MỤC LỤC
MỤC LỤC 0
LỜI MỞ ĐẦU 5
Chương 1 8
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐIỆN Ở VIỆT NAM 8
Chương 2 11
ƯU – NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC DẠNG NĂNG LƯỢNG 11
2.1 Nhà máy điện gió 12
2.1.1 Ưu điểm 12
2.1.2 Nhược điểm 12
2.2 Nhà máy thủy điện 13
2.2.1 Ưu điểm 13
2.2.2 Nhược điểm 13
2.3 Nhà máy nhiệt điện 17
2.3.1 Ưu điểm 17
2.3.2 Nhược điểm 17
2.4 Điện mặt trời 18
2.4.1 Ưu điểm 18
2.4.2 Nhược điểm 19
2.5 Nhà máy điện hạt nhân 19
2.5.1 Ưu điểm 19
2.5.2 Nhược điểm 21
Chương 3 23
TỔNG QUAN VỀ NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN 23
3.1 Nhà máy điện hạt nhân là gì ? 24
3.2 Cấu tạo của nhà máy điện hạt nhân 24
3.3 Lò phản ứng hạt nhân 25
3.3.1 Nhiên liệu: 25
3.3.2 Thanh điều khiển 27
3.3.3 Chất làm chậm 27
3.3.4 Chất phản xạ 28
3.3.5 Chất truyền nhiệt 28
3.3.6 Thùng lò 29
3.3.7 Tường bảo vệ và các vật cấu trúc khác 29
3.4 Phản ứng phân hạch hạt nhân 30
3.4.1 Khái niệm 30
3.4.2 Nguyên lý phản ứng phân hạch 30
3.4.3 Năng lượng phân hạch 32
3.5 Chất thải phóng xạ 32
3.6 Xử lý chất thải phóng xạ 34
3.6.1 Pháp, Nga, Nhật, Anh 34
3.6.2 Mỹ 35
3.6.3 Phần Lan 35
3.6.4 Bungari 36
3.6.5 Anh và Đức 36
Chương 4 37
BỨC TRANH SỬ DỤNG NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN TRÊN THẾ GIỚI 37
4.1 Quá khứ 38
4.2 Hiện tại 39
4.2.1 Ở Mỹ và các nước phương Tây 39
4.2.2 Ở Châu Á 40
4.2.3 Các nước khác 42
4.2.4 Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA 42
4.3 Một số thảm họa hạt nhân trên thế giới 43
4.3.1 Sự cố hạt nhân ở Đảo Ba Dặm (Hoa Kỳ) 43
4.3.2 Thảm họa hạt nhân Chernobyl (Ukraina) 43
4.3.3 Vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) 44
Chương 5 46
NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN Ở VIỆT NAM AN TOÀN HAY KHÔNG ? 46
5.1 Một nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam có phù hợp với luật pháp Quốc tế? 47
5.2 An toàn cho nhà máy điện hạt nhân 47
5.3 Nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận: An toàn hay không? 50
KẾT LUẬN 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
PHỤ LỤC 1 59
PHỤ LỤC 2 61
PHỤ LỤC 3 67
PHỤ LỤC 4 68
75 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 3332 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triển vọng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hai hay nhiều mảnh nhỏ hơn nó. Năng lượng cần thiết nhỏ nhất để làm hạt nhân phân chia được gọi là năng lượng kích hoạt. Năng lượng kích hoạt được sử dụng cho hai phần: một phần truyền cho các nuclon riêng biệt bên trong hạt nhân tạo ra các dạng chuyển động nội tại, một phần dùng để kích thích chuyển động tập thể của toàn bộ hạt nhân, do đó gây ra biến dạng và làm vỡ hạt nhân thành các mảnh nhỏ. Khi hạt nhân vỡ thì khối lượng tổng cộng các mảnh vỡ bao giờ cũng nhỏ hơn khối lượng hạt nhân nặng. Năng lượng tỏa ra ứng với độ hụt khối và được gọi là năng lượng vỡ hạt nhân hay năng lượng phân hạch.
Phản ứng phân hạch là một phản ứng có lợi về mặt về mặt năng lượng, tức hầu như không tốn năng lượng cung cấp cho “viên đạn” neutron đầu tiên, nhưng phát ra nhiều năng lượng. Đó là động năng của các mảnh vỡ và của các neutron sinh ra, tiếp theo la năng lượng của các bức xạ anpha, beta, gamma…[13]
Trong lò phản ứng, động năng nói trên sẽ biến thành nhiệt lượng nung nóng khối nhiên liệu. Chính nhiệt lượng này làm cho dòng nước làm mát lò nóng lên và tạo hơi nước để quay turbin chạy máy phát điện. [13]
Rõ ràng phân hạch là phản ứng có lợi về mặt năng lượng rất lớn. Thật vậy, năng lượng tỏa ra khi phân hạch 1 gam nhiên liệu Uranium bằng nhiệt lượng do đốt cháy khoảng 10 – 100 tấn nhiên liệu than đá. [13]
3.5 Chất thải phóng xạ
Trong nhà máy điện nguyên tử, nơi sinh ra chất phóng xạ là lò phản ứng do các hoạt động sau:
- Nhiên liệu Uranium phân hạch tạo ra các chất phóng xạ khác.
