Đề tài Triển vọng phát triển máy bán hàng tự động tại Việt Nam

MỤC LỤC

1 LỜI MỞ ĐẦU 4

2 TỔNG QUAN VỀ MÁY BÁN HÀNG TỰ ĐỘNG 5

2.1 Lịch sử ra đời và phát triển của máy bán hàng tự động 5

2.2 Lợi ích của việc sử dụng máy bán hàng tự động 8

2.3 Hạn chế của máy bán hàng tự động 11

2.4 Các điều kiện để sử dụng máy bán hàng tự động 12

3 CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ TRIỂN VỌNG VIỆC SỬ DỤNG MÁY BÁN HÀNG TỰ ĐỘNG TẠI VIỆT NAM 16

3.1 Cơ sở hạ tầng 16

3.2 Thói quen tiêu dùng 17

3.3 Kỹ thuật 19

3.4 Tài chính 20

3.5 Triển vọng phát triển máy bán hàng tự động tại Việt Nam 20

4 GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY VIỆC SỬ DỤNG MÁY BÁN HÀNG TỰ ĐỘNG 23

4.1 Tạo lập thói quen sử dụng máy bán hàng tự động cho người tiêu dùng 23

4.2 Tạo sự thuận tiện trong thanh toán 26

4.3 Đề xuất phương án kinh doanh 27

4.3.1 Vấn đề thứ nhất: Lựa chọn công nghệ 27

4.3.2 Vấn đề thứ hai: hình thức tổ chức kinh doanh 29

4.3.3 Vấn đề thứ ba: lựa chọn địa điểm 30

4.3.4 Vấn đề thứ tư: tài chính 31

4.4 Kiến nghị đối với Chính phủ 33

5 KẾT LUẬN 35

6 Tài liệu tham khảo 36

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4604 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triển vọng phát triển máy bán hàng tự động tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưởng một số ưu đãi về thuế. Những chi phí khác như thuê mặt bằng, chi phí duy trì hoạt động...cũng tương đối nhỏ. Điều kiện về hàng hóa Chủng loại hàng hóa có thể được cung cấp qua máy bán hàng tự động rất phong phú và đa dạng. Người ta đã có thể cung cấp mọi mặt hàng từ máy bán hàng tự động: phổ biến nhất là cà phê, thuốc lá, đồ uống, snack, bao cao su…Đặc biệt hơn, ta cũng có thể tìm thấy hoa tươi, đồ hải sản tươi sống, đồ chơi, trứng….Nếu như ở Mỹ, các nhà cung cấp hàng hóa thường thiên về những mặt hàng có giá không cao như đồ uống, thuốc lá.. thì tại Nhật, thậm chí bạn có thể mua được cả một chiếc nhẫn đính hôn tại một chiêc máy bán hàng tự động. Tuy vậy, nói chung để có thể đưa được vào máy bán hàng tự động, hàng hóc phải có một số yêu cầu sau: Về kích thước Hàng hóa cung cấp bằng máy bán hàng tự động hầu hết có kích thước tương đối nhỏ gọn như nước đóng lon, snack, kẹo…Các loại mặt hàng này ngoài có đặc điểm là nhỏ gọn, còn phải có hình dạng nhất định, không dễ bị thay đổi hình dạng bởi những tác động vật lý và sinh học bên ngoài. Về chủng loại Về lý thuyết, bất cứ loại hàng hóa nào cũng có thể cung cấp qua máy bán hàng tự động. Đối với các loại hàng thực phẩm, thời hạn sự dung của sản phẩm phải tương đối dài. Tại Nhật, người ta còn cung cấp cả đồ tươi sống. Tuy nhiên, hầu hết các nước người ta chỉ cung cấp các đồ ăn nhanh và có hạn sử dung lâu. Về giá cả Ngoài ở Nhật, nơi hầu như bất cứ hàng hóa nào cũng có thể bán được bán qua máy bán hàng tự động, từ hàng hóa thông thường đến hàng hóa cao cấp; thì hầu hết mặt hàng mặt hàng bán bằng máy bán hàng đều có mệnh giá không lớn. Về thói quen tiêu dùng Không cần phải nói thêm nhiều về sự phổ biến của máy bán hàng tự động trên Thế giới. Người dân nhiều nước đã quá quen với hình ảnh chiếc máy bán hàng tự động của các hãng nổi tiếng như Mc Donnal, Coca-cola…Việc sử dụng máy đối với họ bây giờ như một điều hiển nhiên. Tuy vậy, không phải ngay từ đầu người dân các nước đó đã tiếp nhận máy bán hàng tự động một cách thoải mái. Ví như McDonal, khi họ lần