MỤC LỤC
Trang
A. Phần mở đầu 1
B. Phần nội dung 3
I. Cơ sở lý luận về tuần hoàn và chu chuyển của tư bản 3
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tuần hoàn của tư bản 3
2. Ba hình thức tuần hoàn của tư bản 3
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chu chuyển của tư bản 17
II. Sự vận dụng lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển của tư bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 21
1. Sự vận dụng ở Việt Nam trước Đại hội VI ban chấp hành Trung ương Đảng 1986 21
2. Sự vận dụng ở Việt Nam từ Đại hội VI ban chấp hành TW Đảng 1986. 23
Kết luận 33
Tài liệu tham khảo 35
37 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trình bày lý thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oá giá trị thặng dư đến biến mất. Tình hình như vậy cũng diễn ra đối với Sx khi nó làm điểm xuất phát của một tuần hoàn mới.
Nếu so sánh Sx.... Sx’ với T...T’ hay với tuần hoàn thứ nhất, thì thấy rằng hai tuần hoàn đó hoàn toàn không có ý nghĩa giống nhau. Bản thân T...T’ với tư cách là một tuần hoàn cô lập, chỉ nói lên rằng T tức là tiền tệ (hay tư bản công nghiệp đang thực hiện tuần hoàn của nó dưới hình thái tư bản - tiền tệ). Trái lại trong tuần hoàn của Sx khi gian đoạn thứ nhất, tức là giai đoạn quá trình sản xuất chấm dứt, thì quá trình làm tăng giá trị đã hoàn thành rồi, còn khi giai đoạn thứ hai. H’ - T’ kết thúc, thì giá trị - tư bản + giá trị thặng dư đã tồn tại thành tư bản - tiền tệ đã được thực hiện, thành T’, là các xuất hiện thành cái cực cuối cùng trong tuần hoàn thứ nhất. Điều này nói nên rằng giá trị thặng dư đã được sản xuất ra.
Trong Sx... Sx’, Sx’ không nói nên được việc giá trị thặng dư đã được sản xuất ra, mà nói nên việctư bản hoá giá trị thặng dư đã sản xuất ra, do đó nói nên rằng tích luỹ tư bản đã xảy ra, khác với Sx, Sx’ gồm có giá trị - tư bản ban đầu cộng thêm giá trị của một tư bản cho sự vận động của giá trị - tư bản ban đầu tích luỹ lại. T’ và H’, dưới hình thức mà nó xuất hiện trong tất cả các tuần hoàn ấy, tự bản thân chúng không biểu thị sự vận động, mà biểu hiện kết quả của cuộc vận động: việc làm tăng giá trị - tư bản được thực hiện dưới hình thái hàng hoá hay dưới hình thái tiền; vì vậy chúng biểu hiện giá trị - tư bản thành T + t, hoặc thành H +h.
Một khi T’ hoặc H’ cố định thành T +t hoặc H + h, tức là cố định lại dưới dạng quan hệ giữa giá trị - tư bản với giá trị thặng dư, con đẻ của giá trị - tư bản, thì mối quan hệ ấy biểu thị một lần dưới hình thái tiền, lần kia dưới hình thái hàng hoá. Trong cả hai trường hợp ấy, thuộc tính đặc trưng của tư bản, tức là thuộc tính làm một giá trị đẻ ra giá trị. H’ bao giờ cũng chỉ là sản vật của chức năng sản xuất, và T’ bao giờ cũng chỉ là sản vật của chức năng sản xuất, và T’ bao giờ cũng chỉ là hình thái của H’ đã trải qua một sự chuyển hoá trong tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Vì thế, khi tư bản - tiền tệ đã thực hiện làm trở lại chức năng đặc thù của nó là tư bản - tiền tệ, thì nó không còn biểu hiện mối quan hệ tư bản chứa đựng trong T’ = T+t nữa. Một khi T...T’ đã tiến hành xong rồi, và một khi bắt đầu trở lại tuần hoàn, thì T’ không còn biểu hiện ra thành T’ nữa, mà biểu hiện ra thành T, ngay cả trong trường hợp người ta tư bản hoá toàn bộ giá trị thặng dư chứa đựng trong T’ cũng vậy. Đối với tuần hoàn của tư bản sản xuất, số Sx’ đã lớn lên, khi bắt đầu trở lại tuần hoàn của nó, cũng chỉ xuất hiện với tư cách là Sx, giống như Sx trong tái sản xuất giản đơn Sx... Sx như vậy.
