Đề tài Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản, ý nghĩa thực tiễn rút ra

Phương pháp rút ngắn thời gian lưu thông có thể thực hiện bằng cách cải tiến chất lượng hàng hoá, cải tiến mặt hàng cải tiến mạng lưới và phương pháp thương nghiệp, đặc biệt là phát triển ngành giao thông vận tải,. Song việc rút ngắn thời gian lưu thông của tư bản lại gặp rất nhiều trở ngại. Sản xuất càng phát triển, phạm vi thị trường cần mở rộng thì càng làm tăng thêm tính chất cạnh tranh vô Chính phủ trong xã hội tư bản khiến hàng hoá lưu thông hỗn loạn, có nhiều hiện tượng bất hợp lý, lãng phí do đầu cơ mù quáng và quảng cáo phô trương, hình thức gây ra. Mặt khác, đông đảo quần chúng lao động bị bóc lột thậm tệ, thu nhập ngày càng giảm nên sức mua ngày càng giảm sút.

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trình bày lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản, ý nghĩa thực tiễn rút ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư bản”. Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi nhà tư bản ứng tư bản ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ấy có kèm theo giá trị thặng dư. Chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn tư bản xét trong một quá trình định kỳ nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng là tổng số thời gian lưu thông và thời gian sản xuất. a. Thời gian sản xuất của tư bản. Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất lại bao gồm: - Thời gian lao động, tức là thời gian mà người lao động sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian duy nhất tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản. - Thời gian gián đoạn lao động, là thời gian để đối tượng lao động hoặc bán thành phẩm chịu tác động của tự nhiên mà không cần lao động của con người góp sức. Đó là những trường hợp của thóc giống đã gieo, rượu để cho lên men, gỗ, gạch để phơi khô,... chẳng hạn. - Thời gian dự trữ sản xuất, tức là thời gian mà tư bản sản xuất đã sẵn sàng làm điều kiện cho quá trình sản xuất, nhưng chưa phải là yếu tố hình thành sản phẩm, cũng chưa phải là yếu tố hình thành giá trị. Bộ phận tư bản này là ở hàng hoá, nhưng tình trạng này là điều kiện để tiến hành không ngừng quá trình sản xuất. - Thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất là thời gian không hề tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Do đó, rút ngắn các thời gian này cũng giảm bớt sự chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời gian lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. - Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của nhiều nhân tố, chủ yếu là bốn nhân tố sau đây: + Tính chất của ngành sản xuất: ví dụ như: thời gian sản xuất trong ngành công nghiệp đóng tàu dài hơn thời gian sản xuất trong ngành công nghiệp nhẹ như dệt, thực phẩm,... + Năng suất lao động cao hay thấp. + Vật sản xuất chịu nhiều tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn. + Dự trữ sản xuất nhiều hay ít. b. Thời gian lưu thông của tư bản. Nó là khoảng thời gian mà tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng tư bản sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hoá và cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông dài hay ngắn khiến cho quá trình sản xuất lặp đi lặp lại nhanh hay chậm, khiến cho khối lượng một tư bản nhất định làm chức năng tư bản sản xuất được tăng thêm hay bị rút bớt đi, do đó mà năng xuất của tư bản, tức là việc tư bản đẻ ra giá trị thặng dư lớn lên hay giảm đi. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán, trong đó thời gian bán là quan trọng và khó khăn hơn, thời gian lưu thông dài hay ngắn chủ yếu là do ba nhân tố sau: + Tình hình thị trường tốt hay xấu. + Khoảng cách thị trường xa hay gần. + Phương tiện giao thông khó khăn hay thuận lợi. Do chịu ảnh hưởng của hàng loạt nhân tố nên độ dài của thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của các tư bản không thể giống nhau. Do đó, thời gian chu chuyển của các tư bản trong các ngành khác nhau và cả những tư bản trong một ngành cũng rất khác nhau. Thời gian chu chuyển của các tư bản dài ngắn khác nhau như vậy nên muốn tính toán và so sánh với nhau được thì phải có một đơn vị đo lường thống nhất. Đơn vị đó là năm. Dùng năm làm đơn vị đo lường tốc độ chu chuyển của tư bản có nghĩa là muốn xác định tư bản đã quay được mấy vòng trong một năm. Với n là số lần chu chuyển; CH là năm đơn vị đo lường, và ch là thời gian chu chuyển một vòng của tư bản thì sẽ có công thức tính số vòng của chu chuyển tư bản là: n = 2. Tư bản cố định và tư bản lưu động. Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm toàn bộ thời gian chu chuyển của các bộ phận tư bản phải ứng ra để tiến hành sản xuất. Nhưng phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản không giống nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau, người ta chia các bộ phận tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư bản cố định là bộ phận tư bản tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó thì chuyển từng phần sang sản phẩm. Được xếp vào tư bản cố định, trước hết là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động (máy móc, thiết bị, nhà xưởng,...) đang được sử dụng trong quá trình sản xuất. Hình thái giá trị sử dụng của bộ phận tư bản này luôn luôn được duy trì, tồn tại như lúc nó mới gia nhập vào quá trình lao động. Chức năng tư liệu lao động trong quá trình sản xuất giữ chúng lại đó, và do đó bộ phận giá trị tư bản ứng ra được cố định lại dưới hình thái ấy. Bộ phận tư bản này lưu thông không phải dưới hình thái giá trị sử dụng của nó, chỉ có giá trị của nó lưu thông thôi và lưu thông dần dần từng phần một theo nhịp độ mà giá trị đó được chuyển vào sản phẩm. Phần giá trị cố định như vậy không ngừng giảm cho đến khi tư liệu lao động trở thành vô dụng. Tư liệu lao động càng bền bao nhiêu càng chậm hao mòn bao nhiêu thì giá trị tư bản bất biến sẽ được cố định dưới hình thái sử dụng ấy trong một thời gian càng lâu bấy nhiêu. Xếp vào tư bản cố định còn có bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái các tư liệu sản xuất mà xét về mặt giá trị, do đó về phương thức lưu thông giá trị cũng như tư liệu lao động nói trên. Ví dụ trường hợp những chất dùng để cải tạo chất đất, những chất này đem vào trong đất những nguyên tố hoá học và tác dụng kéo dài trong nhiều thời kỳ sản xuất, trường hợp này không phải chỉ có một bộ phận giá trị của tư bản cố định được chuyển vào sản phẩm mà cả giá trị sử dụng của bộ phận giá trị ấy cũng được chuyển vào sản phẩm. Tư bản lưu động là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến dưới hình thái nguyên liệu, vật liệu phụ, nhiên liệu,... tiêu dùng trong quá trình lao động. Bộ phận tư bản khả biến, xét về phương thức chu chuyển cũng giống như bộ phận tư bản bất biến lưu động nói trên, nên cũng được sắp xếp vào tư bản lưu động. Sự phân chia tư bản thành bộ phận cố định và bộ phận lưu động là đặc điểm riêng của tư bản sản xuất. Chỉ có tư bản sản xuất mới có sự phân chia này, và căn cứ của sự phân chia là phương thức chu chuyển của tư bản. Do đó có những tư liệu sản xuất khi được coi là tư bản cố định, khi được coi là tư bản lưu động tuỳ theo chức năng của nó trong quá trình sản xuất. Ví dụ như: trâu bò cầy kéo là tư bản cố định nhưng trâu bò thịt lại là tư bản lưu động trong quá trình sản xuất, tư bản cố định bị hao mòn dần dần từ một chiếc máy mới nguyên vẹn, nó bị hao mòn dần và cuối cùng chỉ là đống sắt vụn, đó là hao mòn về mặt giá trị sử dụng. Đồng thời với sự hao mòn vật chất, giá trị của nó cũng giảm dần do đã chuyển từng phần một sang sản phẩm. Đó là hao mòn về mặt giá trị. Những sự hao mòn đó được