- Các chất bên trong thùng áp lực lò phản ứng bị phóng xạ hoá do tác động của nơtron và tạo ra chất phóng xạ.
Thông thường, các sản phẩm phân hạch bị nhốt kín bên trong nhiên liệu. Nếu có khuyết tật ở vỏ bọc thanh nhiên liệu thì các sản phẩm phân hạch sẽ rò rỉ vào chất tải nhiệt.Đồng thời, chỉ cần một lượng nhỏ tạp chất sinh ra do ăn mòn trong chất tải nhiệt, chúng cũng sẽ bị nhiễm xạ do tác động của nơtron. Nhưng chất tải nhiệt được đưa qua thiết bị làm sạch nên những tạp chất này sẽ bị loại trừ. [15]
Vậy chúng ta phải có những biện pháp làm sao cho lượng chất thải phóng xạ rò rỉ ra là ít nhất. Có hai cách sau:
Việc đảm bảo tính bền vững của nhiên liệu là quan trọng nhất. Nếu nhiên liệu không bị hỏng thì các sản phẩm phân hạch phóng xạ sẽ bị nhốt kín bên trong các vỏ bọc thanh nhiên liệu, lượng thoát ra bên ngoài rất ít. [15]
Một cách hữu hiệu nữa là giảm thiểu lượng chất ăn mòn thoát ra từ các thùng chứa, ống bơm, van của hệ thống sơ cấp lò phản ứng. Để làm được điều này, người ta sử dụng vật liệu chống ăn mòn mạnh và áp dụng những kỹ thuật mới nhất trong việc quản lý chất lượng nước để hạn chế tối đa khả năng ăn mòn. Hơn nữa, việc lựa chọn vật liệu có hàm lượng Coban ít cũng hết sức quan trọng. [15]
So với chất thải thông thường và chất thải công nghiệp, có thể nói lượng chất thải phóng xạ phát sinh trong nhà máy điện nguyên tử rất ít. Cụ thể năm 1955, lượng chất thải bình quân của một người Nhật Bản trong 1 năm là 3.900 kg. Trong khi đó lượng chất thải phóng xạ phát sinh từ toàn bộ các nhà máy điện nguyên tử chưa đến 0,104 kg. Có nghĩa là chất thải từ nhà máy điện nguyên tử tuy phải mất công xử lý phóng xạ nhưng vì lượng ít nên quản lý cũng dễ dàng. [16]
Chất thải hạt nhân chia theo đời sống thành hai loại: những chất có chu kỳ bán rã dưới 30 năm thì gọi là chất có đời sống ngắn, từ 30 năm trở lên thì gọi là chất có đời sống dài.
Chất thải hạt nhân còn chia theo hoạt độ thành chất có hoạt độ rất thấp, thấp, trung bình và cao.
Vấn đề đặt ra hàng đầu là phải xử lý các chất thải đó cho thật hiệu quả và an toàn nhất để tránh gây ô nhiễm, gây chiếu xạ, ảnh hưởng tới sức khỏe và đời sống của cộng đồng.
3.6 Xử lý chất thải phóng xạ
Sau một thời gian hoạt động những thanh nhiên liệu đã cháy phải đưa ra khỏi lò phản ứng, thay bằng các thanh nhiên liệu mới. Chính các thanh nhiên liệu này được coi là nguồn chất thải hạt nhân nguy hiểm nhất và được quan tâm nhiều nhất.
Chất thải từ các thanh nhiên liệu từ lò phản ứng nước nhẹ bao gồm:
U-235 – 0,8%
U-236 – 0,46%
U-238 – 94,3%
Pu – 0,89%
Các sản phẩm của phản ứng phân hạch – 3,5%.
Các sản phẩm khác – 0,05%. [17]
Trên thế giới hiện nay có nhiều cách xử lý chất thải phóng xạ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và khả năng cho phép của từng quốc gia. Qua tài liệu thu thập được từ các bài báo, sau đây chúng tôi sẽ nêu ra một số biện pháp xử lý có thể nói là khá khả thi trong nhiều năm qua.
