MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương1: Giới thiệu về thị trường Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam sang Mỹ
1. Giới thiệu khái quát về thị trường Mỹ
1.1. Văn hoá kinh doanh và thị hiếu của người Hoa Kỳ
1.2. Đặc điểm và vài nét khác biệt của thị trường Hoa Kỳ
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Mỹ
Chương2: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ và việc
đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ của các DNVN
1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ
2. Thực trạng đáp ứng yêu cầu thị trường Mỹ của các DNVN
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Mỹ
3.1 Về phía Nhà nước
3.1.1 Về quy chế xuất nhập khẩu
3.1.2 Về công tác thị trường ngoài nước
3.1.3 Về các thủ tục hành chính và hải quan
3.1.4 Về hỗ trợ của chính phủ và các chính sách thuế, tín dụng
3.2 Về phía doanh nghiệp
Lời kết
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1828 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hương mại thế giới và khẳng định tích cực ủng hộ Việt nam tham gia tổ chức này”.
Trên cơ sở các nguyên tắc của tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong khi đàm phán , hai bên đã thống nhất với nhau 5 nguyên tắc:
*Bình đẳng cùng có lợi.
*Không phân biệt đối xử, dành cho nhau quy chế Tối huệ quốc.
*Tuân thủ pháp luật và thông lệ quốc tế.
*Tính đến điều kiện của Việt nam là nước đang phát triển, có thu nhập thấp và đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường Việt nam cần có thời kỳ chuyển đổi để điều chỉnh luật lệ, chính sách của mình cho phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
*Quan hệ hai nước sẽ xây dựng tương tự như Mỹ đã xây dựng với các nước khác, Mỹ đòi hỏi Việt nam không hơn những điều Mỹ đòi hỏi các nước khác.
Trong điều kiện hiệp định được phê chuẩn, hàng hoá Việt nam sẽ được cạnh tranh lành mạnh với hàng hoá của các nước khác và hàng hoá của Hoa kỳ trên một sân chơi công bằng. Bởi khi được hưởng quy chế ưu đãi Tối huệ quốc thì mức thuế bình quân hàng xuất khẩu của Việt nam sẽ giảm từ 40-50% còn khoảng 3%. Nhờ vậy, theo ước tính của ngân hàng thế giới, xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ năm đầu tiên sau khi phê chuẩn hiệp định có thể tăng lên khoảng 1,3 tỷ USD tức là gần gấp đôi so với mức của năm 2000, đạt 3 tỷ USD vào năm 2005 và 8 tỷ USD năm 2010
Rõ ràng là hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ mở ra cơ hội làm ăn, hợp tác mới cho các nhà đầu tư Mỹ tại Việt nam. Đồng thời cũng có tác động tích cực trong khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt nam vì họ coi Việt nam là cầu nối để từ đó hàng hoá của họ xuất khẩu vào thị trường Hoa kỳ với mức thuế thấp. Với điều này, hàng hoá được sản xuất ở Việt nam sẽ tăng cả về số lượng và chất lượng , cơ hội nâng cao tổng kim ngạch hàng xuất sang Mỹ cũng vì thế mà tăng lên.
Chúng ta biết rằng, với mô hình “đàn sếu bay” Mỹ chú trọng vào phát triển khu vực kinh tế mới ( nền kinh tế điện tử ) họ sẽ nhường những ngành sản xuất hàng hoá thông thường cho các nước khác với hình thức chủ yếu là đầu tư trực tiếp sau đó nhập khẩu lại thị trường Mỹ những mặt hàng có lao động rẻ: dệt may, giày dép, thiết bị máy móc cơ bản ( mô tơ, động cơ máy tiện ), TV, đầu máy video…Mà Việt nam với lợi thế về tài nguyên, lao động dồi dào nếu được đầu tư hợp lý sẽ có tiềm lực rất lớn ở những mặt hàng này.
Sau khi chúng ta có được quy chế thương mại bình thường thì hai ngành có triển vọng nhất là dệt may và giày dép. Nhưng ngành dệt may sẽ bị hạn chế bằng hạn ngạch, còn giày dép được tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, với sản phẩm dệt may ta đã có khá nhiều kinh nghiệm tiếp cận thị trường EU và Nhật bản nên việc vào thị trường Mỹ sẽ không mâý khó khăn. Hơn nữa, ngay tại thị trường Mỹ người ta cũng đang tìm nguồn cung cấp những sản phẩm này ở Việt nam vì có lao động rẻ. Ngành dệt may Việt nam đã đề ra chiến lược phát triển tăng tốc đầy tham vọng với mục tiêu đến năm 2005 đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt khoảng 1-1,5 tỷ USD.