đầu đưa chiếc máy bán tự động đặt tại sân bay, đã vấp phải sư e ngại của người dân. Những người tiêu dùng nhất quyết không tin rằng khi họ cho tiền của mình vào máy thì họ sẽ nhận được hàng hóa mà mình yêu cầu. Phải đến khi nhân viên của công ty trực tiếp cho tiền của mình vào và nhận được hàng hóa từ máy thì họ mới yên tâm. Vì vậy, công ty đã phải bố trí nhân viên đứng làm mẫu cho khách hàng trong suốt những ngày đầu. Như vậy, có thể thấy, tâm lý e ngại với những máy móc mới không phải chỉ xuất hiện ở những quốc gia mà trình độ dân trí chưa được cao. Vì vậy, muốn đưa máy bán hàng tự động vào hoạt động trước tiên phải chuẩn bị tâm lý cho người tiêu dùng. CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ TRIỂN VỌNG VIỆC SỬ DỤNG MÁY BÁN HÀNG TỰ ĐỘNG TẠI VIỆT NAM Cơ sở hạ tầng Xét một cách khách quan thì thị trường máy bán hàng tự động tại Việt Nam gần như là con số 0 với cả nhà cung cấp và người tiêu dùng. Các doanh nghiệp mới chỉ thực sự bắt đầu quan tâm tới lĩnh vực này trong thời gian gần đây. Trước tiên ta xem xét dưới góc độ nhà cung cấp. Tháng 12 năm 2004 vừa qua, Công ty TNHH Thương Mại – Dịch vụ Tấn Hưng đã nhập về 10 chiếc máy bán nước giả khát tự động NineStar Coffee từ một công ty sản xuất máy bán hàng tự động Hàn Quốc, với giá 1000$/máy. Cũng từ giữa tháng 12 năm 2004, Công ty C.A.T International, một công ty chuyên sản xuất máy bán hàng tự động của Mỹ, đã có kế hoạch cung cấp một số máy bán hàng tự động theo đơn đặt hàng trước của các doanh nghiệp có nhu cầu nhưng với giá khá cao, từ 4.000 đến 5.000$/máy. Đầu năm 2005, Công ty Perfertti Van Melle chuyên sản xuất các thương hiệu kẹo và kẹo cao su đã lắp đạt 2 chiếc máy bán hàng tự động tại Thành phố Hồ Chí Minh. Còn tại Hà Nội, công việc kinh doanh loại dich vụ này xem ra ít sôi động hơn nhiều. Hiện nay trên thị trường, mới chỉ có một chiếc máy đang hoạt động tại Ga Hà Nội. Ngoài ra, công ty Hoàng Anh T3 cũng lắp đặt khoản 20 chiếc khác nhưng chỉ trong phạm vi các tòa nhà văn phòng lớn. Thực ra, không phải đến thời điểm này, máy bán hàng tự động mới xuất hiện tại Việt Nam. Trước đấy một thời gian, đã xuất hiện lần đầu tiên tại Việt Nam chiếc máy bán bao cao su tự động đầu tiên. Mặc dù rất phổ biến tại nhiều nước trên Thế giới nhưng chiếc máy này đã gặp rất nhiều trắc trở mới có thể đi vào hoạt động tại Việt Nam. Đây là bước đầu của dự án lắp đặt hàng loạt máy bán bao cao su tự động tại các quán bia hơi, quán cà phê, siêu thị hay nhà vệ sinh công cộng… của công ty Ez Vending. Đặc biệt chiếc máy do công ty sử dụng được sản xuất tại Trung Quốc với giá chỉ 330$ một chiếc. Dự án này đã được các Công ty và Ủy ban Dân số - Gia đình và trẻ em Việt Nam hỗ trợ rất tích cực. Ngoài dự án này, công ty Ez Vending còn đang ấp ủ một dự án táo bạo hơn đó là cung cấp các máy giặt là tự động mà đối tượng khách hàng tiềm năng chính là tầng lớp bình dân, đó là những người lao động ngoại tỉnh hay sinh viên. Như vậy, cơ sở hạ tầng để máy bán hàng tự động có thể tiếp cận với người tiêu dùng chỉ mới được đưa vào hoạt động chưa lâu, chủng loại vẫn còn chưa phong phú. Thói quen tiêu dùng Đầu tiên phải kể đến tâm lý ngại sử dụng tiền xu trong dân chúng. Sau khi đã trải qua sự tò mò hiếu kỳ vì tiền xu được phát hành lại, người dân bây giờ hầu như hoàn toàn thờ ơ với tiền xu. Tiền xu ở Việt Nam gần như không được sử dụng vào việc thanh toán. Vói những mệnh giá