gọi là hao mòn hữu hình, những hao mòn này là do sử dụng vào sản xuất, do sức phá hoại của thiên nhiên gây nên. Ví dụ như: máy móc bị gỉ,... Ngoài hao mòn hữu hình, tư bản cố định còn bị hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình là những sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị, trong khi giá trị sử dụng mới hao mòn một phần hoặc còn nguyên vẹn. Hao mòn vô hình xảy ra do các nguyên nhân sau: - Do năng suất lao động tăng lên, do đó làm giảm giá trị của những chiếc máy cũ, tuy giá trị sử dụng của những chiếc máy này còn nguyên vẹn hay đã bị hao mòn một phần. - Kỹ thuật cải tiến nên người ta sản xuất được những máy móc tuy có giá trị bằng giá trị của máy cũ hoặc cao hơn chút ít, nhưng lại có công xuất vượt xa công suất của máy cũ. Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình bình quân của tư bản cố định đều được tính chuyển giá trị vào sản phẩm, lưu thông cùng sản phẩm, chuyển hoá thành tiền và trở thành quỹ dự trữ tiền tệ để đổi mới tư bản cố định khi đến kỳ tái tạo ra tư bản đó dưới hình thái hiện vật. Đó là quỹ khấu hao của tư bản. Để phát huy hiệu quả của tư bản bộ phận quỹ khấu hao này có thể được đưa ra sử dụng để mở rộng doanh nghiệp tức tăng quy mô theo chiều rộng hoặc cải tiến máy móc nhằm làm cho máy móc tăng thêm hiệu suất, tức tăng quy mô theo chiều sâu. Vậy là có thể thực hiện được tái sản xuất mở rộng mà không cần có sự tích luỹ tư bản thực sự. Để tránh những hao mòn bất thường và bảo đảm phát huy hiệu quả cao, tư bản cố định đòi hỏi những chi phí bảo quản đặc biệt. Việc bảo quản ấy được thực hiện một phần ở bản thân quá trình lao động sử dụng nó, bảo tồn nó và chuyển giá trị của nó vào sản phẩm. Việc bảo quản này là một cống hiến của tự nhiên không mất tiền của lao động sống. Nhưng để bảo quản tốt, tư bản cố định còn đòi hỏi phải thực sự chi phí sức lao động nữa. Máy móc yêu cầu thỉnh thoảng phải được lau chùi. Đấy là một công việc phụ, nhưng nếu không làm thì máy móc sẽ nhanh hỏng. Ngoài việc cần được bảo quản, tư bản cố định còn cần được tu bổ, sữa chữa cần thiết, do đó đòi hỏi phải có những khoản chi về tư bản và lao động. Thông thường, mỗi tư bản cố định đầu tư trong một ngành công nghiệp nhất định đều được dự tính theo kinh nghiệm những công việc lau chùi, những yêu cầu tu sửa sau những quãng thời gian hoạt động nhất định cũng như sửa chữa thông thường và bất thường có thể xảy ra. Những chi phí cho những khối lượng công việc bảo quản và sửa chữa đó được phân phối bình quân vào suốt cuộc đời phục vụ trung bình của tư bản và được tính vào giá cả sản phẩm được sản xuất ra. Như vậy là những chi phí đó đã được dự tính trước để phân phối đồng đều cho các vòng chu chuyển của tư bản ngay từ vòng đầu. Số tư bản chi ra cho công việc bảo quản và sửa chữa, xét về nhiều mặt, là một thứ tư bản có tính chất đặc biệt, không thể xếp vào tư bản lưu động cũng không thể xếp vào tư bản cố định, nhưng vì nó là một bộ phận trong chi phí thường ngày nên người ta xếp nó vào tư bản lưu động. Trên thực tế, ranh giới giữa những việc thực sự là sửa chữa và thay thế, giữa chi phí bảo quản và chi phí đổi mới có phần nào không rõ. Trong nông nghiệp chưa sử dụng cơ khí, sự phân biệt giữa thay thế và bảo quản tư bản cố định trong thực tiễn không thể làm được và cũng không cần. Để tránh hao mòn vô ích, nhất là tránh hao mòn vô hình, cũng như ra sức tiết kiệm các chi phí bảo quản và sửa chữa, tăng cường hiệu suất của tư bản, các nhà tư bản càng tìm mọi cách để thu hồi tư bản về nhanh và thu nhiều lợi nhuận hơn nữa. Ngoài các thủ đoạn thông thường như tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, thực hiện chế độ ca,...các nhà tư bản còn bóc lột cả thời gian nghỉ ngơi của công nhân; buộc công nhân lao động trong điều kiện vô cùng cực khổ, thậm chí không bảo đảm an toàn lao động cho công