Còn mặt hàng giày dép, tuy mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ, song trên cơ sở phát huy tối đa những lợi thế sẵn có cộng thêm thế suất sẽ giảm xuống còn 10% nên việc hy vọng gia tăng thị phần cho mặt hàng này ở thị trường Mỹ không phải là điều quá xa vời.
Thuỷ sản, cà phê cũng là những mặt hàng Việt nam có thế mạnh.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi để nuôi trồng thuỷ sản (bờ biển dài, vùng biển có năng lực tái sinh học cao, tương đối sạch và nhiều cửa sông, lạch…), thuỷ sản lại là một trong những mặt hàng được Mỹ khuyến khích nhập khẩu (thuế suất 0%) và nhập khẩu lớn. Cho nên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ sẽ có những bước tiến mạnh mẽ nếu được quy hoạch và đầu tư hợp lý.
Cà phê, với lợi thế được miễn thuế nhập khẩu vào Mỹ lại chiếm được sự ưa chuộng của người tiêu dùng ở thị trường này nên kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua đã tăng mạnh. Với việc chú ý hơn đến chất lượng hàng xuất khẩu (giảm tỷ lệ hạt vỡ, đen…) kim ngạch xuất khẩu cà phê sẽ còn tăng hơn nữa.
Việc phê chuẩn hiệp định thương mại cũng giúp Việt nam tiến gần hơn đến việc được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập chung (GSP) của Hoa kỳ áp dụng mức thuế suất bằng 0 cho 4284 mặt hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển .
Tuy nhiên, cần phải khẳng định một điều là không phải mọi mặt hàng xuất khẩu đều có khả năng tăng nhiều là nhờ vào việc chuyển sang mức thuế mới. Đơn cử các mặt hàng nông sản như cà phê nhân , tiêu và dầu thô…đã được hưởng mức thuế suất rất thấp gần 0% kể từ năm 94 khi Hoa kỳ bỏ cấm vận với Việt nam. Triển vọng tăng kim ngạch xuất khẩu là do tự bản thân hàng hoá có sức cạnh tranh nếu được sự quan tâm, đầu tư, quy hoạch hợp lý.
Chương II
Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang Mỹ và việc đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ của các DNVN
1. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang thị trường Mỹ.
Từ khi chính phủ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam đến nay, mặc dù chưa được hưởng quy chế MFN trong quan hệ thương mại với Mỹ, nhưng hoạt động thương mại giữa Mỹ và Việt nam vẫn phát triển liên tục cán cân thương mại của Việt nam và Mỹ từ thâm hụt đã chuyển sang tình trạng thặng dư trong những năm gần đây: Bảng 1: Thương mại Việt nam –Hoa kỳ 1994-2000.
Đơn vị : Triệu USD.
Năm
XKVn sang Mỹ
NKVn từ Mỹ
Tổng KN buôn bán
Cán cân TM
1994
50.45
172.22
222.67
-121.77
1995
198.97
252.86
451.83
-53.89
1996
319.04
616.05
935.09
-297.01
1997
388.19
277.79
665.98
+110.40
1998
553.441
274.22
827.63
+279.19
1999
601.90
277.30
879.20
+324.60
2000
732
Nguồn: Tạp chí Tài chính quốc tế –12/2000- trang 47.