nhỏ, tiền xu thích hợp trong việc mua bán lặt vặt như gửi xe, đi chợ v.v..Tuy nhiên, ở nhưng nơi mà người dân có nhu cầu sử dụng tiền xu nhiều nhất như các bãi gửi xe, ngoài chợ thì người bán hàng, người giữ xe lại không chấp nhận thanh toán bằng tiền xu. Lý do của họ rất đơn giản nhưng cũng rất hợp lý. Tiền xu nhỏ nhưng lại khá nặng, vì vậy rất khó để bảo quản tại những nơi mà sự nhanh chóng, gọn nhẹ là yêu cầu số một như ngoài chợ và trong các bãi gửi xe. Ở những nơi như vậy, tiền xu nhỏ nên rất khó cầm, dễ xẩy ra rơi,mất. Hơn nữa, hầu hết những người trông giữ xe phải đứng, đi lại, những người bán hàng ngoài chợ thì không gian chật hẹp, do vậy việc mang theo một túi tiền xu nặng trịch hay việc đánh rơi một đồng xu nhỏ xuống đất thật là khó chịu. Đối với máy bán hàng tự động, ngay kể cả những nước có công nghệ phát triển hiện đại nhất, thì tiền xu là rất quan trọng, trong tương lai gần chưa thể thay thế được. Vì vậy, ở Việt Nam thời điểm này, đây là một trở ngại cần phải nhanh chóng có biện pháp khắc phục. Lý do thứ hai khiến máy bán hàng tự động hiện nay mới chỉ được một số ít doanh nghiệp để ý tới là việc kinh doanh này đòi hỏi một số vốn tương đối lớn. Giá của một chiếc máy hiện nay các công ty thường nhập về ít nhất cũng phải 1000$, có những chiếc lên tới 4000 – 5000$. Còn những chiếc máy giá rẻ do Trung Quốc sản xuất lại không được đa số các doanh nghiệp ưa chuộng. Trong khí giá máy nhập cao như vậy, các công ty này lại chưa được một sự ưu đãi nào từ phía Nhà nước. Có lô hàng bị đánh thuế tới 30%, công ty nộp đơn xin giảm thuế thì rất lâu sau vẫn chưa nhận được hồi âm. Ngoài ra, chi phí để thuê mặt bằng cũng rất cao (ở TP.Hồ Chí Minh hiện nay khoảng 25$/m2/tháng). Đó là chưa kể tới khi mới đưa vào hoạt động, mỗi máy lại phải có một nhân viên đi kèm để hướng dẫn khách hàng sử dụng máy. Tính đi tính lại, các công ty này cho biết lắp đặt một chiếc máy bán hàng tự động còn tốn gấp đôi thuê một nhân viên bán hàng. Một nguyên nhân không thể không nhắc tới đó là ý thức chưa cao của người dân đối với các sản phẩm hàng hóa công cộng. Hiện nay, tuổi thọ của các sản phẩm đặt tại nơi công cộng là rất thấp, tỷ lệ hư hỏng trên 50%. Ta có thể đơn cử một ví dụ điển hình nhất đó là các trạm gọi điện thoại công cộng. Được đưa vào hoạt động rộng rãi trên thị trường Hà Nội từ năm 1997, cho đến nay chưa được tới 10 năm nhưng đa số những trạm điện thoại này không được sử dụng đúng mục đích và đã hư hỏng rất nhiều. Nguyên nhân chính dẫn tới kết quả này là do ý thức của người dân trong việc sử dụng và giữ gìn hàng hóa công cộng. Rất nhiều bốt điện thoại công cộng đã trở thành nơi trú chân của những người vô gia cư hay thành chỗ chơi cho trẻ em. Do vậy, khi đưa máy bán hàng tự động vào hoạt động, các doanh nghiệp phải bố trí nhân viên trực bên cạnh những chiếc máy đó, vừa để hướng dẫn khách hàng sử dụng và cũng là để bảo vệ máy khỏi sự tò mò quá mức của những người thiếu ý thức. Một nguyên nhân nữa, tuy không lớn nhưng là trở ngại ban đầu mà nếu muốn phát triển bán hàng tự động nhất thiết phải có biện pháp khắc phục; đó là thói quen mua bán của người Việt Nam. Chúng ta đã quen với việc mua bán thông qua trao đổi trực tiếp giữa người mua và người bán trong hàng trăm năm nay. Thói quen này gắn liền với việc được tiếp xúc trực tiếp vào hàng hóa, tự tay kiểm định chúng thông qua xúc giác, khứu giác, được mặc cả