3.6.1 Pháp, Nga, Nhật, Anh
Chủ trương tái xử lý (retraitement) chất thải phóng xạ, thu hồi chất plutoni và urani có độ giàu đã giảm đi từ 3% xuống còn 0,9%, trộn oxit plutoni và oxit urani thành một loại nhiên liệu hạt nhân mới gọi là MOX (Mixed Oxyde) và dùng loại nhiên liệu này trong các lò phản ứng hạt nhân. [18]
Đối với các chất phóng xạ chứa sản phẩm phân hạch có đời sống dài (chu kỳ bán rã hàng triệu năm) thì phương pháp xử lý là thủy tinh hóa (vitrification) nhằm thu nhỏ thể tích. Phương pháp thủy tinh hóa theo lời kể của ông Đinh Ngọc Lân như sau: “Năm 1980, khi đến Trung tâm xử lý chất thải phóng xạ Marcoule ở bên bờ sông Rhone, tôi đã được thăm nhà máy thủy tinh hóa chất thải phóng xạ đầu tiên trên thế giới bắt đầu hoạt động từ năm 1978. Tôi đã được thấy những cái lò nung cao tần nóng rực như lò bát quái, công suất mỗi cái 200 kW, tần số 4 kHz, trong ấy thủy tinh chứa Bo (verre borosilicaté) trộn lẫn với chất thải phóng xạ được nung nóng lên đến 1150oC. Dung dịch nóng chảy này được rót vào những chiếc cốc kim loại, để nguội thành những cốc thủy tinh chứa chất phóng xạ dài ngày. Những cốc thủy tinh này được cất giữ trong các tấm bê tông để sâu dưới đất. Vì chu kỳ bán rã của các chất thải phóng xạ này dài đến hàng triệu năm nên những chỗ cất giữ này chỉ là tạm thời, trong khi chờ đợi được cất giữ lâu dài trong các cấu trúc địa chất sâu chừng 500 mét, ở vùng đá hoa cương hay đất sét.” [18]
3.6.2 Mỹ
Không chủ trương tái xử lý. Cách làm của Mỹ là sau khi lấy ra khỏi lò phản ứng, các thanh nhiên liệu được cho vào một bể nước ngay ở địa điểm của nhà máy điện hạt nhân để cho nguội đi trong 3 đến 5 năm. Trong thời gian ấy, những chất thải phóng xạ ngắn ngày phân rã đi và hoạt độ phóng xạ giảm đi rất nhiều. Chúng được cho vào những container kim loại và cất trong kho 20 đến 50 năm, sau đấy đem chôn sâu 300 mét dưới mặt đất ở Yucca Mountain trong một vùng sa mạc ở bang Nevada. Theo quyết định của Quốc hội Mỹ thông qua vào năm 2002, việc chôn cất vĩnh viễn các chất thải phóng xạ tại Trung tâm Yucca Mountain có thể bắt đầu từ năm 2012. [18]
3.6.3 Phần Lan
Luật về năng lượng nguyên tử do Quốc hội thông qua năm 1987 đã qui định là các chất thải phóng xạ phải được chôn cất vĩnh viễn dưới các cấu tạo địa chất sâu. Tháng 1 – 2000, hội đồng vùng Erafoki đã chấp thuận cho chôn chất thải phóng xạ trong vùng. Mùa hè năm 2004, việc xây dựng nơi chôn cất chất thải phóng xạ trong đá hoa cương ở độ sâu 500 mét đã bắt đầu và sẽ hoàn tất vào năm 2010. Các nước Thụy Điển, Thụy Sỹ, Bỉ cũng chọn phương án chôn trực tiếp các chất thải phóng xạ. [18]
3.6.4 Bungari
Nhà máy điện hạt nhân Kozloduy được xây dựng từ đầu những năm 1970, cách đây đã gần 40 năm. Các chất thải phóng xạ hiện nay đang được cất giữ tại chỗ trong 3 gian nhà, mỗi nhà có 5 thùng, dung tích mỗi thùng là 500 m3. Hiện nay, tất cả các thùng đã gần đầy hết. Bungari đã ký với công ty Mỹ Westinghouse một hợp đồng trị giá 10 triệu USD để công ty này giúp xử lý các chất thải phóng xạ bằng cách dùng xi măng cô đặc rồi chôn không sâu lắm ở Novi – Ham, cách thủ đô Sofia 30 km về phía Đông. [18]
3.6.5 Anh và Đức