Slđ
Trong giai đoạn T’ - H’ Tlsx , sự tăng thêm đại lượng giá trị chỉ là do H’ biểu hiện ra, chứ không phải do Slđ’ và Tlsx’ biểu thị ra. Vì H là tổng số của Slđ cộng với Tlsx, cho nên H’ cũng đã nói lên rằng tổng số của Slđ cộng với Tlsx bao gồm ở trong nó lớn hơn Sx ban đầu.
Việc tích luỹ tiền
Việc t tức giá trị thặng dư đã biến thành tiền, có thể lập tức được bỏ thêm vào giá trị - tư bản đang ở trong quá trình vận động của nó hay không, và do đó có thể gia nhập quá trình tuần hoàn bằng cách nhập làm một với tư bản T thành đại lượng T’ hay không - việc đó phụ thuộc vào những tình hình không có quan hệ gì với sự tồn tại đơnthuần của t. Chức năng riêng của t là nằm dưới hình thái tiền, cho đến khi nó nhận thức của những tuần hoàn lắp đi lắp lại, - tuần hoàn làm tăng thêm giá trị - tức là nhận thức được từ bên ngoài, những khoản tăng thêm đủ để đạt tới đại lượng tối thiểu cần thiết cho sự hoạt động tích cực của nó, chỉ với đại lượng ấy thì nó mới có thể tham gia vào việc hoạt động của tư bản - tiền tệ T’, tham gia với tư cách là tư bản tiền tệ. Vậy ở đây việc tích luỹ tiền, tích luỹ tiền là một quá trình tạm thời kèm theo việc tích luỹ hiện thực, tức là việc mở rộng quy mô hoạt động của tư bản công nghiệp.
Hình thái tiền tích trữ chỉ là hình thái tiền không nằm trong lưu thông, là hình thái của số tiền mà lưu thông của nó bị gián đoạn và vì lẽ đó mà được giữ lại dưới hình thái tiền. Còn như bản thân quá trình hình thành tiền tích trữ, thì nó là chung cho bất cứ nền sản xuất hàng hoá nào, và chỉ trong các hình thái chưa phát triển của sản xuất hàng hoá trước chủ nghĩa tư bản thì quá trình tích luỹ tiền ấy mới đóng một vai trò nào đó với tư cách là mục đích tự thân.
Quỹ dự trữ.
Bản thân tiền tích trữ là điều kiện tích luỹ. Nhưng quỹ tích luỹ cũng có thể đảm nhiệm những công việc đặc thù, có tính chất phụ, tức là có thể gia nhập quá trình tuần hoàn của tư bản mà không cần phải mang hình thái Sx... Sx’ và do đó không cần mở rộng quy mô tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quỹ tích luỹ được dùng làm quỹ dự trữ khác với quỹ dùng làm phương tiện mua và phương tiện thanh toán đã được nghiên cứu trong tuần hoàn Sx... Sx’. Quỹ dự trữ là một bộ phận cấu thành của tư bản nằm trong giai đoạn chuẩn bị của sự tích luỹ của nó, tức là một bộ phận cấu thành của giá trị thặng dư chưa chuyển hoá thành tư bản tích cực.
Quỹ tích luỹ bằng tiền vốn đã là sự tồn tại của tư bản - tiền tệ tiềm năng, do đó nó đã là sự chuyển hoá của tiền thành tư bản - tiền tệ. Công thức chung của tuần hoàn của tư bản sản xuất. Slđ
Sx...H’ - T’. T - H ... Sx (Sx’)
Tlsx
2.3. Tuần hoàn của tư bản - hàng hoá.
Công thức chung của tuần hoàn của tư bản hàng hoá là:
H’ - T’ - H...Sx... H’
H’ không những là sản phẩm mà còn là tiền đề của hai tuần hoàn đã nói ở trên, bởi vì cái là T - H của một tư bản thì đã bao hàm H’ - T’ của một tư bản khác, ít ra là trong chừng mực bản thân một bộ phận tư liệu sản xuất là sản phẩm hàng hoá của những tư bản cá biệt khác đang thực hiện tuần hoàn của chúng.