v.v..Do vậy, khiến người dân hình thành thói quen tin tưởng vào hàng hóa mà nhà cung cấp chọn lựa là một nhân tố quan trọng để thay đổi thói quen của họ trong mua bán. Yếu tố văn hóa này vừa có thể là động lực thúc đẩy bán hàng tự động phát triển nhưng đồng thời cũng có thể là trở ngại không thể vượt qua. Ví dụ như ở Thái Lan, nơi tiền xu được sử dụng rộng rãi rất nhiều năm, thi trường máy bán hàng tự động chỉ hoạt động trong thời gian đầu sau đấy giảm dần. Trong khi ở Đài Loan, Nhật Bản, Mỹ mô hình này hoạt động rất hiệu quả. Như vậy, yếu tố văn hóa mua bán ở đây là khá quan trọng. Kỹ thuật Việt nam hiện nay đã có thể tự sản xuất được máy bán hàng tự động. Năm 2004, chiếc máy bán hàng tự động đầu tiên đã được nhóm sinh viên trường Bách Khoa Hà Nội thiết kế và hoàn thiện. Chiếc máy này đáp ứng được những yêu cầu cơ bản đối với một chiếc máy bán hàng tự động. Đến đầu năm 2005, một nhóm sinh viên của trường Đại Học Sư phạm Kỹ thuật Thành Phố Hồ Chí Minh đã thiết kế được chiếc máy bán cà phê tự động. Công trình của các sinh viên Bách Khoa đã được đưa lên làm dự án cấp Bộ và đã có dự án để đưa vào sản xuất hàng loạt trong thời gian tới. Tuy nhiên, đây mới chỉ là các dự án. Để đưa vào sản xuất thực sự và các doanh nghiệp có thể sử dụng được còn rất nhiều thời gian nữa. Tài chính Đâuy là trở ngại chính đốivới các doanh nghiệp Việt Nam. Như đã biết, các doanh nghiệp muốn hoạt động với vai trò nhà cung cấp máy cần một số vốn rất lớn. Trong khi đó, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều là các doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ, vấn đề tài chính thực sự khó khăn đối với họ. Nếu là người kinh doanh nhỏ lẻ, số vốn yêu cầu tuy không lớn lắm nhưng vẫn vượt quá khả năng của các hộ gia đình nói chung. Hầu hết những người có khả năng và mong muốn kinh doanh máy bán hàng tự động với vai trò người bán lẻ là các hộ gia đình. Đây lại là những đối tượng có thu nhập thấp, khả năng vay được vốn cũng không cao. Ngoài ra, vấn đề lợi nhuận trong kinh doanh máy bán hàng tự động ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được kiểm nghiệm. Do vậy, tài chính là vấn đề khó khăn rất lớn trong việc phát triển máy bán hàng tự động. Triển vọng phát triển máy bán hàng tự động tại Việt Nam Có thể nói, những dự án nêu trên nghe đều rất hấp dẫn nhưng tính khả thi thì lại là vấn đề cần bàn tới. Các dự án lớn đều mới đưa vào thử nghiệm trong thời gian gần đây nên hiệu qủa kinh tế chưa được chứng minh. Trong khi đó, những dự án đã triển khai được một thời gian như chương trình phát triển máy bán Bao cao su tự động của Công ty Ez Vending cho hiệu quả cả về mặt xã hội và kinh tế đều không như mong muốn. Việc triển khai hệ thống máy của công ty tại những nơi công cộng đã vấp phải sự phản đối của các chủ nhà hàng, quán cà phê, bar... Do vậy, đến nay, những chiếc máy này vẫn xa lạ với người dân. Còn những chiếc máy bán cà phê tự động được đặt trong các tòa nhà thì hiệu quả kinh tế thực sự không cao, trung bình chỉ bán được khoảng 40 cốc một ngày, ngày nhiều nhất cũng chỉ được 100 cốc. Chiếc máy bán hàng tự động hiếm hoi được đặt ở nơi công cộng tại Hà Nội thì chỉ cho doanh thu từ 100.000 đến 150.000 VND, quá ít đối với một của hàng bán lẻ tại nơi công cộng. Khó khăn trong việc triển khai máy bán hàng tự động tại Việt Nam rõ ràng còn rất nhiều. Tuy vậy, các doanh nghiệp đã bước chân vào lĩnh vực