Trong thời gian gần đây, các nhà khoa học đã thử nghiệm chuyển hóa chất thải hạt nhân thành những chất vô hại bằng cách sử dụng tia laser. Theo cách này thì mẫu chất phóng xạ được đặt trong một hộp không cản tia sáng rồi cho tia laser cực ngắn đốt chất liệu này. Vấn đề còn tồn tại là làm thế nào có thể tạo ra những tia laser có năng lượng cao và việc làm này rất nguy hiểm cho các nhà khoa học trực tiếp tiến hành các thí nghiệm. Hơn nữa, tia laser cần một lực cũng chỉ có thể chuyển biến được vài gram chất thải. Các nhà nghiên cứu cho rằng phải mất 10 năm nữa thì dự án mới đi vào thực tiễn. Trong thời gian đó thì chất thải phóng xạ vẫn là vấn đề đáng lo ngại, nhưng kết quả bước đầu của các nhà khoa học đã mở ra cánh cửa trong việc xử lý chất thải. [19]
Chương 4
BỨC TRANH SỬ DỤNG NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN TRÊN THẾ GIỚI
Chương này chúng ta tiếp tục tìm hiểu về vấn đề sử dụng điện hạt nhân trên thế giới để có cái nhìn tổng quan hơn về loại hình năng lượng này. Bằng phương pháp thống kê và tổng hợp chúng tôi sẽ dựng lên một bức tranh toàn cảnh trong quá khứ, hiện tại của các quốc gia đang sử dụng và chuẩn bị đưa vào sử dụng về số lượng nhà máy cũng như chính sách phát triển, cùng với đó là một số thảm họa hạt nhân nghiêm trọng trong lịch sử của ngành công nghiệp năng lượng này.
4.1 Quá khứ
Ngày 20 – 12 – 1951 đánh dấu sự ra đời của năng lượng điện hạt nhân khi nước Mỹ đưa vào sử dụng lò phản ứng EBR-1 có thể thắp sáng 4 bóng đèn, kỉ nguyên điện hạt nhân bắt đầu. Những năm 1954 và 1956 sau đó, đến lượt Nga và Anh sử dụng điện hạt nhân quy mô công nghiệp, các nhà máy điện hạt nhân bắt đầu được chính phủ nhiều nước chấp nhận.
Đến những năm 70, 80 điện hạt nhân phát triển mạnh do khủng hoảng dầu mỏ đẩy giá điện tăng cao, công nghệ được thương mại hóa giúp nguồn điện này dần được phổ biến ở các nước phát triển như Mỹ, Nga, Đức, Pháp. Vì những ưu điểm như giá điện rẻ, nguồn điện ổn định, giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch giúp điện hạt nhân lên ngôi, tỷ trọng điện hạt nhân toàn cầu tăng lên gần 2 lần từ 9% thành 17%. [Trích số liệu của IAEA năm 1890]
Thế nhưng do cuộc chạy đua ngầm mặt công nghệ, điện hạt nhân lúc này đang trở thành mốt, các nước vẫn chưa ý thức cao về vấn đề an ninh năng lượng, xây dựng nhà máy quá vội vã, chỉ chú ý đến vấn đề số lượng và không quan tầm nhiều đến an toàn hạt nhân. Và sau nhiều sự cố nhỏ trên thế giới, năm 1986, vụ nổ nhà máy điện Chernobyl khiến cả thế giới bừng tỉnh. Ý thức được rõ hơn về sức mạnh của nguồn năng lượng này, các nước bắt đầu thận trọng hơn trong việc sử dụng chúng, tốc độ xây dựng nhà máy điện hạt nhân giảm mạnh. Thậm chí tại một số nước như Đức và Thụy Điển, sự phản đối của người dân kết hợp với các yếu tố chính trị khiến chính quyền có chủ trương loại bỏ điện hạt nhân trong tương lai, chuyển đổi qua các dạng năng lượng khác.
Tuy vậy không có nghĩa rằng là điện hạt nhân bị loại bỏ không sử dụng nữa, yêu cầu bức thiết về năng lượng trên thế giới và ưu điểm không thể chối bỏ của nhà máy điện hạt nhân so với các nhà máy điện truyền thống đã khiến các nước xem xét lại, nhiều nước còn coi điện hạt nhân là cứu cánh cho nền công nghiệp và là nguồn năng lượng cho tương lai.