Bảng 1 cho thấy kim ngạch mậu dịch Việt nam-Hoa kỳ năm 1994 đã đạt trên 222 triệu USD (so với 62 triệu USD năm 93-tăng hơn 3 lần ). Con số này năm 1995 đã lên tới 450 triệu USD (gấp 2 lần so với năm trước ). Năm 1996 tổng kim ngạch đã đạt gần 1 tỷ USD, một con số đáng khích lệ. Căn cứ vào bảng số liệu trên ta có thể thấy, từ năm1996 trở về trước,Việt nam luôn nhập siêu từ Hoa kỳ, nhưng từ những năm sau Việt nam lại luôn xuất siêu sang Hoa kỳ. Năn 1997 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tại Châu á, Việt nam phải giảm bớt các khoản nhập khẩu của mình, do vậy kim ngạch buôn bán có phần giảm sút, chỉ còn 665 triệu USD. Sang năm 1998 và 1999 cùng với sự hồi phục của các nền kinh tế ở Châu á, kim ngạch đã có dấu hiệu gia tăng nhưng vẫn dừng ở những con số đáng khiêm tốn: 827 triệu USD và 879 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu lần lượt là 553 triệu USD và 602 triệu USD, lớn hơn con số nhập khẩu rất nhiều. Sang đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt nam đạt 732 triệu USD. Riêng 6 tháng đầu năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ đạt 400 triệu USD. Đây là một sự tăng trưởng khá nhanh và đáng khích lệ. Tuy nhiên nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào Mỹ với kim ngạch xuất khẩu của một số nước Châu á khác với Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước Việt –Mỹ là quá nhỏ so với tiềm năng. Chẳng hạn, trong năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của Băng-la-đét sang Mỹ là 2.4 tỷ USD, Philipin là 13.9 tỷ USD , Thái lan là 6.4 tỷ USD…
Với hiệp định thương mại song phương Việt –Mỹ các chuyên gia kinh tế Việt nam dự định rằng năm 2001, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam –Hoa kỳ có khả năng đạt tới 2 tỷ USD, tăng 2 lần so với năm 1999, trong đó Việt nam xuất khẩu khoảng 1.2 tỷ USD và nhập khẩu khoảng 0.8 tỷ USD. Nhưng trong tình hình hiện nay, mục tiêu trên là rất khó nếu không muốn nói là không thể đạt được (ít nhất là cho đến hết năm nay).
Qua xem xét có thể nhận thấy rằng, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua bao gồm: hải sản, dầu thô, cà phê, dệt may, gạo, hoa quả…Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đang có sự thay đổi. Trong những năm đầu xuất khẩu, các mặt hàng nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản chiếm tới hơn 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng giầy dép, dệt may và khoáng sản có bước chuyển biến tích cực, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước .
Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt nam sang Hoa kỳ
Đơn vị:Triệu USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Mặt hàng
Kim ngạch
Tỷ trọng (%)
Kim ngạch
Tỷ trọng (%)
Kim ngạch
Tỷ trọng (%)
Kim ngạch
Tỷ trọng (%)
Kim ngạch
Tỷ trọng (%)
Thuỷ sản
33.86
16.6
42.5
14.8
81.55
17.4
125.59
24.9
304.36
41.6
Dầu thô
80.6
39.5
34.6
12.1
79.22
16.9
99.60
19.8
91.37
12.5
Cà phê
109.48
53.6
90
24.2
125.13
24.1
59.21
9.8
69.93
9.5
Dệt may
19.74
9.7
20
7.0
26.34
5.6
34.70
6.9
49.57
6.8
Gạo
5.82
2.9
63.5
17.1
39.03
7.5
4.95
1.0
10.66
1.5
Rau quả
7.6
3.7
11.6
4.0
2.6
0.6
3.20
0.6
5.0
0.7
Tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ
204.2
100
286.7
100
468.6
100
504.0
100
732.4
100
Nguồn: Bộ thương mại – Trích từ bài: “xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang Hoa kỳ” Ths Ngô Thị Tuyết Mai- Khoa KT & KDQT.
Hiện nay, hải sản là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang Mỹ, tăng liên tục trong các năm vừa qua.Từ 33.86 triệu USD ( chiếm 16.6% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ ) năm 1997 đã tăng lên đến 304.36 triệu USD ( chiếm 41.6% kim ngạch xuất khẩu ). Đây là một mức tăng kỷ lục, đưa thị trường Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam lớn thứ hai sau Nhật bản. Dự kiến năm 2005, thị trường Hoa kỳ có thể tiêu thụ tới 20% tổng giá trị thuỷ hải sản xuất khẩu của Việt nam . Tuy nhiên con số đó vẫn còn quá nhỏ bé so với tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ và chưa tương xứng với khả năng của Việt nam .
Sau hải sản là dầu thô, đứng vị trí thứ hai sau cà phê trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt nam sang Hoa kỳ. Sau thời kỳ 97-98 do giá dầu trên thế giới giảm mạnh nên xuất khẩu dầu thô sang Hoa kỳ giảm cả về giá trị và tỷ lệ. Hai năm trở lại đây giá trị xuất khẩu dầu thô của Việt nam đã đạt tới 91.37 triệu USD - chiếm 12.5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Hoa kỳ (so với thời kỳ 97-98 là 12.1%- 16.9%).