này đều tin tưởng vào tương lai của hoạt động kinh doanh của họ. Họ đều cho rằng kinh doanh máy bán hàng tự động ở Việt Nam ở thời điểm này là hoàn toàn hợp lý, bởi đây là xu thế tất yếu của một xã hội hiện đại và thị trường đầy tiềm năng Việt Nam hẵng còn bỏ ngỏ. Là những người đi tiên phong trong ngành dịch vụ mới mẻ, các doanh nghiệp hy vọng mình sẽ là người chiếm lĩnh một thị trường giầu tiềm năng trong tương lai. Thị trường Việt Nam quả thực rất hấp dẫn với các mặt hàng bán lẻ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 1 năm 2005 ước đạt 37.759 tỷ đồng. Với dân số hơn 80 triệu, thu nhập trung bình còn thấp, tỷ lệ dân số trẻ là rất cao. Đây là những người thích sự mới mẻ, hiện đại, dễ dàng chấp nhận cái mới. Đặc biệt, nhu cầu của họ đối với họ những mặt hàng chính của máy bán hàng tự động như nước ngọt, kẹo cao su, thuốc lá…là rất cao. Một vấn đề không thể bỏ qua khi xem xét, đó là sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thực phẩm – giải khát Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã có rất nhiều những nhãn hiệu thuộc lĩnh vực này của riêng mình như Vinamilk, Tribeco…Thêm vào đó là sự có mặt của rất nhiều những thương hiệu lớn, đã chiếm được lòng tin của người tiêu dung Việt Nam như Coca-cola, Pepsi, Heniken…Đây vừa là những nhà cung cấp hàng vừa có thể trở thành khách hàng đầy tiềm năng. Về vấn đề tài chính, tuy các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết chỉ ở tầm nhỏ và vừa, nhưng chúng ta lại là nơi thu hút vốn nhiều thứ hai ở khu vực Châu Á (sau Trung Quốc). Do vậy, chỉ cần các doanh nghiệp có một dự án kinh doanh hợp lý, vốn sẽ không còn là khó khăn không thể vượt qua. Ngoài ra, hiện nay Nhà nước ta đang khuyến khích các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa nhằm huy động được nhiều nguồn lực kinh doanh từ bên ngoài, đồng thời làm tăng tính chủ động và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước ta cũng đã có chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Cụ thể là khi tham gia thành lập các công ty liên doanh giữa Việt Nam và đối tác nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài tối thiểu là chiếm 30% vốn pháp định. Các doanh nghiệp khi tham gia vào lĩnh vực kinh doanh máy bán hàng tự động, một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam, có thể huy động vốn thông qua thu hút các nguồn vốn của nhà đầu tư lớn trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện tại, chúng ta chưa thể phát triển nhanh thị trường máy bán hàng tự động bởi những hạn chế chưa thể khắc phục ngay được. Nhưng với những tiềm năng sẵn có, chúng ta cũng đã có cơ sở để tin rằng đây sẽ là ngành kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận trong tương lai gần. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY VIỆC SỬ DỤNG MÁY BÁN HÀNG TỰ ĐỘNG Sau khi đã nghiên cứu đặc điểm của máy bán hàng tự động, dịch vụ bán hàng tự động và đặc điểm của thi trường này tại Việt Nam, nhóm tác giả xin được trình bầy vài ý kiến nhằm phát triển hệ thống bán hàng tự động tại Việt Nam như sau : Tạo lập thói quen sử dụng máy bán hàng tự động cho người tiêu dùng Máy bán hàng tự động là một loại hình dịch vụ rất mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Vì thế để có thể ứng dụng nó một cách có hiệu quả thì cần thiết phải có một hệ thống chương trình marketing được nghiên cứu cẩn thận, tỉ mỉ. Trước