4.2 Hiện tại
4.2.1 Ở Mỹ và các nước phương Tây
Vị thế số một của Mỹ trong việc ứng dụng công nghệ hạt nhân từ lâu đã được khẳng định, 104 nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động tạo ra lượng điện năng chiếm 20% cả nước đã nói lên rằng không ai khác ngoài Mỹ là nước có nền công nghiệp nguyên tử phát triển nhất. Ngoài sự cố ở Đảo Ba Dặm, trong suốt hơn 50 năm, các nhà máy điện hạt nhân của Mỹ luôn hoạt động an toàn [Theo thống kê của cục năng lượng nguyên tử Mỹ]. Năm 2002, tổng thống G.Bush đã công bố một chương trình mang tên “Tầm nhìn 2020” với nội dung chính là khuyến khích các trung tâm nghiên cứu hạt nhân xây dựng một thế hệ lò mới có hiệu suất cao hơn, an toàn hơn, giảm sự phụ thuộc vào con người, đồng thời tiếp tục nâng cao sản lượng điện hạt nhân lên thêm 10000 MW vào năm 2012.
Cuối năm 2010 vừa qua, Nghị viện Châu Âu đồng ý bỏ phiếu tán thành nghị quyết cho rằng năng lượng hạt nhân là tuyệt đối cần thiết để EU đáp ứng nhu cầu điện năng trung hạn. Nghị quyết đó đã được thể hiện bằng hành động thực tế của một loạt các nước. Vương quốc Anh đã quyết định tái khởi động chương trình điện hạt nhân, phê chuẩn kế hoạch xây dựng một thế hệ nhà máy điện hạt nhân mới thay thế cho những nhà máy sẽ hết hạn hoạt động vào năm 2030.
Pháp là nước có tỷ trọng điện hạt nhân cao thứ nhì châu Âu với khoảng 73%, chỉ đứng sau Lunathia với 83% [20]. Sở hữu 3 trong số 10 nhà máy điện hạt nhân lớn nhất thế giới chứng tỏ rằng điện hạt nhân chính là lựa chọn của nền công nghiệp năng lượng nước này. Công ty điện Electricite de France là công ty điện lớn nhất Châu Âu là nơi đào tạo nhân lực cho ngành điện hạt nhân thuộc loại tốt nhất thế giới, với kinh nghiệm hàng đầu của mình vừa qua chính phủ Pháp đã ký cam kết giúp đỡ Việt Nam về mặt đào tạo nhân sự nếu Việt Nam tiến hành xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Tuy nhiên không phải đất nước nào trong khối EU cũng ủng hộ loại hình năng lượng này, Bỉ, Đức, Thụy Điển là 3 nước đang cắt giảm tỷ trọng điện hạt nhân, thay thế bằng các loại năng lượng sạch hơn như năng lượng mặt trời, gió, v.v… Mới đây thủ tướng Đức Angela Merkel đã quyết định đóng của 7/17 nhà máy điện hạt nhân của nước này, chính phủ Bỉ và Thụy Điển cũng đang có những động thái tương tự. Thế nhưng việc ứng dụng các loại năng lượng thay thế cũng không phải là việc dễ dàng bởi chi phí xây dựng các nhà máy điện loại này quá cao và sẽ đẩy giá điện tăng cao gây ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế của các nước này và đây thực sự là bài toán đau đầu của những người đứng đầu chính phủ .
Như vậy với hơn 146 nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động trên khắp châu Âu và 104 đối với Mỹ thì điện hạt nhân vẫn đang là nguồn năng lượng không thể thay thế [Thống kê của cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA năm 2009]. Mặc dù vẫn có những ý kiến phản đối về nguồn năng lượng này thế nhưng những ưu điểm không thể chối cãi cùng với nhu cầu bức thiết của nền công nghiệp khiến điện hạt nhân vẫn được tiếp tục phát triển và ngày càng lan rộng sang các khu vực khác mà điển hình là châu Á.
4.2.2 Ở Châu Á
Theo số liệu thống kê của Cơ quan năng lượng nguyên tử Quốc tế (IAEA), Châu Á Thái Bình Dương là nơi có số lượng xây dựng nhà máy điện hạt nhân cao hơn cả, riêng Trung Quốc có hơn 27 lò phản ứng đang xây dựng, chiếm 40% số lượng nhà máy điện hạt nhân đang xây dựng trên thế giới, tiếp theo sau là Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ ... ngay cả Việt Nam cũng đã có đề án xây dựng nhà máy điện hạt nhân. [21]
Nhật Bản là nước đứng đầu Châu Á về số lượng nhà máy đang hoạt động với 54 nhà máy, Hàn Quốc là 18 nhà máy, nguyên nhân là do sự khan hiếm tài nguyên hóa thạch khiến 2 nước này phải sử dụng điện hạt nhân để bảo đảm an ninh năng lượng trong nước. Tại Nhật, điện hạt nhân chiếm 30% tổng công suất phát điện của nước này, con số này đối với Hàn Quốc là 35% và còn tiếp tục tăng. [21]
Còn đối với Trung Quốc, sau khi vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 2 thế giới vẫn không ngừng phát triển với mục tiêu trở thành cường quốc số 1 thế giới, cộng với việc bùng nổ dân số nhu cầu về điện là quan trọng hàng đầu. Nhận thấy sự hụt hơi của các dạng năng lượng truyền thống, Trung Quốc đã tập trung phát triển cho năng lượng hạt nhân, liên tục xây dựng các nhà máy điện nguyên tử và dự kiến đến năm 2020 đưa vào sử dụng hơn 30 nhà máy điện loại này, nâng tỷ trọng điện hạt nhân sẽ chiếm 10% tồng sản lượng điện khổng lồ tại đất nước này.
