội nghị đã hoàn toàn nhất trí tán thành ý kiến của Người và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn ái Quốc dự thảo.
Hội nghị cũng nhất trí các chủ trương về việc thống nhất các tổ chức quần chúng và quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong nước, đề cử người vào các cấp lãnh đạo của Đảng. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các đại biểu đêu lấy danh nghĩa thay mặt đại biểu quốc tế (tức là đồng chí Nguyễn ái Quốc) mà tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất.
Ngày 24 tháng 2 năm 1930, đồng chí Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế và các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, chỉ nửa tháng sau, ba tổ chức cộng sản ở Đông Dương đã hoàn toàn thống nhất trong một Đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam tháng 2 năm 1930 có ý nghĩa như Đại hôi thành lập Đảng, đánh dấu một sự kiện trọng đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp hoàn hảo giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam chấm dứt cuộc khủng khoảng về đường lối cứu nước kéo dài trong mấy chục năm. Sự kiện đó cũng chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng đắn là sự cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng đang trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất. Đường lối của Đảng được công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn ái Quốc dự thảo được thông qua tại hội nghị Hợp nhất thành lập Đảng (3/2/1930) chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cương lĩnh đã vạch ra đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam, là ngọn cờ đoàn kết toàn Đảng toàn dân đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Nội dung cơ bản của cương lĩnh:
Về đường lối chiến lược :
Xuất phát từ sự phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền công nghiệp không phát triển vì tư bản Pháp ngăn cản không cho công nghiệp bản sứ phát triển; nông nghiệp thì bị Pháp cướp ruộng đất lập lên những đồn điền nên nông dân thất nghiệp nhiều. Tình hình đó đã dẫn đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Vì vậy Đảng ta chủ trương làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Nhiệm vụ :
Cương linh nêu rõ nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của “cách mạng tư sản dân quyền” là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội công nông thâu tóm hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ ", xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam”.
Về lực lượng cách mạng :
Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ, các nhà yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình ... phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày... Đảng "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, vv... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp", trong đó công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua chính đảng Mác - Lênin. Về nguyên tắc liên minh : Cương lĩnh đã viết : "Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương; Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới. Sách lược vắn tắt ghi rõ : "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".
Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sự đúng đắn và sáng tạo của cương lĩnh.
Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của Nguyễn ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Cương lĩnh tuy rất ngắn gọn nhưng phản ánh tương đối đầy đủ những quy luật vận động và phát triển nội tại, khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng được những yêu cầu cơ bản và cấp bách của nhân dân ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Cương lĩnh đã trở thành ngọn cờ đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân; là vũ khí chiến đấu sắc bén của những người Cộng sản Việt Nam trước mọi kẻ thù; là cơ sở cho các đường lối chủ trương của cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên. Sau 30 năm đấu tranh và giành nhiều thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết : "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường".
ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam đánh đáu bước ngoặt trọng đại của lịch sử cách mạng nước ta, chấm một thời kỳ khủng hoảng kéo dài về đường lối giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam, là cơ sở cho những thắng lợi oanh liệt của cách mạng những năm sau này. Kết thúc thời kỳ đấu tranh tự phát để chuyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác của giai cấp công nhân. Chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử
+ Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam xuất phát từ yêu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trong thời đại lịch sử mới.
+ Đó là kết quả của sự chuẩn bị công phu và khoa học của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trên cả ba mặt : chính trị, tư tưởng và tổ chức.
+ Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước của nhân daan Việt Nam trong đầu thế kỷ XX.
+ Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam vừa thể hiện quy luật phổ biến vừa thể hiện quy luật phổ biến của sự hình thành hính đảng cách mạng của giai cấp công nhân ( Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân ) vừa thể hiện quy luật đặ thù của Việt Nam ( Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam).
Phần II :
Tổng kết 70 năm hoạt động của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930-2000).
T
hế kỷ XX đã qua đi. Nhưng với lịch sử nhân loại thì thế kỷ XX được nhìn nhận một cách tổng quát là thế kỷ đầy biến động, để lại những dấu ấn cực kỳ sâu sắc, là thế kỷ kinh tế phát trển mạnh mẽ, xen lẫn những cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, là thế kỷ bùng nổ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.
Thế kỷ XX là thế kỷ đã chúng kiến hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu do chủ nghĩa đế quốc gây ra, cướp đi sinh mạng của hàng trục triệu người, tàn phá đi nhiều của cải vật chất và di sản văn hóa. Gây lên cuộc chạy đua vũ trang lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Đây cũng là thế kỷ chiến tranh cách mạng, chiến thắng của cuộc cách mạng Tháng 10 Nga đã mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
Thế kỷ XX là thế kỷ của cách mạng khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm cho năng xuất lao động xã hội đạt đến trình độ rất cao. Một “nền kinh tế tri thức” đã ra đời và ngày càng phát triển. Điều đó báo trước một thế kỷ mới sẽ có sự phát triển kỳ diệu hơn nữa của lực lượng sản xuất. Và tất yếu, quan hệ sản suất cũng phải có sự phát triển tương ứng. Cùng với những điều đó, đã báo hiệu trong thế kỷ tới sẽ có những biến đổi rất mạnh về chính trị - xã hội. Cho dù các trở lực có thể sẽ tăng lên, nhưng vẫn không ngăn cản được quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử nhân loại.
Thành tựu của cách mạng Việt Nam trong 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Với dân tộc Việt Nam, thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh giải phóng, đấu tranh cách mạng chống đế quốc xâm lược và các chính quyền tay sai, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất cho Tổ quốc , xây dựng xã hội mới do nhân dân làm chủ - xã hội xã hội chủ nghĩa; là thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại .
Ba mươi năm đầu của thế kỷ XX, trước tình cảnh đất nước bị mất độc lập chủ quyền, nhân dân bị mất tự do dân chủ, phải sống cuộc đời tủi nhục của người nô lệ mất nước (vong quốc nô), nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh kiên cường chống ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là 30 mươi năm lần lượt thử nghiệm, chọn lọc các con đường giải phóng dân tộc. Từ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến với các điển hình như phong trào cần vương, như cuộc khởi nghĩa Yên Thế ... đến các phong trào cứu nước theo hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản qua các điển hình như phong trào Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục và cuộc khởi nghĩa Yên Bái... Các phong trào yêu nước đó diễn ra rất anh dũng, sôi nổi và liên tục nhưng đều không thành công vì không đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh chống kẻ thù trong một thời đại lịch sử mới. Nguyên nhân thất bại cơ bản của các phong trào yêu nước nói trên là thiếu một đường lối và phương pháp cách mạng đúng dắn của một giai cấp tiên phong, thiếu một hệ tư tưởng tiên tiến và một học thuyết cách mạng khoa học.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử, đánh dáu một bước ngoặt trọng đại và mở ra một thời đại lịch sử mới của dân tộc Việt Nam.
Từ đó cho tới nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đúng đầu là Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã có những bước trưởng thành vượt bậc. Cách mạng Việt Nam đã giành đượ những thắng lợi vĩ đại :
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng , khởi nghĩa giành chính quyền - Cách mạng Tháng Tám (1945)
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn, đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại trong gần một thế kỷ, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước của dân, do dân và vì dân. Dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến hành thắng lợi Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945 - 1954.
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã bị các nước đế quốc và các thế lực phản động trong nước và quốc tế câu kết với nhau chống phá quyết liệt. Đứng trước tình thế như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng : Đối với các thế lực thù địch, Đảng Cộn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60716.doc