nhân. Mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản cho nên tăng thêm gay gắt trong mục đích của sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác hẳn so với dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng việc tận dụng khả năng công xuất của máy móc thiết bị để tránh hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình, chú ý bảo quản sửa chữa, tiết kiệm các chi phí về vốn cố định và vốn lưu động cũng là một yêu cầu khách quan trong việc quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. ở miền Bắc nước ta hiện nay, việc cố gắng đưa hết máy móc vào sản xuất, tận dụng công xuất của máy,... không chỉ có tác dụng tránh hao mòn, mà còn có tác dụng đẩy năng suất lao động xã hội lên một bước cao, và nhất là tránh được tình trạng lãng phí nghiêm trọng về sử dụng vốn cố định. 3. Tác dụng của việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản và phương pháp làm tăng tốc độ ấy. Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Công thức tính tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng giá trị chu chuyển của tư bản cố định và giá trị chu chuyển của tư bản lưu động trong năm chia cho tổng tư bản ứng trước. Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản là tỷ lệ thuận với tổng giá trị chu chuyển của tư bản cố định và tư bản lưu động và tỷ lệ nghịch với giá trị của tổng tư bản ứng trước. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản thì sẽ tăng được hiệu suất sản xuất và mang lại giá trị thặng dư nhiều hơn cho nhà tư bản. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định thì nhà tư bản có thể tránh được thiệt hại hao mòn vô hình và còn có thể tăng cường sử dụng được quỹ khấu hao vào mở rộng và cải tiến kỹ thuật sản xuất. Đặc biệt đối với tư bản lưu động, tăng tốc độ chu chuyển sẽ có tác dụng rất lớn. Đối với bộ phận tư bản bất biến lưu động, tức là bộ phận tư bản bỏ ra mua nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu,... Nếu chu chuyển nhanh thì sẽ tiết kiệm được tư bản ứng trước, hoặc nếu giữ số tư bản lưu động ấy như cũ thì sẽ có điều kiện mở rộng được sản xuất. Đối với tư bản khả biến lưu động, tác dụng của việc tăng tốc độ chu chuyển càng hết sức quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong việc tăng thêm giá trị thặng dư. Giả định có hai tư bản A và B, có lượng tư bản khả biến ứng ra như nhau là 20.000đ, có tỷ suất bóc lột như nhau là 100% nhưng tốc độ chu chuyển của tư bản A mỗi năm chỉ một lần, còn tư bản B được hai lần thì số lượng giá trị thặng dư của hai tư bản ấy thu được sẽ khác nhau tư bản A thu được: 20.000 x 100% = 20.000đ. Còn tư bản B thu được 20.000đ x 2 x 100% = 40.000đ. Do đó mà tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm của hai tư bản cũng sẽ khác nhau. Tư bản A đạt tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư là: x 100 = 100% Tư bản B đạt tỷ suất bóc lột là: x 100 = 200% Sở dĩ có tình hình đó là vì tuy hai tư bản khả biến ứng trước như nhau nhưng do chu chuyển khác nhau nên tư bản khả biến thực tế sử dụng lại khác nhau, và do đó tuy tỷ suất giá trị thặng dư thực tế như nhau lại dẫn đến tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm khác nhau. Thời gian chu chuyển các tư bản gồm có thời gian sản xuất và thời gian lưu thông nên muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản thì phải ra sức rút ngắn các khoảng thời gian này lại. Phương pháp rút ngắn thời gian sản xuất được thực hiện bằng cách áp dụng kỹ thuật mới, cải tiến cách thức sản xuất, mở rộng phạm vi phân công hợp tác, cải tiến tổ chức và quản lý lao động, kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động,... tất cả các cách đó đều nhằm việc rút ngắn thời gian lao động, rút ngắn quá trình chịu ảnh hưởng tự nhiên của vật sản xuất cũng như rút ngắn và giảm bớt được dự trữ sản xuất. Song các phương pháp đó lại buộc các nhà tư bản phải tăng thêm tư bản ứng trước, và nhất là phải tăng thêm bóc lột cho nên lại làm tăng thêm mâu thuẫn trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phương pháp rút ngắn thời gian lưu thông có thể thực hiện bằng cách cải tiến chất lượng hàng hoá, cải tiến mặt hàng cải tiến mạng lưới và phương pháp thương nghiệp, đặc biệt là phát triển ngành giao thông vận tải,... Song việc rút ngắn thời gian lưu thông của tư bản lại gặp rất nhiều trở ngại. Sản xuất càng phát triển, phạm vi thị trường cần mở rộng thì càng làm tăng thêm tính chất cạnh tranh vô Chính phủ trong xã hội tư bản khiến hàng hoá lưu thông hỗn loạn, có nhiều hiện tượng bất hợp lý, lãng phí do đầu cơ mù quáng và quảng cáo phô trương, hình thức gây ra. Mặt khác, đông đảo quần chúng lao động bị bóc lột thậm tệ, thu nhập ngày càng giảm nên sức mua ngày càng giảm sút. Như vậy là do mâu thuẫn đối kháng của bản thân chủ nghĩa tư bản, việc rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của tư bản, do đó đẻ ra cả việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản đã vấp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại. Tình trạng năng lực sản xuất thường xuyên không được sử dụng hết ở các nước đế quốc cùng mức độ cạnh tranh, giành giật gay gắt thị trường giữa các nước này hiện nay càng xác minh rõ điều đó, tăng tốc độ chu chuyển và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn là yêu cầu chung của mọi nền sản xuất. Vậy nên, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa càng yêu cầu và có đầy đủ khả năng để thực hiện tốt vấn đề đó. Để quản lý tốt nền kinh tế, phát huy hiệu quả cao của đồng vốn các doanh nghiệp nước ta phải biết vận dụng nhưng nguyên lý trên một cách linh hoạt và sáng tạo. C. Sự vận dụng ở nước ta trong việc quản lý các doanh nghiệp. 1. Việc huy động vốn. a. Huy động vốn trong nước. Đây là nguồn vốn đóng vai trò quyết định. Trong khi đất nước còn nghèo, khả năng tích luỹ còn thấp thì tiết kiệm những chi tiêu có thể tiết kiệm được không chỉ là quốc sách mà cần phải có giải pháp đi thẳng vào thực tế, tức là phải có biện pháp khuyến khích tiết kiệm ở tất cả các khu vực: Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình, các tổ chức tài chính,... phải gắn tiết kiệm với tích luỹ dưới tác động của các nhân tố kích thích về lợi ích kinh tế đã huy động tối đa các nguồn vốn trong nước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cụ thể là: + Đổi mới và kiện toàn hệ thống các tổ chức trung gian tài chính: Phải đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng, quỹ bảo hiểm, quỹ trợ cấp và hưu trí, các công ty đầu tư,... Hệ thống này phải là những nhân tố tích cực kích thích tiết kiệm và huy động tối đa các nguồn vốn trong nước. Muốn vậy cần khẩn trương: - Mở rộng mạng lưới hoạt động của các tổ chức nói trên đến mọi khu vực thành thị và nông thôn, kể cả các xã vùng sâu, vùng xa và hải đảo trong nước. - Đa dạng hoá việc huy động vốn thông qua mở rộng và phát triển nhiều hình thức như: phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu có mục đích, có khả năng chuyển nhượng và thanh toán linh hoạt, phổ cập hình thức gửi tiền một nơi rút nhiều nơi; thực hiện cá nhân mở tài khoản, phát triển các hình thức tiết kiệm giáo dục, tiết kiệm bậc thang,... phát triển các loại cổ phiếu, trái phiếu ở các cấp: chính phủ, địa phương và công ty; mở rộng hoạt động của các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư,... kết hợp các hình thức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. - Cải tiến chất lượng hoạt động của các trung gian tài chính bằng cách đa dạng hoá, hiện đại hoá các công cụ thanh toán, đảm bảo tính tiện lợi nhanh chóng, bí mật, an toàn cho người có vốn. - Thực hiện chế độ bảo toàn các loại tiền gửi, trước hết là tiền gửi có kỳ hạn của nhân dân tại Ngân hàng thương mại. + Nâng cao hiệu quả huy động vốn qua ngân sách: Thu ngân sách, đặc biệt là thu từ thuế có độ nhạy cảm rất cao đối với sản xuất kinh doanh, cho nên điều chỉnh thuế suất làm tăng nguồn vốn cho ngân sách và định hướng các hoạt động kinh tế phải được coi là một nội dung quan trọng để nâng cao ngân sách. Phương hướng thực hiện điều chỉnh thuế xuất là nâng cao tỷ suất thu trong GDP với mức phổ biến của nước ta hiện nay, chống thất thu mà mở rộng diện thu. Để thực hiện phương hướng này cần phải: - Đổi mới sắc thuế: phải trên cơ sở tỷ lệ động viên GDP chung của nền kinh tế để thiết kế hệ thống thuế và mức độ động viên của từng sắc thuế. Hệ thống thuế phải bao quát mọi nguồn thu phát sinh trong kinh tế thị trường. Phải đơn giản các sắc thuế và thuế suất, khắc phục tình trạng thiếu rõ ràng, chồng chéo và quá phức tạp của các sắc thuế hiện hành. Đổi mới cơ chế quản lý thuế để thống nhất nguồn thu vào một đầu mối - tổng kết thí điểm và triển khai rộng rãi việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước nếu xét thấy không cần phải giữ lại 100% vốn thuộc sở hữu Nhà nước,... - Đổi mới cơ chế quản lý ngân sách và các hoạt động chi trên ngân sách đảm bảo cho ngân sách thực sự đóng vai trò điều chỉnh có hiệu quả nền kinh tế phát triển theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kiên quyết không tham nhũng và lãng phí trong sử dụng ngân sách. Tiếp tục cơ cấu lại một cách hợp lý bộ máy Nhà nước, giảm biên chế hành chính. + Khuyến khích các doanh nghiệp tạo vốn: Tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp đều có quyền huy động đảm bảo cho doanh nghiệp phải có mức vốn cần thiết trước khi tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh. Phát triển thị trường vốn để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn, thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn trong các doanh nghiệp. Nhà nước cần đảm bảo những điều kiện về cơ sở hạ tầng và những nguyên vật liệu thiết yếu để các doanh nghiệp hoạt động. Tài trợ mức cần thiết để kích thích và hướng hoạt động của các doanh nghiệp vào các ngành, lĩnh vực cần ưu tiên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chấn chỉnh công tác kế toán doanh nghiệp theo luật kế toán mới, tổ chức thi tuyển giám đốc, tìm người có đủ năng lực điều hành doanh nghiệp. b. Thu hút vốn từ nước ngoài. + Đối với đầu tư trực tiếp: Do quyền quản lý và sử dụng không tách rời quyền sở hữu về vốn của các chủ đầu tư nước ngoài, nên việc thu hút nguồn này không chỉ tuỳ thuộc vào sự hoàn thiện môi trường đầu tư của nước ta mà còn tuỳ thuộc vào sự tính toán của chủ đầu tư nước ngoài. Mặt khác để thu nhận một lượng vốn nước ngoài, chí ít trong nước phải có một lượng vốn tương đương. Hơn nữa chúng ta lại bị khá nhiều đối thủ trong khu vực và trên thế giới cạnh tranh thu hút nguồn vốn này. Vì vậy, cần phải chủ động lập các dự án để giới thiệu và gọi vốn đầu tư nước ngoài. Các dự án phải có tính chất khả thi cao. Mở rộng các hình thức đầu tư trong cả nước. Đối với các dự án liên doanh đầu tư với nước ngoài, phải phấn đấu: ngoài phần đóng góp về đất cần huy động liên kết nhiều đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng tỷ suất góp vốn trong nước bằng 50% số vốn trong các dự án, cùng với chính sách ưu đãi có biện pháp giới thiệu hướng dẫn, cung cấp thông tin để người Việt Nam sống ở nước ngoài đầu tư về nước mình. Đối với đầu tư gián tiếp, giải pháp để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn này không chỉ ở chỗ cần làm tốt hơn nữa công việc vận động cá nhân, các tổ chức tiền tệ quốc tế và chính phủ các nước giúp đỡ vốn phù hợp với yêu cầu của nước ta, mà còn phải hết sức coi trọng việc quản lý và nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn, phải tính đến khả năng trả nợ đúng hạn và những yêu cầu khác về việc đảm bảo độc lập, chủ quyền về kinh tế và chính trị. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, hoạt động dịch vụ, thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt hợp lý, có chính sách thích hợp đảm bảo huy động có hiệu quả các nguồn thu từ người và các tổ chức nước ngoài vào ta hợp tác đầu tư,... thực tiễn các mặt hoạt động này ở nước ta vừa qua còn nhiều yếu kém, cần phải khẩn trương khắc phục. 2. Nâng cao việc sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp. Trong mối quan hệ nhân quả của nó, để huy động mạnh mẽ các nguồn vốn, đòi hỏi phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được. a. Lựa chọn hướng đầu tư. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giải pháp quan trọng trước tiên là lựa chọn đúng hướng đầu tư. Việc lựa chọn này theo kinh nghiệm các nước, không thể thoát ly chiến lược công nghiệp hoá trong từng thời kỳ và không thể xa rời yêu cầu sử dụng và khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước. Trong những năm gần đây, nhiều nước còn sử dụng phương pháp lượng hoá thông qua tính toán chỉ số ICOR - chỉ số phản ánh tỷ lệ vốn đầu tư trong GDP chia cho tỷ lệ gia tăng của GDP hàng năm để làm căn cứ lựa chọn hướng ưu tiên đầu tư. Kết hợp các phương pháp trên thì trong giai đoạn đầu, nước ta cần hướng đầu tư vào những ngành và những dự án sử dụng nhiều lao động, tức là hướng đầu tư vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, phát triển công nghiệp chế biến và làm hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Đồng thời cần phân bố một lượng vốn đang kể vào các lĩnh vực, dự án có khả năng tranh thủ “đi tắt” và “đón đầu” công nghệ để chuẩn bị những điều kiện chuyển dần từ việc sản xuất sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang sản xuất sản phẩm sử dụng nhiều vốn, đảm bảo giữ mức tăng trưởng kinh tế liên tục và bền vững. Song, cần nhận thức một vấn đề rất quan trọng là để đảm bảo cho việc lựa chọn và thực hiện các hướng đầu tư như trên, chúng ta phải ưu tiên tạo nền tảng cho sự giao lưu vốn, giao lưu hàng hoá, tạo điều kiện để các chủ kinh doanh trong và ngoài nước đầu tư. Điều đó đòi hỏi phải tạo cơ sở hạ tầng thuận lợi cho quá trình sử dụng vốn. b. Lập kế hoạch và dự án đầu tư. Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn thời gian cần phải sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư và điều này đòi hỏi phải có kế hoạch và dự án để chủ động đầu tư, kế hoạch đầu tư phải thật rõ ràng, phải xác định các giai đoạn đầu tư, khả năng nguồn vốn và hiệu quả bảo đảm thực hiện các dự án đầu tư phải bảo đảm tính khả thi cao. c. Thẩm định chặt chẽ các dự án đầu tư. Trước hết là đối với các dự án đầu tư lớn, có tầm quan trọng quốc gia, các dự án liên doanh hợp tác và sử dụng vốn nước ngoài. Giải pháp này phải được coi là nguyên tắc bảo đảm sử dụng có hiệu quả vốn. Vì vậy, phải sớm có những chuyên gia hiểu biết và những tổ chức thẩm định các dự án trước khi thực hiện đầu tư. Những người và tổ chức này phải hoạt động thực sự vô tư và hiệu quả trong khi chưa có ngay một tổ chức như trên, có thể cần thiết sử dụng dịch vụ của các tổ chức thẩm định quốc tế. Khắc phục tình trạng lựa chọn những dự án đầu tư với chi phí lúc đầu không rõ ràng và càng về sau càng phát sinh một cách không quản lý nổi. Ngoài các việc trên, cần phải thành lập công ty tư vấn đầu tư, công ty bảo hiểm, kiểm toán,... làm dịch vụ tư vấn, hướng dẫn, đảm bảo cho quá trình thực hiện kế hoạch và dự án đầu tư có hiệu quả, phải vận dụng quy luật thị trường qua việc sử dụng công cụ lãi suất và các trung gian tài chính để dẫn vốn đến đúng các dự án cần đầu tư, khắc phục tình trạng các lực lượng trung gian tài chính can thiệp vào quá trình phân bố và sử dụng vốn làm méo mó vai trò của vốn đầu tư. d. Nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60322.doc
Tài liệu liên quan