Uy tín của Nga với tư cách là nhà cung cấp điện hạt nhân dân sự hàng đầu sau thảm họa Chernobyl đã giảm sút nghiêm trọng và đang nỗ lực để lấy lại hình ảnh của mình. Chính phủ Nga đã thành lập một tập đoàn cung cấp năng lượng hạt nhân để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài bằng cách cung cấp các mô hình an toàn hơn, nâng cao hiệu suất sử dụng, đồng thời tích cực nâng cao sản lượng điện nguyên tử trong nước từ 16% lên 30% trong năm 2012 [21]. Có thể nói động thái này của Nga đã khiến thị trường thương mại công nghệ nguyên tử sôi động hẳn, giảm bớt sự độc quyền của Mỹ và các nước phương Tây đối với loại năng lượng này.
Các nước khác trong khu vực như Malaisia, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia cũng bắt đầu nghiên cứu loại hình cung cấp năng lượng điện mới mẻ này.… Indonesia đang có kế hoạch xây dựng các nhà máy điện hạt nhân với tổng công suất 1000MW tại JaVa, cùng lúc đó cơ quan năng lượng Thái Lan tuyên bố sẽ xây 2 nhà máy điện hạt nhân vào năm 2015. Tại Việt Nam, đề án xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 tuy còn vấp phải nhiều ý kiến trái chiều nhưng mức độ khả thi là tương đối lớn.
Tại Châu Á, các nhà máy điện hạt nhân đang dần và sắp trở thành nguồn cung năng lượng không thể thiếu, thay thế các loại hình nhà máy điện truyền thống, giảm bớt sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch. Mặt khác, việc chú trọng đầu tư vào công nghệ hạt nhân của Trung Quốc và nỗ lực lấy lại hình ảnh của Nga giúp cân bằng cán cân quân sự, tạo thế kiềng 3 chân vững chắc về mặt chính trị.
4.2.3 Các nước khác
Ở Canada, việc mở rộng sản xuất điện hạt nhân ngắn hạn có thể diễn ra dưới hình thức tái khởi động một vài hoặc cả tám nhà máy đang bị đóng cửa.
Nam Phi là đất nước duy nhất của Châu Phi có nhà náy điện nguyên tử và vẫn đang tiếp tục đầu tư để đáp ứng nhu cầu năng lương ngày một tăng cao.
Tại Mỹ La tinh có sáu nhà máy đang hoạt động chia đều cho 3 nước Argentiana, Brazil và Mexico.
4.2.4 Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA
Về cơ bản, những ưu điểm của điện hạt nhân đều được cả thế giới đón nhận nhưng vì những vấn đề liên quan đến nó trong việc sản xuất vũ khí hạt nhân khiến cả nhân loại đang phải xem xét lại nó. Hai quả bom nguyên tử mà Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki của Nhật đã trình diễn khả năng tàn phá kinh hoàng của loại vũ khí mới này. Cả thế giới lo ngại nếu loại vũ khí lọt vào tay những tổ chức khủng bố hoặc được sử dụng trong chiến tranh phá hoại thì việc nguy cơ đưa thế giới về thời kỳ đồ đá là không có gì khó. Đứng trước những lo ngại này cơ quan Năng lượng nguyên tử Quốc tế đã được thành lập vào ngày 29 tháng 7 năm 1957 với mục đích đẩy mạnh việc sử dụng nguyên tử vì mục đích hòa bình và ngăn chặn việc sử dụng hạt nhân vào mục đích quân sự.
Vào những năm 90 khi mà cả thế giới nổ ra cuộc chạy đua vũ trang về vũ khí hạt nhân, IAEA đã không thể làm tốt nhiệm vụ của mình một phần là vì ý thức của các nước sử dụng loại vũ khí này là chưa cao, mặt khác quyền lực thanh tra của tổ chức này còn thấp. Vụ việc đó đã khiến Liên Hiệp Quốc nhận thấy sự yếu kém của tổ chức này, quyết định cải tổ, ủy quyền thi hành việc thanh sát quốc tế để có thể phát hiện những ý đồ chuyển thiết bị hạt nhân phục vụ mục đích dân sự sang mục đích quân sự. Theo đó việc làm giàu Uranium sẽ được giám sát chặt chẽ, những hành vi đen tối sẽ được ngăn chặn kịp thời. Cho đến hiện nay, cơ quan này đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình và đã đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý, giúp cho vấn đề an ninh hạt nhân thế giới luôn ổn định.