hết, chúng ta cần đánh giá chính xác đối tượng cụ thể nhận thông tin marketing ở đây bao gồm những thành phần nào, mức độ nhận thức của họ đối với loại hình dịch vụ này đang ở giai đoạn nào: nhận biết, hiểu, thiện cảm, ưa chuộng hay là đã có ý định sử dụng dịch vụ và tiến tới hành vi mua… Có thể nhận thấy rằng người Việt Nam vẫn có thói quen mua sắm trực tiếp, muốn được tiếp xúc trực tiếp với người bán hàng, muốn được trả giá, mặc cả để đảm bảo rằng mình đã mua được mặt hàng ưng ý với giá cả phải chăng. Đây là một thói quen đã ăn sâu vào trong tiềm thức của người dân Việt Nam từ hàng ngàn năm nay nên việc thay đổi thói quen đó không hề đơn giản. Thêm vào đó là tâm lý e ngại với những sản phẩm mới, không tin tưởng vào những sản phẩm mới xuất hiện. Như vậy là đối tượng nhận thông tin ở đây vẫn chỉ ở giai đoạn nhận biết và những thông tin về loại hình dịch vụ bán hàng tự động vẫn còn rất mơ hồ, mờ nhạt, nếu như không muốn nói là hầu như chưa có. Vì thế vấn đề cấp thiết đặt ra trước mắt là phải cung cấp thật nhiều thông tin giới thiệu về dịch vụ bán hàng tự động nhằm làm thay đổi dần thói quen tiêu dùng của người dân. Những thông tin này cần phải rộng khắp và được tung ra mạnh mẽ nhằm tạo sự kích thích lớn tới người dân. Chúng ta có thể sử dụng cả hai loại kênh truyền thông cùng một lúc để tăng hiệu quả. Đó là kênh truyền thông trực tiếp và kênh truyền thông gián tiếp. Truyền thông trực tiếp là những kênh trong đó không có sự tiếp xúc cá nhân và không có cơ chế để thu nhận ngay thông tin ngược chiều, bao gồm các phương tiện như báo chí, truyền hình, truyền thanh, hay panô, áp-phích… Chúng ta có thể tung ra những chương trình quảng cáo với tần suất lớn, hình ảnh phong phú, sống động trên vô tuyến, đài phát thanh; thiết kế các panô, áp- phích với màu sắc ấn tượng kích thích thị giác của người nhận tin đặt ở những nơi đông người qua lại. Truyền thông trực tiếp có thể đem lại hiệu quả nhanh chóng và rõ rệt bởi vì mức sống của người dân ngày càng được cải thiện nên khả năng tiếp xúc với thông tin đại chúng ngày càng cao. Bên cạnh truyền thông trực tiếp, truyền thông gián tiếp sẽ hỗ trợ cho truyền thông trực tiếp đưa thông tin đến người tiêu dùng nhanh hơn. Truyền thông dạng này thông qua những người hướng dẫn dư luận, sau đó các ý tưởng này sẽ tới những người ít năng động hơn. Có thể là ta mở những cuộc trưng bày, hội nghị khách hàng giới thiệu dịch vụ cung cấp sản phẩm kiểu mới: bán hàng bằng máy bán hàng tự động, thông qua đó tạo dư luận về dịch vụ nhanh hơn. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng người tiêu dùng thường bị tác động mạnh bởi những lợi ích rõ ràng, có thể cảm nhận trực tiếp. Bởi vậy, chúng ta cũng có thể sử dụng những biện pháp kích thích trực tiếp vào mục tiêu kinh tế của người tiêu dùng. Đặc điểm các mặt hàng được bán bằng máy bán hàng tự động là những mặt hàng giá trị không lớn, chủ yếu là phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày như nước giải khát, giấy vệ sinh, hoa tươi, kẹo cao su,… Đối tượng của những mặt hàng này chủ yếu là tầng lớp thanh niên với túi tiền vừa phải, đồng thời lại là những người ưa thích sự đổi mới, năng động. Vì thế những tác động về kinh tế và những tác động mạnh kích thích sự tò mò có khả năng đem lại hiệu quả cao. Chúng ta có thể giảm giá hàng bán bằng máy bán hàng tự động hoặc có kèm các sản phẩm bổ sung làm quà khuyến mại