Tuần hoàn của tư bản - hàng hoá không phải bắt đầu đơn thuần bằng một giá trị - tư bản, mà bằng một giá trị - tư bản đã được tăng lên và nằm dưới hình thái hàng hoá, do đó ngay từ đầu nó đã bao hàm tuần hoàn không những của giá trị - tư bản dưới hình thái hàng hoá mà còn bao hàm cả tuần hoàn của cả giá trị thặng dư nữa. Trong mọi trường hợp H’ thường xuyên mở đầu tuần hoàn với tư cách là một tư bản hàng hoá ngang với giá trị - tư bản cộng với giá trị thặng dư. H’ với tư cách là H xuất hiện trong tuần hoàn của một tư bản công nghiệp cá biệt, dưới hình thái một tư bản công nghiệp khác, chừng nào tư liệu sản xuất là sản phẩm của tư bản công nghiệp này.
H’ không bao giờ có thể mở đầu tuần hoàn với tư cách là H đơn thuần, với tư cách là hình thái hàng hoá đơn thuần của giá trị - tư bản. Là tư bản - hàng hoá, nó bao giờ cũng có hai mặt. Đứng trên quan điểm giá trị sử dụng mà nói nó là sản phẩm hoạt động của Sx, mà những yếu tố Slđ và Tlsx xuất hiện với tư cách là hàng hoá từ lĩnh vực lưu thông, chỉ hoạt động với tư cách là nhân tố hình thành sản phẩm đó. Hai là, đứng trên quan điểm giá trị mà nói; H’ là giá trị - tư bản Sx + giá trị thặng dư m, sản sinh ra trong thời gian hoạt động của sản xuất. Chỉ có ở trong tuần hoàn của bản thân H’ thì bộ phận H của nó = Sx = giá trị - tư bản, mới có thể và phải phân tách ra khỏi bộ phận của H’ chứa đựng giá trị thặng dư, khỏi sản phẩm thặng dư chứa đựng giá trị thặng dư, không kể là hai bộ phận này có thực sự tách rời nhau hay không tách rời nhau. Một khi H’ đã chuyển hoá thành T’, thì hai bộ phận đó trở thành có thể tách rời nhau.
Trong hình thái I: T... T’ tiền được ứng ra làm tư bản trước hết cho những yếu tố sản xuất, nhưng yếu tố này trở thành sản phẩm - hàng hoá và sản phẩm - hàng hoá này lại chuyển hoá thành tiền. Đó là một tuần hoàn kinh doanh hoàn chỉnh mà kết quả là tiền có thể dùng vào tất cả mọi việc và cho tất cả mọi người.
Trong hình thái II tức là Sx... H’ - T’ - H...Sx (Sx’) toàn bộ quá trình lưu thông nằm sau Sx thứ nhất và trước Sx thứ hai, Sx là tư bản sản xuất, Sx cuối không phải là quá trình sản xuất, nó chỉ là sự trở lại của tư bản công nghiệp dưới hình thái tư bản sản xuất.
Trong hình thái III, tức là H’ - T’ - H ... Sx... H’ tuần hoàn bắt đầu bằng hai giai đoạn của quá trình lưu thông, tuần hoàn kết thúc với H’, kết quả của quá trình sản xuất. Chỉ trong tuần hoàn này thì điểm xuất phát của quá trình làm tăng thêm giá trị là giá trị - tư bản đã tăng thêm giá trị. Điểm xuất phát ở đây là H’, biểu hiện mối quan hệ tư bản chủ nghĩa, nó có tác dụng quyết định đối với toàn bộ tuần hoàn. Sự phân phối tổng sản phẩm xã hội cũng như phân phối đặc thù về sản phẩm của một tư bản - hàng hoá cá biệt, sự phân phối, một mặt thành quỹ tiêu dùng cá nhân, và mặt khác thành quỹ tái sản xuất - đều nằm trong tuần hoàn của tư bản.