Giầy dép, cà phê, dệt may, hạt điều, gạo…cũng là các mặt hàng bước đầu được thị trường Mỹ chấp nhận. Hoa kỳ hiện là thị trường nhập khẩu cà phê hạt lớn nhất của Việt nam. Chiếm trên 25% tổng số xuất khẩu cà phê của Việt nam.
2. Thực trạng đáp ứng yêu cầu thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam
Mặc dù trong những năm trở lại đây kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt nam sang Mỹ đã có sự gia tăng đáng kể cả về số lượng và giá trị xuất khẩu, các doanh nghiệp đã có những bước tiếp cận thị trường hợp lý hơn, chất lượng, mẫu mã sản phẩm được cải tiến thường xuyên hơn. Song rõ ràng là kết quả đạt được còn quá nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai bên, đặc biệt là vào một thị trường lớn và đầy tiềm năng như Mỹ. Vậy đâu là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp Việt nam không phát huy được tối đa năng lực của mình?
Đầu tiên, phải kể đến là sự chênh lệch rất lớn ở trình độ phát triển kinh tế của hai nước, lại có những điểm rất khác nhau về thể chế chính trị- xã hội, về quan điểm, tập quán, sở thích, thị hiếu người tiêu dùng…chính những nhân tố này không được tính đến đầy đủ sẽ gây khó khăn trong khi giải quyết các mối liên hệ trong quá trình làm ăn với Mỹ.
Mỹ là một đối tác quá lớn, quá hùng mạnh, vận hành theo cơ chế thị trường từ khi lập quốc. Nước Mỹ có 50 tiểu bang, ngoài luật của liên bang, mỗi tiểu bang đều có luật của mình…Hệ thống luật của Mỹ rất phức tạp, do đó hầu hết các doanh nghiệp khi muốn kinh doanh trên thị trường Mỹ đều phải thuê luật sư, mà chi phí luật sư lại rất đắt, nên thông thường là nhờ tư vấn.
Trong khi đó, Việt nam mới chuyển sang kinh tế thị trường trong một thời gian ngắn. Cơ chế thị trường còn sơ khai, chưa phát triển, hệ thống chính sách chưa đồng bộ, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, sự am hiểu về kinh tế thị trường của bộ máy quản lý và doanh nghiệp còn hạn chế.
Thêm vào đó, Mỹ lại là một quốc gia phát triển mạnh nhất về công nghệ thông tin, do đó khi tham gia vào thị trường Mỹ các doanh nghiệp Việt nam phải làm việc với những đối tác có thể hiểu rõ về mình nhờ thông tin từ nhiều nguồn, nhất là trên mạng. Trong khi đó, việc không nắm bắt được những thông tin về thị trường, về luật lệ, cung cách kinh doanh của người Mỹ vẫn là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp Việt nam. Chính những điều này chẳng những có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh mà đôi khi còn bị thiệt thòi bởi những lý do không đáng có.
Thứ hai, phải nhìn nhận rằng, tính cạnh tranh về giá cả và chất lượng của hàng xuất khẩu Việt nam còn thấp, cộng thêm thời gian vận chuyển hàng hoá sang Mỹ dài ngày (thường là xuất khẩu gián tiếp qua nước thứ ba) chi phí lớn sẽ làm giảm thêm khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
Hàng hoá Việt nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện nay chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, mà Mỹ lại đòi hỏi chất lượng cao và rất khắt khe với đối với các mặt hàng này.
Bên cạnh đó, trình độ công nghệ lạc hậu, chuyên môn người lao động chưa cao cộng thêm mẫu mã, kiểu dáng đơn điệu ít được chú trọng cải tiến thực sự nên chưa đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của số đông người dân Mỹ.
Tất cả những điều này làm cho sản phẩm của chúng ta còn kém về chất lượng, xấu về hình thức, khó lòng cạnh tranh với biết bao bạn hàng mậu dịch của Mỹ từ các nước Nam mỹ, Trung quốc; từ các nước công nghiệp mới (NIC); các nước Asean…
Thứ ba, điều này thuộc về một trong những nét khác biệt của thị trường Mỹ là quy mô đơn hàng của họ thường rất lớn. Các nhà phân phối của Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu. Nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ mà theo các kênh đi khắp thế giới. Đơn hàng của họ thường lớn, nên nhiều doanh nghiệp Việt nam sang Mỹ tìm hiểu thị trường không ký được hợp đồng do không đáp ứng được yêu cầu này. Thí dụ, khi đối tác Mỹ đặt hàng 2 triệu sơ mi tơ tằm, một doanh nghiệp Việt nam đành lắc đầu và than thở với thương vụ rằng: một năm chúng tôi làm hết sức chỉ được 500 ngàn chiếc.