4.3 Một số thảm họa hạt nhân trên thế giới
4.3.1 Sự cố hạt nhân ở Đảo Ba Dặm (Hoa Kỳ)
Tai nạn xảy ra vào lúc 4 giờ sáng thứ tư, ngày 28 tháng 3 năm 1979 tại nhà máy điện hạt nhân trên đảo Three Miles Island, Hoa Kỳ [22]. Hai nguyên nhân dẫn đến vụ tại nạn là:
Thiết kế hoạt động van áp xả khiến chất làm lạnh thất thoát ra ngoài khiến lõi nhiên liệu của lò bị tan chảy
Sự đào tạo thiếu bài bản về cách điều khiển nhà máy cũng như quá chủ quan vào máy móc của những người điều hành dẫn đến khi sự cố xảy ra thì đến nhiều giờ sau mới phát hiện.
Tuy nhiên trong một báo cáo của nhóm đặc trách Kenedy kết luận rằng: “Sẽ không có hoặc số lượng rất nhỏ khó phát hiện các trường hợp nào bị ung thư hay ảnh hưởng tới sức khỏe con người do sự cố gây nên. Và cũng bắt đầu từ đây, yếu tố an toàn hạt nhân bắt đầu được chú trọng hơn, hoạt động xây dựng các nhà máy điện nguyên tử trên thế giới bị chậm lại.
4.3.2 Thảm họa hạt nhân Chernobyl (Ukraina)
Vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl đặt tại thị trấn Prypiat, Ukraina diễn ra vào lúc 1 giờ 23 phút giờ sáng thứ bảy ngày 26 tháng 4 năm 1986 [23]. Có hai giả thiết về nguyên nhân xảy ra sự cố:
Một là do sự yếu kém về thiết kế của dạng lò RBMK đặc biệt là các thanh điều khiển.
Hai là ban điều hành của nhà máy không hiểu rõ cách thức hoạt động của dạng lò RBMK dẫn tới việc vận hành nhà máy sai quy tắc an toàn khiến sự cố xảy ra.
Đây chỉ là hai giả thiết vì vẫn chưa có một cuộc điều tra nào công bố rõ trách nhiệm thuộc về ai, thậm chí một số nhà nghiên cứu độc lập còn cho rằng nguyên nhân là vì nhà máy vừa được sử dụng vào mục đích dân sự lẫn mục đích quân sự, gây ra sự nhầm lẫn trong cách vận hành dẫn tới sự cố.
Vụ nổ thổi tung nóc lò phản ứng hạt nhân vốn dĩ không có tường bao (do giảm chi phí xây dựng) tạo một đám mây phóng xạ khổng lồ che phủ khắp Nga, Belarus, Ukraina, lan rộng đến cả Anh, Pháp, Đức, Slovakia, Thổ Nhĩ Kì v.v... Hơn 200 người nhập viện lập tức, trong số đó có 31 người chết, ước tính có hơn 300.000 người nhiễm phóng xạ liều cao trong nỗ lực xử lý thảm họa, một khu vực sơ tán khẩn có bán kính 30 km ngay lập tức được hình thành khiến 150.000 người mất nhà cửa, thị trấn Prypiat trở thành một thành phố ma. [23]
Chính phủ thành lập một nhóm khắc phụ hậu quả hạt nhân với sự tham gia của nhiều lực lượng từ lính cứu hỏa cho tới quân đội. Bất chấp việc nhìn rõ được cái chết vì lượng phóng xạ cực mạnh nhưng những người tham gia cứu hộ vẫn dũng cảm lao vào cuộc, họ trực tiếp dập lửa, bơm nước vào lò phản ứng, thậm chí còn có người phải lặn xuống nước để mở nắp cống mà không có một dụng cụ bảo hộ hạt nhân nào. Các rô-bốt tạo nên một cỗ quan tài bê tông bao phủ khắp nhà máy hy vọng sẽ ngăn được phóng xạ thất thoát ra ngoài. Thế nhưng cho đến những năm sau đó, người ta mới nhận ra rằng những nỗ lực cứu hộ là vô ích, không có một biện pháp nào có thể khắc phục được thảm họa này, cỗ quan tài bê tông cũng yếu dần và cần được gia cố lại, thậm chí chỉ cần một trận động đất nhẹ cũng đủ làm sập toàn bộ phần mái. Dự tính cần 1,5 tỷ USD để xây lại lớp vỏ bảo vệ mới nhưng mới chỉ có 900 triệu USD được chi ra. [23]
Thảm họa hạt nhân Chernobyl thực sự là một đòn giáng mạnh vào nền công nghiệp hạt nhân của Nga và của cả thế giới, lòng tin dần mất đi đối với loại năng lượng này mặc cho những nỗ lực khắc phục hậu quả.