Trong T...T’ có khả năng mở rộng tuần hoàn theo đại lượng của các phần t sẽ gia nhập tuần hoàn mới. Trong Sx...Sx, Sx có thể mở đầu tuần hoàn mới với một giá trị như cũ. Trong H’...H’, tư bản dưới hình thái hàng hoá là tiền đề của sản xuất, và với tư cách là tiền đề, hình thái đó lại quay trở lại cũng trong tuần hoàn ấy. Cả ba tuần hoàn đều có điểm chung: tư bản kết thúc quá trình tuần hoàn của nó dưới đúng cái hình thái mà nó mở đầu quá trình tuần hoàn đó, nhờ thế nó lại mang hình thái ban đầu trong đó nó lại mở đầu một tuần hoàn giống như vậy. Hình thái của điểm xuất phát T, Sx, H’ đều được cho trước đối với mỗi tuần hoàn; hình thái lặp lại ở điểm kết thúc là hình thái bị gây nên, và do đó bị quy định bởi một loạt những sự biến hoá hình thái cảu bản thân tuần hoàn. H’ với tư cách là điểm kết thúc một tuần hoàn của tư bản công nghiệp cá biệt, chỉ giả định là có hình thái Sx ở bên ngoài lưu thông của tư bản công nghiệp đã sản sinh ra nó, T’ là điểm kết thúc của hình thái I, là hình thái chuyển hoá của H’ (H’ - T’) giả định là T nằm trong tay người mua, tồn tại ở ngoài tuần hoàn T...T’ và chỉ do việc bán H’ mới bị cuốn vào trong tuần hoàn đó, trở thành hình thái kết thúc của bản thân tuần hoàn ấy.
3. Quan điểm của Mác - Lênin về vấn đề chu chuyển của tư bản.
Nếu như nghiên cứu tuần hoàn của tư bản, chúng ta nghiên cứu các hình thức mà tư bản trút ra và khoác vào qua ba giai đoạn vận động của nó, thì khi nghiên cứu chu chuyển của tư bản, chúng ta nghiên cứu tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm. Theo Mác - Lênin thì: “Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lắp đi lắp lại chứ không phải là quá trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuyển của tư bản”(2) Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 - trang 103
. Trong quá trình chu chuyển của tư bản tức là để sản xuất ra hàng hoá nhà sản xuất phải mất một khoảng thời gian mà theo Mác - Lênin nêu lên là: “Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà tư bản cũng dưới hình thức như thế, nhưng có thêm giá trị thặng dư(3) Kinh tế chính - NXB giáo dục - 1998, trang 104
.Như vậy tổng thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định bằng thời gian lưu thông và thời gian sản xuất của nó cộng lại. Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bao giờ cũng là làm tăng giá trị ứng trước. Trong hai hình thái T...T’ và hình thái Sx...Sx nói lên rằng: 1. Giá trị ứng trước đã làm chức năng giá trị - tư bản và đã tự tăng thêm; 2. Khi kết thúc tuần hoàn của nó, giá trị ứng trước lại quay về dưới hình thái mà nó mang khi mở đầu tuần hoàn. Nếu sản xuất mang hình thái tư bản chủ nghĩa, thì tái sản xuất cũng mang hình thái đó. Quá trình lao động trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là chỉ là một phương tiện cho quá trình làm tăng thêm giá trị, thì tái sản xuất cũng vậy, nó cũng chỉ là một phương tiên để tái sản xuất ra giá trị ứng trước với tư cách là tư bản, tức là với tư cách là giá trị tự tăng thêm giá trị.
Trong hình thái là sự lắp lại của quá trình biểu hiện ra là có tính chất khả năng thôi còn sự lắp lại của quá trình trong hình thái II tức là quá trình tái sản xuất, biểu hiện thành sự lắp lại hiện thực. Trong hình thái III giá tự - tư bản mở đầu quá trình với tư cách là giá trị đã tăng thêm, là tất cả những của cải nằm dưới hình thái hàng hoá. Hình thái này là hình thái trọng yếu đối với sự vận động của các tư bản cá biệt nếu xem xét trong mối quan hệ với sự vận động của tư bản xã hội. Nhưng hình thái này không thích hợp cho việc nghiên cứu sự chu chuyển của một tư bản bao giờ cũng được bắt đầu bằng việc ứng trước giá trị tư bản dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hàng hoá, và bao giờ cũng đòi hỏi giá trị - tư bản đang lưu thông phải quay trở lại hình thái mà nó đã được ứng ra.
Những nhà kinh tế học không phân biệt các hình thái tuần hoàn khác nhau, đã không xét chúng riêng ra trong mối quan hệ của chúng đối với chu chuyển của tư bản. Có những nhà kinh tế học khác lại xuất phát từ những chi phí dưới hình thái yếu tố sản xuất, và xem xét sự vận động cho đến lúc quay trở về, nhưng họ tuyệt nhiên không hề nói đến hình thái quay trở về đó, không hề tự hỏi xem chúng sẽ quay trở về dưới hình thái hàng hoá hay hình thái tiền. Sau khi toàn bộ giá trị tư bản mà một nhà tư bản cá biệt bỏ vào một ngành sản xuấta nào đó hoàn thành tuần hoàn trong sự vận động của nó, thì nó lại trở lại hình thái ban đầu của nó và lại có thể diễn lại cùng một quá trình như thế. Muốn cho giá trị được bảo tồn mãi mãi và tiếp tục tăng thêm giá trị với tư cách là giá trị tư bản, thì nó phải lắp lại tuần hoàn ấy. Trong đời sống của tư bản, mỗi tuần hoàn cá biệt chỉ là một giai đoạn không ngừng được lắp đi lắp lại, nghĩa là một giai đoạn cấu thành một định kỳ. Hình thái T...T’ tư bản tiền tệ sẽ đi qua cái chuỗi những chuyển hoá bao gồm quá trình tái sản xuất ra nó, hay quá trình tăng thêm giá trị. Khi định kỳ Sx...Sx kết thúc, tư bản mang hình thái những yếu tố sản xuất nó là tiền đề của việc lặp lại tuần hoàn. “Tuần hoàn của tư bản khi được coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải một hành vi cá biệt thì được gọi là vòng chu chuyển của tư bản”. Thời gian của vòng chu chuyển ấy được quyết định bởi tổng số thời gian sản xuất và thời gian lưu thông cộng lại. Tổng số thời gian ấy là thời gian chu chuyển của tư bản. Do đó, thời gian chu chuyển của tư bản bao quát khoảng thời gian từ một định kỳ tuần hoàn tiếp theo; nó nói lên tính chu kỳ trong quá trình sinh sống của tư bản, hay có thể nói, nó là thước đo thời hạn đổi mới, thời hạn lặp lại của quá trình làm tăng thêm giá trị hay quá trình sản xuất ra cùng một giá trị tư bản.
Nếu không nói đến những sự ngẫu nhiên riêng rẽ có thể đẩy nhanh hay rút ngắn thời hạn chu chuyển đối với cùng một tư bản cá biệt, thì thời gian chu chuyển ấy nói chung sẽ khác nhau tùy theo những sự khác nhau của các lĩnh vực đầu tư cá biệt của tư bản. Cũng giống như ngày lao động là đơn vị đo lường tự nhiên để đo hoạt động của sức lao động, thì năm cũng là đơn vị đo lường tự nhiên để đo những vòng chu chuyển của tư bản hoạt động. Cơ sở tự nhiên của đơn vị đo lường ấy là tình hình: ở vùng ôn đới, quê hương của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nông sản quan trọng nhất đều được sản xuất ra mỗi năm một lần.
Nếu ta lấy CH để chỉ năm là đơn vị đo lường của thời gian chu chuyển, lấy ch để chỉ thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định, lấy n để chỉ số lần chu chuyển của tư bản, thì chúng ta sẽ có: n = . Do đó nếu thời gian chu chuyển của tư bản là vài năm, thì nó sẽ được tính bằng cách nhân với số năm đó. Đối với nhà tư bản, thời gian chu chuyển của tư bản là thời gian trong đó nhà tư bản phải ứng trước tư bản ra để nó tăng thêm giá trị, và quay trở về dưới hình thái ban đầu của nó.
Giá trị các bộ phận tư bản sản xuất chuyển vào sản phẩm theo phương thức khác nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển giá trị của tư bản thì chia tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Trong đó “tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị lại không chuyển hết một lần, mà chuyển dần từng phần vào sản phẩm”(4), (5), (6): NXB Giáo dục: Kinh tế chính trị - 1998, trang 105, 106
.
Còn “tư bản lưu động là một bộ phận tư bản sản xuất mà giá trị của nó sau một thời kỳ sản xuất, có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thức tiền tệ, sau khi hàng hoá đã bán xong” (5). Đó là bộ phận giá trị tư bản dưới hình thức sức lao động và những tư liệu sản xuất khác. Nguyên liệu, vật liệu phụ bị tiêu dùng toàn bộ vào sản xuất và cũng chuyển toàn bộ gia trị vào sản phẩm mới. Chia tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động cũng là một sự phân chia khoa học, cần thiết về mặt quản lý kinh tế.
Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Trong khi tư bản cố định chu chuyển được vòng thì tư bản lưu động đã chu chuyển được nhiều vòng. Ngay trong tư bản cố định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau, có thời gian hoạt động dài, ngắn khác nhau, nghĩa là hao mòn khác nhau. “Hao mòn hữu hình là do sử dụng và do tác động của thiên nhiên làm cho những bộ phận tư bản đó dần dần hao mòn đi đến chỗ hỏng, không dùng được nữa. Còn hao mòn vô hình là nói về những trường hợp máy móc mới tốt hơn tối tân hơn xuất hiện” (6). Để tránh hao mòn vô hình, nhà tư bản còn tìm cách nâng cao tỷ suất khấu hao tư bản cố định.
Dựa trên hai hình thức hao mòn mà C.Mác phân chia chu chuyển của tư bản thành “Chu chuyển chung của tư bản ứng trước là con số chu chuyển trung bình của những thành phần khác nhau của tư bản. Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được khôi phục toàn bộ về mặt giá trị, cũng như về mặt hiện vật(7) Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 trang 109
. Chu chuyển thực tế do thời gian tồn tại của tư bản cố định đầu tư quyết định và nó không ăn khớp với chu chuyển chung của nó.
Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa khối lượng giá trị thặng dư tạo ra trong một năm với tư bản khả biến ứng ra trước người ta phải tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Tỷ suất giá trị thặng dư thực tế không đổi, nhưng tư bản chu chuyển càng nhanh số vòng chu chuyển tư bản khả biến trong năm càng nhiều thì giá trị thặng dư càng lớn, tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng cao. Nó che giấu mối quan hệ thực sự giữa tư bản và lao động, gây cho người ta có ấn tượng rằng tỷ suất giá trị thặng dư không phải chỉ phụ thuộc vào khối lượng và trình độ bóc lột sức lao động do nhà tư bản khả biến làm cho hoạt động mà còn phụ thuộc vào những ảnh hưởng không thể giải thích được do quá trình lưu thông đẻ ra. Do đó nhà tư bản ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông để tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Sự tiến bộ của kỹ thuật và sự phát triển của lực lượng sản xuất giúp cho nhà tư bản làm việc đó.
II. Sự vận dụng lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản trongn việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1. Sự vận dụng ở Việt Nam từ trước đại hội VI ban chấp hành trung ương Đảng - 1986.
Cả nước cùng tiền lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ: cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yếu, đại bộ phận lao động kỹ thuật vẫn còn thủ công, phân công lao động xã hội còn kém phát triển,năng suất lao động xã hội rất thấp, tình trạng tổ chức và quản lý kinh tế còn thiếu chặt chẽ, việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân còn yếu, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Công cuộc xây dựng nền kinh tế đòi hỏi đất nước ta phải có chính sách phát triển và khôi phục nền kinh tế, đưa đất nước đi lên thoát khỏi sự lạc hậu của nền kinh tế sau những năm chiến tranh xâm lược. Doanh nghiệp Việt Nam lúc này còn quá nhỏ bé chủ yếu là các xí nghiệp dưới sự che chở của nhà nước, nhà nước bao cấp và chịu gần như toàn bộ hậu quả mà doanh nghiệp nhà nước và xí nghiệp gặp phải. Hàng Việt Nam được sản xuất ra có khi không đúng thời vụ, hàng chưa về đến nông thôn thì đã hết. Nhà nước lại không có chính sách, biện pháp mở rộng sản xuất, không thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là do nhà nước cấp, doanh nghiệp không tồn tại loại hình doanh nghiệp tư nhân tư bản, doanh nghiệp nhà nước hoạt động rất kém hiệu quả, năng suất chưa cao, chất lượng thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật rất hạn chế.
Đất nước hoàn toàn giải phóng, cả nước đi vào khôi phục xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước ta xác định nhiệm vụ đầu tiên là phải phát triển kinh tế, đưa đất nước đi lên. Tại Đại hội IV Đảng ta đã đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng”(8) Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ IV. NXB Sự thật, Hà Nội, 1997, trang 67.
. Đến đại hội lần thứ V (tháng 3 - 1982) của Đảng lại khẳng định đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV của Đảng đã đề ra là hoàn toàn đúng đắn và được tiếp tục thực hiện.
Thời kỳ này các doanh nghiệp tồn tại chủ yếu dưới hình thái các xí nghiệp. Đảng ta chủ trương đối với xí nghiệp con đường công ty hợp doanh. Thực hiện chủ trương đó, công cuộc cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam đã được thực hiện như sau: các xí nghiệp của tư sản mại bản và tư sản bỏ chạy ra nước ngoài đều bị quốc hữu hoá và trở thành quốc doanh. Năm 1978 là năm tuyên bố hoàn thành cải tạo tư sản trong công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam. Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong các xí nghiệp quốc doanh, ngày 21 - 1- 1981 Hội đồng chính phủ đã ban hành quyết định 25 - CP về: “Một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh”. Trên cơ sở đó các xí nghiệp phải biết chu chuyển vốn sao cho hợp lý, sản xuất phải phù hợp với yêu cầu đòi hỏi, nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị và ngày càng củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV đã chủ trương “xoá bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư doanh”. Đối với tiểu thương, Đảng chủ trương “Tổ chức lại thương nghiệp nhỏ, chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất. Đối với số còn lại được phép kinh doanh, phải tăng cường quản lý bằng những chính sách và biện pháp thích hợp”. Nền kinh tế bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế về mặt quản lý còn thiếu hiêủ biết, ít kinh nghiệm quản lý, chưa tổng kết kinh nghiệm thực tiễn tạo điều kiện cho một số xí nghiệp lợi dụng sự sơ hở để mưu lợi ích cục bộ.
Nhìn chung trong giai đoạn này các xí nghiệp rất còn yếu kém trong việc tuần hoàn sản xuất và chu chuyển vốn, có nhiều xí nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào nhà nước đến khi bị thua lỗ thì nhà nước phải chịu hoàn toàn cho nên các xí nghiệp chưa có được tinh thần trách nhiệm đối với hoạt động sản xuất của mình.
2. Sự vận dụng ở Việt Nam từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986) đến nay.
Đại hội VI của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta; trong đó có sự đổi mới về các quan điểm kinh tế. Đảng chỉ ra mục tiêu quan trọng là phát triển kinh tế trong đó khẳng định vai trò của các doanh nghiệp trong nền kinh tế mới với cơ chế quản lý mới đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế mới gắn sản xuất với thị trường thông qua tín hiệu giá cả được hình thành theo quan hệ cung cầu, đi đôi với thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và mọi đơn vị kinh tế trong môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng. Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua hệ thống, thể chế rõ ràng, nghiêm chỉnh kết hợp đúng đắn tính kế hoạch với việc sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ, sử dụng hợp lý các đòn bẩy kinh tế như giá cả, chính sách tài chính, tín dụng...công tác kế hoạch hoá được đổi mới theo hướng chuyển từ tính pháp lệnh sang tính hướng dẫn là chính, từng bước phân biệt quản lý Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Có thể nói cơ chế mới nhằm chuyển hoá nền kinh tế Việt Nam còn mang nặng tính bao cấp, hiện vật, tự cấp tự túc, sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN. Đây cũng là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả của mỗi đơn vị sản xuất - kinh doanh, cũng như của toàn bộ nền kinh tế.
Việc chuyển sang kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự đổi mới một cách căn bản chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước. Từ chỗ trực tiếp “làm kinh tế” can thiệp rất sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh, Nhà nước chuyển sang điều tiết vĩ mô nền kinh tế chủ yếu bằng công cụ pháp luật, kế hoạch hoá định hướng và các công cụ quản lý vĩ mô khác. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng đã được thể chế hoá trong hiến pháp và được cụ thể hoá bằng hệ thống các luật: luật doanh nghiệp nhà nước, luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài, Luật hợp tác xã, Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, các luật thuế và luật ngân sách, Luật đất đai, Luật dân sự, Luật phá sản, P
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0385.doc