trong thời gian đầu để kích thích tiêu dùng thông qua dịch vụ tự động. Bên cạnh đó ta có thể tổ chức các tụ điểm bán hàng có nhạc cùng với đội ngũ người giới thiệu trẻ, nhiệt huyết. Biện pháp đó có thể tạo sức hút lớn đối với giới trẻ. Thời gian đầu, máy bán hàng tự động có thể được đặt ở những khu vực công cộng có trình độ dân trí cao như trường học, các công sở để tạo dần thói quen mua sắm tự động hoá, sau đó thói quen đó được mở rộng hơn ở các tầng lớp dân cư khác thì sẽ tiếp tục nhân rộng phạm vi đặt máy. Sau khi các thông điệp cần thiết đã được truyền đi, chúng ta cần phải tiến hành nghiên cứu hiệu quả của nó đối với người tiêu dùng, đặc biệt là với khách hàng mục tiêu. Phải tiến hành điều tra nghiên cứu xem khách hàng mục tiêu có nhận được thông tin đó không, thấy nó bao nhiêu lần và nhớ được những nội dung gì, trạng thái cảm giác của họ khi tiếp nhận những thông tin đó, thái độ của họ đối với dịch vụ bán hàng tự động sau khi nhận được thông tin… Để thu nhận thông tin phản hồi cần phải tổ chức điều tra, nghiên cứu chu đáo, cần phải tạo cơ chế thu nhận thích hợp để bảo đảm cho kênh truyền thông hoàn chỉnh. Thu nhận thông tin phản hồi đầy đủ và chính xác mới có thể đánh giá đúng mức hiệu quả của hoạt động truyền thông vào các mục tiêu đã định và tăng cường hiệu quả của chúng. Một vấn đề khác liên quan đến người tiêu dùng cũng rất cần sự lưu tâm, đó chính là ý thức của người dân đối với các dịch vụ công cộng. Dịch vụ có thể được triển khai tốt đến mấy cũng không thể đạt được hiệu quả cao và lâu dài nếu như vấn đề ý thức của người sử dụng dịch vụ chưa được giải quyết. chúng tôi xin đề xuất giải pháp thực hiện các biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ dịch vụ nơi công cộng . Chúng ta có thể thực hiện biện pháp giáo dục ý thức ngay từ trong nhà trường để tạo thành thói quen, nếp sống đẹp từ nhỏ. Bên cạnh đó là các biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức thông qua phương tiện thông tin đại chúng. Đi đôi với những biện pháp đó, chúng ta cần có những hình thức xử phạt thực sự nghiêm minh đối với những người có hành vi vi phạm, có thể là cảnh cáo cho đến phạt tiền tuỳ theo mức độ nặng nhẹ khác nhau. Đồng thời có hình thức khuyến khích tinh thần bảo vệ của công, có thể bằng các hình thức biểu dương, thưởng đối với những người phát hiện và trực tiếp đưa người vi phạm tới các trụ sở công an, an ninh gần khu vực dịch vụ công cộng. Tạo sự thuận tiện trong thanh toán Tiền xu ra đời với mục đích phục vụ cho tự động hoá cần phải được thúc đẩy việc sử dụng để phát huy vai trò của nó một cách tốt hơn. Cải thiện chất lượng việc cung cấp phương tiện thanh toán là tiền xu sẽ thúc đẩy việc mua sắm thông qua máy bán hàng tự động. Câu hỏi đặt ra là vì sao hiện nay tiền xu vẫn bị đẩy ra khỏi lưu thông. Trên thực tế, người dân Việt Nam vẫn có thói quen sử dụng tiền giấy hơn tiền xu bởi lẽ tiền xu có khối lượng lớn hơn, mệnh giá lại nhỏ hơn, khi mang tiền xu theo người cần phải có túi đựng riêng. Đối với các bà nội trợ thì điều này không gây nhiều trở ngại nhưng với nam giới thì thật là phiền toái khi ngoài ví tiền ra lại phải cầm thêm một túi tiền xu to đùng. Không những vậy, số lượng tiền xu phục vụ cho bán hàng tự động cũng không phải là nhiều nên có thể khách có nhu cầu sử dụng dịch vụ cũng không có đủ phương tiện thanh toán. Đặc biệt là khi mở rộng hệ thống bán hàng tự