Thứ tư, phương thức giao dịch kinh doanh trên thị trường Mỹ rất đa dạng, hiện đại. Việc bán hàng trên Internet đã được sử dụng. Công ty không có cửa hàng, siêu thị, mà chỉ có một kho chứa hàng và một Website. Khách hàng muốn mua hoặc giao dịch gì cứ vào Website rồi gọi đến công ty, sẽ có người đem hàng ở kho đến giao tận nhà. Hiện nay rất nhiều cửa hàng, siêu thị của Mỹ chuyển đổi sang hình thức kinh doanh này kết hợp với hình thức bán hàng ở cửa hàng truyền thống.
Các doanh nghiệp Việt nam, có lẽ phải mất một thời gian dài nữa mới có thể tham gia vào cách bán hàng kiểu mới này. Nhưng ngay từ bây giờ phải nhận thức được xu thế để chuẩn bị sẵn sàng hoà nhập nếu không muốn bỏ lỡ nhiều hơn nữa những cơ hội kinh doanh hấp dẫn.
Thứ năm, tư vấn là tập quán của các công ty Mỹ và thị trường Mỹ khi vào Việt nam làm ăn, họ cũng sử dụng các công ty tư vấn ở Việt nam giúp họ mua hàng hoá, chỉ định nhà sản xuất hàng hoá theo yêu cầu, tiếp cận nguồn nguyên vật liệu hoặc cách thành lập một doanh nghiệp ở Việt nam. Ngược lại, các doanh nghiệp Việt nam sang Mỹ chào hàng nếu muốn chắc ăn cũng cần sử dụng tư vấn. Hiện nay có rất nhiều công ty tư vấn đến hỏi thương vụ: Anh có muốn tiếp cận thị trường chè/ thị trường may mặc không? Bỏ tiền ra tôi làm cho.
Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp Việt nam rất ít có cơ hội sử dụng những dịch vụ tư vấn này, chủ yếu là do tiềm lực tài chính nhỏ bé. Vì vậy thường là “ mò” hoặc thụ động chờ các nhà nhập khẩu, phân phối đến đặt hàng. Họ rất ít có cơ hội tiếp cận được với những nhà nhập khẩu, phân phối trực tiếp. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc giá cả của hàng hoá bị đội lên cao và mẫu mã không linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thị trường nhập khẩu.
Thứ sáu, các doanh nghiệp Việt nam không nắm rõ hệ thống các nhà nhập khẩu, phân phối chính thức đối với một số các mặt hàng lớn, có thế mạnh xuất khẩu như dệt may, da giầy, hàng nông sản (cà phê, điều, lạc, gạo…), các mặt hàng thuỷ hải sản …Không (hoặc rất ít) nhận được những thông tin có tính chất hệ thống về một chủng loại mặt hàng cụ thể. Từ đó mà không có được phương thức thâm nhập, tiếp cận tìm hiểu thị trường hợp lý.
Có thể kể ra một số nhữnh nhà nhập khẩu, phân phối chính ở Mỹ đối với nhóm mặt hàng nêu trên như sau: Các mặt hàng giầy dép, quần áo phần lớn do các siêu thị như Kamart, Wal-mart nhập khẩu hoặc các công ty xuyên quốc gia chuyên kinh doanh như Rebock, Nike. Cà phê, điều, tiêu, hải sản…ở Mỹ có nhu cầu rất lớn và họ cũng mua trực tiếp của Việt nam (riêng niên vụ cà phê 1999-2000, Mỹ trở thành khách hàng lớn nhất của Việt nam, nhập khẩu 119 ngàn tấn, chiếm 20.08% tổng lượng cà phê xuất khẩu của Việt nam ). Mua hàng nông sản là công ty Cargill có hệ thống phân phối toàn cầu (doanh thu hàng năm khoảng 80 tỷ USD).
Thứ bẩy, một điều rất quan trọng là muốn gia nhập thị trường Mỹ thì các doanh nghiệp Việt nam phải biết đối thủ cạnh tranh với họ là ai?. Phải bỏ đi quan niệm cho rằng chỉ có doanh nghiệp lớn mới mới có thể thành công trên thương trường Mỹ.
Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải nhìn thị trường theo hướng lâu dài để có chiến lược thích hợp chứ không nên kỳ vọng hễ hiệp định thương mại được Quốc hội hai nước phê chuẩn thì hàng hoá Việt nam có thể bán chạy ở Mỹ.
Mặc dù triển vọng mở ra là rất lớn (như đã nêu ở phần 2-chương 1), tuy nhiên kể cả đối vối những mặt hàng xuất khẩu chiến lược, những khó khăn còn tồn tại cũng không phải là ít, có thể kể ra như sau:
Mặt hàng nông sản, hải sản chiếm khoảng 50% giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ, trong khi đó hiện nay các mặt hàng như cà phê, hạt điều, hải sản cũng đã được hưởng thuế suất ưu đãi là 0% khi nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Do vậy việc ký hiệp định thương mại song phương vừa qua giữa hai nước cũng không có ảnh hưởng gì lớn đến sức cạnh tranh của các mặt hàng này ở thị trường Mỹ. Điều cần chú ý và quan tâm ở đây không phải là vấn đề về thuế quan mà là vấn đề chất lượng và tiêu chuẩn hàng hoá của các doanh nghiệp Việt nam có đáp ứng và phù hợp với các yêu cầu của thị trường Mỹ hay không.
Đối với mặt hàng gạo: sau khi hiệp định thương mại Việt nam- Hoa kỳ có hiệu lực thì thuế nhập khẩu gạo từ Việt nam vào Hoa kỳ sẽ được giảm mạnh từ 5.5 cent/kg xuống còn 1.8 cent/kg, nhưng cơ hội xuất khẩu gạo của Việt nam vào thị trường Mỹ sẽ rất ít bởi vì trên thực tế Mỹ cũng đã từng là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.
Khi Việt nam được hưởng quy chế thương mại bình thường của Mỹ thì các mặt hàng như giầy dép và dệt may tuy sẽ có nhiều thuận lợi nhất khi xuất khẩu sang Mỹ vì mức thuế nhập khẩu của các mặt hàng này vào thị trường Mỹ sẽ được giảm khoảng 10% đến 25%. Tuy nhiên, khó khăn đặt ra cũng sẽ không ít bởi vì mặt hàng này cũng là thế mạnh của một số nước trong khu vực Châu á như Trung quốc, Thái lan . Vì vậy việc tăng sức cạnh tranh để nâng cao thị phần của hàng Việt nam trên thị trường Mỹ không phải là việc dễ làm.
Xác định rõ như vậy để tránh trường hợp một số doanh nghiệp quá trông chờ, ỷ lại vào hiệp định, không tự vận động tìm cơ hội cho mình.
Thêm vào đó, giữa lúc có vẻ như nhiều cửa ngõ đã thông thoáng, rộng mở cho hàng Việt nam thì bất nhờ ngày 11/9 hàng loạt các vị trí biểu tượng cho sức mạnh quân sự và kinh tế Mỹ bị tấn công làm cho thị trường Mỹ và thế giới chao đảo.
ảnh hưởng của cuộc tấn công này đã lan toả đến Việt nam. Nếu trước kia suy thoái kinh tế Mỹ chỉ đụng đến sản phẩm kỹ thuật cao và tư liệu sản xuất chứ chưa đụng chạm đến sự tiêu pha của người dân Mỹ nên chưa ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt nam thì vụ tấn công hôm 11/9 vừa qua đã buộc người dân phải dè sẻn chi tiêu để đối phó lại với những tình huống xấu mà không ai dám đảm bảo là sẽ không xảy ra, trong khi hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là hàng tiêu dùng.
Đồng USD suy yếu sẽ giảm sức hấp dẫn với hàng xuất khẩu Việt nam sang Mỹ.
Mặt khác, hàng Việt nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu qua hai con đường là hàng không và hàng hải. Tất cả những loại thực phẩm tươi sống như tôm, cá, đùi ếch, rau quả tươi…đều được vận chuyển bằng đường không. Để nâng cao năng lực vận chuyển, ngày 18/7/2001 Vietnam Airlines và American Airlines đã ký một hợp đồng liên doanh bay và chuyển giao công nghệ. Nhưng như chúng ta đã biết vụ tấn công hôm 11/9 có hai chiếc máy bay: một đâm vào toà nhà phía Bắc của trung tâm thương mại thế giới, một đâm vào Lầu năm góc đều của American Airlines. Sự cố này làm American Airlines thiệt hại hàng tỷ USD , hãng đã phải cắt giảm 20% chuyến bay và sa thải hàng ngàn nhân công. Chắc chắn liên doanh bay mà hai bên vừa ký hai tháng trước đây chịu ảnh hưởng rất nặng nề.
Vì vậy, giờ đây cánh cửa vào thị trường Mỹ trở nên khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp. Thực tế ôngWalter Block –Phó chủ tịch phòng thương mại Mỹ tại TP.Hồ Chí Minh (Amcham) cho biết việc vận chuyển hàng sang Mỹ sẽ chậm trễ hơn, thậm chí đơn đặt hàng có thể bị hoãn hoặc huỷ bỏ.
Theo dự đoán thì phần lớn các doanh nghiệp Việt nam đang xuất khẩu nông sản, thuỷ sản, dệt may, giầy dép đang bị đe dọa bởi sức mua của người tiêu dùng Mỹ giảm sút ít nhất cho đến hết năm 2001.
Trên đây là một số nét lớn trong quá trình đáp ứng nhu cầu thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt nam cũng như một số vấn đề nổi cộm khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ. Cộng thêm một vài lưu ý trong văn hoá kinh doanh và thị hiếu tiêu dùng của người Hoa kỳ đã nêu ở phần chương 1 sẽ phần nào giúp các doanh nghiệp Việt nam có cái nhìn tổng thể đúng đắn hơn, rút kinh nghiệm được những sai lầm, thiếu sót để tiếp cận thị trường Mỹ có hiệu quả hơn. Đồng thời việc nhận thức một cách đúng đắn tình hình, xu thế mới sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc đưa ra các mục tiêu chiến lược trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
3. Một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hoá Việt nam sang Mỹ
Mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn lớn song Mỹ vẫn được coi là thị trường hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp Việt nam. Họ tin tưởng rằng với sức mạnh cả về kinh tế và chính trị tình hình nước Mỹ sẽ được cải thiện sáng sủa hơn trong một thời gian không xa. Khi đó cơ hội kinh doanh mở ra là rất lớn và dĩ nhiên là lợi nhuận dự kiến thu được cũng không phải là nhỏ. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để thâm nhập vào thị trường Mỹ một cách có hiệu quả, tránh được rủi ro và gây được uy tín ngay từ những ngày đầu là câu hỏi mà trả lời nó không phải dễ dàng, liên quan đến cả hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp
3.1.Về phía Nhà nước.
3.1.1. Về quy chế xuất nhập khẩu: Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.Theo cơ chế mới thì tất cả các thương nhân đã đăng ký hoạt động, mua bán hàng hoá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ được phép nhập khẩu mọi loại hàng hoá, trừ những mặt hàng mà nhà nước cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, cấm kinh doanh.
3.1.2. Về công tác thị trường ngoài nước sẽ tập trung thực hiện những việc chủ yếu sau:
Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt nam vào thị trường nước ngoài, tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu.
Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xăy dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường, cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập công ty pháp nhân nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt nam, khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài nhập khẩu hàng Việt nam.
Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, quảng cáo, tham gia triển lãm, hội trợ…đối với từng mặt hàng, từng thị trường .
Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm công tác thị trường ngoài nước. Gắn công tác của Viện nghiên cứu thương mại (BTM) với hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu. Có chính sách và biện pháp để các doanh nghiệp đặt hàng cho Viện các đề tài nghiên cứu về thị trường và mặt hàng xuất khẩu.
Cùng với việc củng cố các cơ quan thương vụ Việt nam hiện có ở nước ngoài, mở thêm một số cơ quan ở các địa bàn mới…
Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để Cục xúc tiến thương mại (BMT) phát huy vai trò hỗ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại.
Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại.
Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài kể cả việc tháp tùng các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, để thâm nhập thị trường phát triển kinh doanh xuất khẩu.
Phối hợp và hỗ trợ các nghành, địa phương và doanh nghiệp xây dựng chiến lược Marketing cho từng nghành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội trợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa BTM và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng về các vấn đề có liên quan đến xuất nhập khẩu.
Bước đầu xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử, tổ chức đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này.
Khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường quan hệ với các cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại và các doanh nghiệp, đẩy mạnh tuyên truyền đối ngoại phục vụ mục tiêu tăng trưởng x
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61100.doc