4.3.3 Vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Fukushima (Nhật Bản)
Mới đây tại Nhật Bản xảy ra vụ động đất với cường độ 9,1 độ richter gây nên một thảm họa kép động đất – sóng thần, tổ hợp nhà máy điện hạt nhân Fukushima đã phải hứng chịu toàn bộ thảm họa kép này. Vì nhà máy đặt ngay trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương nên thiết kế an toàn của nhà máy có thể chống chịu được cả những trận động đất cấp 6. Thế nhưng, một thiên tai như thế này đã không được tính đến khiến toàn bộ hệ thống an toàn của nhà máy không được phát huy tác dụng. Động đất quá mạnh làm đứt gãy những đường ống truyền nhiệt bên trong nhà máy mặc dù tường bao vẫn không bị sụp đổ, sóng thần làm cho hệ thống máy bơm nước và phát điện dự trữ tê liệt khiến nước sạch không được bơm vào để làm nguội các lõi phản ứng dẫn đến sự tan chảy hạt nhân gây nên 1 loạt vụ nổ nghiêm trọng tại lò số 1, 2, 3 và hư hại nặng nề ở những lò khác.
Hậu quả của vụ nổ làm xuất hiện một đám bụi phóng xạ lớn ngoài biển Thái Bình Dương, lan rộng qua nhiều nước trong khu vực gây lo ngại về an toàn phóng xạ. 170.000 người đã phải buộc di tản khỏi bán kính 20 km quanh các nhà máy này. Chính phủ Nhật tuyên bố loại bỏ nhà máy điện hạt nhân Fukushima, gây thiệt hại lớn về kinh tế cũng như nguồn cung điện cho nền công nghiệp khổng lồ của nước này. Đến nay mọi nỗ lực cứu hộ đã được đền đáp xứng đáng khi rò rỉ phóng xạ đã được kiểm soát, nồng độ phóng xạ giảm dần, nguy cơ xảy ra một thảm họa Chenobyl thứ 2 đã không xảy ra nhưng để khắc phục sự cố thì vẫn còn phải tốn rất nhiều công sức và thời gian. [24]
Chương 5
NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN Ở VIỆT NAMAN TOÀN HAY KHÔNG ?
Qua bốn chương trước, chúng ta đã thấy được thế mạnh của năng lượng hạt nhân. Do vậy nhà nước ta đã quyết định sẽ xây dựng những nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam, cụ thể là trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Thế thì điều kiện - về tự nhiên, con người, và các vấn đề khác - ở Việt Nam nói chung, Ninh thuận nói riêng, có phù hợp và đảm bảo an toàn cho việc phát triển dạng năng lượng này? Bằng phương pháp thống kê và phân tích, chúng tôi lần lượt trả lời từng vấn đề. Từ đó đi đến kết luận cuối cùng cho câu hỏi: Có nên xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam hay không?
5.1 Một nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam có phù hợp với luật pháp Quốc tế?
Theo Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT-Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons), các quốc gia được quyền sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Như vậy, trong trường hợp nước ta sử dụng năng lượng hạt nhân để sản xuất điện là hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiệp ước.
5.2 An toàn cho nhà máy điện hạt nhân
Một nhà máy điện hạt nhân nên được xây dựng ở đâu là thích hợp? Lẽ dĩ nhiên những vấn đề cần quan tâm là địa chấn của địa điểm và an toàn cho người dân sống xung quanh. Với lợi thế là nhiên liêu sử dụng có khối lượng nhỏ, do đó việc vận chuyển nhiên liệu ít ảnh hưởng đến việc chọn lựa địa điểm xây dựng. Trên lý thuyết nhà máy điện hạt nhân có thể được xây gần với các phụ tải lớn, nhằm giảm thiểu tổn thất trong khâu truyền tải. Nhưng trên thực tế, vì nhà máy điện hạt nhân khi gặp sự cố sẽ gây nguy hại cao nên việc chọn lựa địa điểm được nghiên cứu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trien vong NMDHN tai Viet Nam.doc
- DIEN HAT NHAN VN_NHOM 14.pptx