động, không chỉ cần tăng lượng tiền xu cho người sử dụng mà còn cần phải có những nơi đổi tiền xu bị kém chất lượng do rỉ sét vì thời tiết không được máy chấp nhận lấy đồng tiền còn nguyên chất lượng. Vì vậy chúng tôi xin đề xuất một giải pháp như sau: chủ kinh doanh máy bán hàng tự động có thể trực tiếp đứng ra đổi tiền xu ở ngân hàng, sau đó mở các kios đổi tiền ngay tại các khu vực có đặt các máy bán hàng. Với một khu vực tập trung nhiều máy bán hàng tự động thì việc đặt kios đổi tiền là hoàn toàn có thể vì chi phí tăng thêm không nhiều tính trên đơn vị từng máy. Và như vậy khách hàng không cần thiết phải mang theo người quá nhiều tiền xu và có thể sử dụng dịch vụ mua bán tự động ngay khi có yêu cầu với phương tiện thanh toán được cung cấp đầy đủ. Đề xuất phương án kinh doanh Vấn đề thứ nhất: Lựa chọn công nghệ Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bán hàng tự động, hoạt động của doanh nghiệp là hướng vào mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy trước khi tiến hành kinh doanh, doanh nghiệp phải lựa chọn nguồn cung cấp máy bán hàng tự động. Hiện nay, có hai phương án: thứ nhất là lựa chọn máy nhập khẩu từ nước ngoài và thứ hai là lựa chọn máy sản xuất trong nước Phương án thứ nhất: Nhập khẩu máy từ nước ngoài. Phương án này có ưu điểm là theo kịp được sự phát triển của công nghệ tiên tiến trên thế giới, máy móc đảm bảo chất lượng và độ an toàn cao do các nước sản xuất đã có kinh nghiệm trong nhiều năm thực tế hoạt động kinh doanh dịch vụ bán hàng tự động. Nhược điểm của việc nhập khẩu là giá mua rất cao, tối thiểu là $700 và tối đa có thể lên tới hàng ngàn USD, rất tốn kém. Trong khi đó ta có thể thấy rằng thị trường Việt Nam với giá cả sức lao động phổ thông là rất thấp, chi phí mặt bằng đặt máy lại không phải là thấp (khoảng 25USD/m2/tháng), sức tiêu thụ còn chưa cao, thị trường của dịch vụ bán hàng tự động mới chỉ manh nha, non kém, chưa phát triển thì việc nhập máy bán hàng tự động để phục vụ bán các mặt hàng sinh hoạt trong nước là không khả thi so với bán hàng trực tiếp do doanh thu chưa thể bù đắp chi phí. Về lâu dài khi thị trường đã phát triển, đi vào guồng quay lớn thì việc nhập máy sẽ trở nên cần thiết hơn. Phương án thứ hai: Lựa chọn máy sản xuất trong nước Nếu lựa chọn máy sản xuất trong nước thì có ưu điểm là giá sản phẩm thấp hơn nhiều. Cụ thể như phiên bản đầu tiên của máy bán hàng tự động M2T do nhóm sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội sản xuất và thử nghiệm sử dụng trên thực tế là 15.000.000 VNĐ. Chi phí cho phiên bản 2 là 41.000.000 VNĐ. Chi phí giảm thiểu rất nhiều nhưng cũng phải kể đến những hạn chế như máy mà chúng ta sản xuất do còn thiếu kinh nghiệm nên ít chức năng, công nghệ còn bị hạn chế, độ an toàn và chất lượng máy còn đang trong giai đoạn thủ nghiệm. Tuy nhiên, thị trường bán hàng tự động ở nước ta mới bắt đầu nhập cuộc, các mặt hàng còn đơn giản, chưa đa dạng, phong phú nên nhìn chung với những thành tựu hiện có của máy sản xuất trong nước là có thể chấp nhận được. Trên đây là những phân tích khái quát về ưu nhược điểm của 2 phương thức cung cấp máy bán hàng tự động phục vụ cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bán hàng tự động. Nhưng dù lựa chọn hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTriển vọng phát triển máy bán hàng tự động tại Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan