MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
I.Những vấn đề chung về đói nghèo
1.Các định nghĩa về đói nghèo
2.Nguyên nhân gây ra đói nghèo
3.Tác động của đói nghèo với kinh tế và xã hội
II. Công tác xóa đói giảm nghèo(XDGN)
1. Định nghĩa XDGN
2.XDGN với ASXH
3.Các chương trình xóa đói giảm nghèo
4.Nguồn tài chính XDGN
5.Mục tiêu Thiên Niên Kỷ XDGN
PHẦN II CÔNG CUỘC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM TỪ 1945 TỚI NAY.
I.Quá trình thực hiện trước năm 1986
1. Giai đoạn 1945-1954
2. Giai đoạn 1955-1975
3. Giai đoạn 1975-1986
II.Quá trình thực hiện sau năm 1986.
1. Giai đoạn 1986-1990
2. Giai đoạn từ 1990 đến nay
III.Hạn chế, khó khăn và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện XDGN
1. Hạn chế
2. Khó khăn
3. Bài học kinh nghiệm
PHẦN III : ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 2011-2020
1. Mục tiêu
2. Định hướng
KẾT LUẬN
20 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3650 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam về xóa đói giảm nghèo từ năm 1945 tới nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời mắc tệ nạn xã hội: 1%.
3.Tác động của đói nghèo với kinh tế và xã hội
Đói nghèo không chỉ là vấn đề riêng của nhưng người rơi vào cảnh đói nghèo, mà còn là một vấn đề xã hội lớn, cần tới sự quan tâm của toàn xã hội. Bởi vì đói nghèo có thể gây ra những tác động tiêu cực cả về mặt kinh tế và xã hội sâu sắc: Đói nghèo gây suy thoái kinh tế; gia tăng tội phạm xã hội; tăng dịch bệnh do không đủ sức khỏe chống chọi với bệnh tật; gây bất ổn chính trị thậm trí dẫn tới nội chiến, chiến tranh; làm tăng sự phân biết đối xử giữa người nghèo và người giàu; làm giảm tuổi thọ của cong người…
II. Công tác xóa đói giảm nghèo(XDGN)
1. Định nghĩa XDGN
Chính sách xóa đói giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động đến các chủ thể kinh tế xã hội nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, từ đó xây dựng một xã hội tốt đẹp
2.XDGN với ASXH
Mối quan hệ giữa XDGN vời ASXH thể hiện qua 4 yếu tố sau:- Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là một phần quan trọng nằm trong chính sách ASXH mỗi quốc gia. Cùng với bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, các chương trình xóa đói giảm nghèo tạo ra một tấm lưới toàn diện bảo vệ cho các thành viên trong xã hội. Nếu như BHXH hướng tới đối tượng là người lao động, cứu trợ xã hội hướng tới những người khó khăn và bị tổn thương trong cuộc sống, ưu đãi xã hội hướng tới những người có công với nước thì xóa đói giảm nghèo hướng tới một diện bảo vệ quan trọng dễ bị tổn thương nhất trong cuộc sống đó là tất cả người nghèo.- Thứ hai, xóa đói giảm nghèo góp phần đảm bảo ASXH một cách lâu dài và bền vững. Mặc dù BHXH là một chính sách ASXH lớn nhưng thực tế cho thấy đối tượng được hưởng lợi từ bảo hiểm xã hội chủ yếu là tầng lớp dân cư có thu nhập bậc trung chứ không phải người nghèo. Còn với chính sách cứu trợ xã hội, mặc dù người nghèo là một trong những diện được hưởng nhiều nhưng các trợ giúp này( trừ một số trợ cấp dài hạn )thường có tính chất tức thì và ngắn hạn. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo được coi là giải pháp có tính lâu dài và bền vững, giúp người nghèo thoát nghèo, tự đảm bảo cuộc sống của mình, góp phần tạo ra mạng lưới an sinh toàn diện cho mỗi quốc gia.- Thứ ba, xóa đói giảm nghèo , xét về lâu dài góp phần làm giảm gánh nặng cho hệ thống ASXH thông qua việc thu hẹp đối tượng cần trợ cấp ASXH. Khi tỉ lệ người nghèo giảm xuống tất yếu sẽ có ít người hơn cần trợ giúp của chính sách ASXH.
- Cuối cùng, xóa đói giảm nghèo tạo điều kiện cho chính sách ASXH tăng chất lượng hoạt động thông qua việc tăng mức trợ cấp ASXH. Khi đói nghèo giảm và xã hội giàu có hơn, các quỹ ASXH sẽ dồi dào hơn trong khi các đối tượng cần trợ cấp ASXH cũng giảm. Vì vậy. người nghèo nói riêng và những người gặp khó khăn nói chung có điều kiện để nhận mức trợ cấp ASXH tốt hơn.
3.Các chương trình xóa đói giảm nghèo
Các chương trình xóa đói giảm nghèo có thể chia ra làm 3 nhóm chính:
Nhóm các biện pháp tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất tăng thu nhập
Tín dụng ưu đãi cho người nghèo
Hỗ trợ đất sản xuất
Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu
Chương trình khuyến nông, lâm, ngư
Các chương trình hỗ trợ khác ( Tùy điều kiện cụ thể của mỗi nước)
Nhóm các biện pháp tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
Hỗ trợ về y tế cho người nghèo
Hỗ trợ người nghèo vè giáo dục
Hỗ trợ người nghèo về nhà ở
Hỗ trợ các dịch vụ về nước sạch và vệ sinh
Nhóm các biện pháp mở rộng mạng lưới ASXH đến với người nghèo.
4.Nguồn tài chính XDGN
1.2.2. Nguồn tài chính của xóa đói giảm nghèo
Nguồn tài chính xóa đói giảm nghèo thông thường bao gồm: - Ngân sách nhà nước(ngân sách trung ương và ngân sách sách địa phương). Phần chi tiêu này của ngân sách nhà nước là chi tiêu công. Dây là một trong những can thiệp quan trọng của nhà nước nhằm làm giảm bất cập của kinh tế thị trường là sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo,đảm bảo công bằng xã hội.- Huy động cộng đồng. Nguồn tài chính này có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Nó thể hiện tính cộng đồng và tình tương thân tương ái giữa các thành viên trong xã hội
- Huy động quốc tế. Trong nền kinh tế mở toàn cầu hóa, xóa đói giảm nghèo không phải chỉ là việc riêng của các nước nghèo,đang phát triển, mà là nhiệm vụ toàn cầu. - Vốn tín dụng. Đây chính là các khoản vay vốn tín dụng ưu đãi cho người nghèo, để người nghèo có các khoản vốn để đầu tư sản xuất, có điều kiện nâng cao thu nhập và thoát nghèo. Tùy vào điều kiện cụ thể của từng nước mà vai trò của từng nguồn vốn là khác nhau. Nhưng nhìn chung ngân sách nhà nước và vốn tín dụng là nguồn tài chính chủ yếu của chính sách xóa đói giảm nghèo. Cùng với đó sự giúp đỡ của cộng đòng và quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào việc xóa đói giảm nghèo giúp cho những người nghèo có cơ hội thoát nghèo.
5.Mục tiêu Thiên Niên Kỷ và XDGN
Tuyên bố Thiên niên kỷ với 8 mục tiêu:
Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói.
Đạt phổ cập giáo dục tiểu học.
Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ.
Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh.
Tăng cường sức khỏe bà mẹ.
Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác.
Đảm bảo bền vững môi trường.
Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển.
Những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp và gián tiếp xóa đói giảm nghèo một cách bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển. Một quốc gia khi không giải quyết dứt điểm xóa đói giảm nghèo thì luôn ẩn chứa nguy cơ phát triển không bền vững dẫn đến những hậu quả bất ổn định kinh tế - xã hội. Những mục tiêu đó cũng gợi mở những phương thức tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc xóa đói giảm nghèo.
PHẦN II . CÔNG CUỘC XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM TỪ 1945 TỚI NAY.
I.Quá trình thực hiện trước năm 1986
Trong thời kì từ năm 1945-1986, tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn, chiến tranh tàn phá nặng nề. Chính vì vậy trong thời kì này bên cạnh chống giặc ngoại xâm thì giặc đói là rất quan trọng. Nên Nhà nước tập nhiều chính phát triển nông nghiệp, đảm bảo ổn định lương thực quốc gia. Công cuộc xóa đói giảm nghèo ở giai đoạn nay đi sâu vào ‘ Xóa Đói’.
1. Giai đoạn 1945-1954
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính quyền Cách mạng ra đời chưa có thời gian củng cố, đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn thách thức của “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Đảng và Nhà nước ta đã bắt tay ngay vào giải quyết những khó khăn cấp bách của đời sống nhân dân, tăng cường thực lực cách mạng trên tất cả các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.. Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, một trong những chủ trương hàng đầu của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là “diệt giặc đói”. Ngày 6/1/1946, tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thời kỳ này (1946-1954) kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng nên cùng với việc động viên nông dân tích cực tăng gia sản xuất, Chính phủ đã từng bước thực hiện các chính sách về ruộng đất, giảm tô, giảm tức. Năm 1949, sắc lệnh giảm tô, giảm tức được ban hành, đồng thời tạm cấp ruộng đất thu được của thực dân Pháp và địa chủ bỏ chạy vào vùng địch tạm chiếm chia cho nông dân nghèo.
Kết quả
Trong các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, tốc độ tăng giá trị sản lượng nông nghiệp ở miền Bắc trong 9 năm kháng chiến đạt 10%/năm. Nhiều cơ sở công nghiệp quan trọng phục vụ quốc phòng và sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân được khôi phục và mở rộng. Chỉ tính riêng từ năm 1945 đến tháng 4/1953 ở vùng tự do và đến tháng 7/1954 ở vùng mới giải phóng, nông dân miền Bắc đã được chia 475.900 ha ruộng đất và ở Nam Bộ, chính quyền cách mạng đã chia cho nông dân 410.000 ha. Do lực lượng sản xuất được giải phóng, sản xuất nông nghiệp vùng giải phóng đạt mức tăng trưởng khá. Sản lượng lương thực quy thóc đạt 2,95 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946, trong đó riêng thóc đạt 2,3 triệu tấn tăng 15,9%.
>>Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kiệt quệ vì sự bóc lột lâu dài của đế quốc và phong kiến, dân tộc ta đã đứng lên kháng chiến 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
2. Giai đoạn 1955-1975
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta đứng trước một tình hình mới, cách mạng Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng độc lập dân tộc trong cả nước. nhà nước tập trung xóa đói bằng các chính sách nông nghiệp.
Để hỗ trợ cho nông nghiệp và nông thôn khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh và tàn dư của chế độ phong kiến, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và chính sách kinh tế, tài chính tích cực, trong đó nổi bật nhất là cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, 810.000 ha đất nông nghiệp của địa chủ được tịch thu và chia cho nông dân nghèo.
Kết quả Sau 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957), diện tích gieo trồng tăng 23,5%, năng suất lúa tăng 30,8%, sản lượng lương thực tăng 57%, lương thực bình quân đầu người tăng 43,6%, đàn trâu tăng 44,2%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 20% so với năm 1939. Trong hoàn cảnh sau chiến tranh nhưng kết quả đạt được như trên là rất đáng ghi nhận, trong đó nổi bật nhất là lương thực bình quân đầu người năm 1957 đã đạt 303 kg. Đến năm 1957, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi vượt mức cao nhất dưới thời Pháp thống trị (1939).
Sản lượng lương thực năm 1970, toàn miền Bắc đạt 5.278.900 tấn, tăng hơn năm 1969 hơn nửa triệu tấn. Năng suất lúa cả năm đạt 43,11 tạ trên 1 ha ruộng hai vụ. Tỉnh Thái Bình và thành phố Hà Nội đạt năng suất bình quân trên 5 tấn thóc/ha. 30 huyện, 2.265 hợp tác xã đạt năng suất bình quân 5 tấn thóc/ha. Thu nhập bình quân đầu người của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 20% so với năm 1965. Cùng với phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng nâng lên. Lấy năm 1957 làm gốc so sánh, Quỹ tiêu dùng của nhân dân tính bình quân đầu người tăng 82,8%; thu nhập bình quân đầu người của gia đình công nhân viên chức tăng 48,5%; của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng 73,8%.
3. Giai đoạn 1975-1986
Sau khi lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Đảng ta lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để thực hiện thành công nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, Đại hội VI của Đảng đã đề ra mục tiêu là “bảo đảm nhu cầu ăn của toàn xã hội và bước đầu có dự trữ. Vấn đề lương thực phải được giải quyết một cách toàn diện”.
Đại hội IX Đảng đã đưa nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo vào trong chính sách phát triển văn hóa - xã hội của đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm... đối với những vùng nghèo, xã nghèo, nhóm dân cư nghèo”
Kết quả.
+kết quả sản xuất trong 5 năm 1976-1980 chưa tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra; những mất cân đối của nền kinh tế quốc dân còn trầm trọng; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định; đời sống của nhân dân lao động còn khó khăn. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. + Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7% đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
II.Quá trình thực hiện sau năm 1986.
Giai đoạn 1986-1990
Đây là giai đoạn nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc này nền kinh tế nước ta còn nhiều biến động, khủng hoảng, đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ 15 đến 18-12-1986) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong thập niên đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đưa ra ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Kết quả
Từ chỗ thiếu ăn triền miên (năm 1988, năm ta phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990, chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân và thay đổi cán cân xuất - nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xóa bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hòa cung cầu lương thực thực phẩm trên phạm vi cả nước. Sản lượng lương thực năm 1988 đạt 19,50 triệu tấn (vượt năm 1987 hơn 2 triệu tấn) và năm 1989 đạt 21,40 triệu tấn.
Giai đoạn từ 1990 đến nay
Đầu thập niên 1990, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số liệu trẻ em suy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991, vấn đề xoá đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển khai thành phong trào xoá đói giảm nghèo. Tổng bí thư Đỗ Mười khi đó rất quan tâm đến chương trình này, ông lo lắng thế hệ con cháu mai sau bị ảnh hưởng do đói nghèo hôm nay.
Nghị quyết Quốc hội Việt Nam về nhiệm vụ năm 1993 đã đánh giá cao tinh thần cộng đồng, tương thân tương ái "trong nhân dân đã phát triển nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ nhau và phong trào xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa..." Sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy ngày 17 tháng 10 là "Ngày vì người nghèo", đó cũng là ngày Liên hợp quốc chọn là ngày "Thế giới chống đói nghèo".
Từ năm 1998, một chiến lược giảm nghèo đã được chính phủ xây dựng là cơ sở hình thành chính sách xóa đói giảm nghèo quốc gia. Cùng với đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn, chính phủ đã phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo theo quyết định số 133/1998/QĐ – TTg bao gồm 9 dự án với các nội dung chính đó là: đầu tư cơ sở hạ tầng và sắp xếp lại dân cư; định canh định cư, di dân và kinh tế mới; hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc khó khăn ; hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo.
Bên cạnh đó chương trình 135 cũng được ra đời nhằm hỗ trợ cho các xã đặc biệt khó khăn phát triển kinh tế xã hội, chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng.
Chương trình 135 chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn I (1997-2006): Nội dung của chương trình:
- Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số.
- Phát triển cơ sở hạ tầng.
- Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch.
- Nâng cao đời sống văn hóa.
Giai đoạn II (2006-2010): Chính phủ Việt Nam đã xác định có 1.946 xã và 3.149 thôn, buôn, làng, bản, xóm ấp đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II thuộc 45 tỉnh, thành được đưa vào phạm vi của Chương trình 135. Mục tiêu của chương trình:
- Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường.
- Cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
- Giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước.
- Đến năm 2010: Trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%.
2001: sáp nhập với Chương trình 120 thành CTMTQG xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005
Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc công bố
2004 ,Chính phủ Việt Nam áp dụng Chương trình 134 là chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn
Nội dung chính của chiến lược xóa đói giảm nghèo 2001 – 2010 với mục đích đầu tư hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo có tư liệu và phương tiện sản xuất, dịch vụ, nâng cao thu nhập; tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và mạng lưới an sinh xã hội; đảm bảo xóa đói giảm nghèo bền vững. Chiến lược này chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 2001 – 2005:
Chương trình mục tiêu quốc gia bao gồm các chính sách và dự án sau đây:
1. Các chính sách hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo
2 .Các dự án hỗ trợ trực tiếp xóa đói giảm nghèo
Giai đoạn 2006 – 2010:
Có 1 chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, chia làm 3 nhóm chính sách:
1. Nhóm chính sách, dự án để tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập
2. Nhóm chính sách tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội:
3. Nhóm dự án nâng cao năng lực và nhận thức
Kết quả
Giai đoạn 1990 đến nay , cùng với các chính sách phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo đã được triển khai và giành được những kết quả rất quan trọng, thành tựu xóa đói giảm nghèo đã góp phần tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
Đây là một chương trình quan trọng nằm trong chương trình thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Đảng, Nhà nước ta đã ban hành chính sách giảm nghèo kịp thời, đúng thực tiễn. Năm 2010, Chương trình 135 giai đoạn 2 kết thúc, các mục tiêu cơ bản đã đạt được: giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 30% và tăng thu nhập lên 3,5 triệu đồng/hộ/năm góp phần tạo nên diện mạo mới về kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số. Những kết quả đó được Chính phủ và cộng đồng quốc tế ghi nhận của mô hình giảm nghèo ở Việt Nam. Cụ thể:
- Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc tế, đã giảm liên tục từ 60% năm 1990 xuống 58% năm 1993, 37% vào năm 1998, 32% năm 2000, 29% năm 2002 và còn 18,1% năm 2006. Căn cứ vào chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao Động thương bình và xã hội ban hành, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ hơn 30% năm 1990 xuống còn xấp xỉ 17% năm 2001.
GIAI ĐOẠN 2006-2010
Kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo qua các năm:
2006: còn 18,1%;
2007: còn 14,75%;
2008: còn 12,1%;
2009: còn 11,3 %;
2010: còn 9,45% vượt mức đề ra 10%.
Kết quả các chương trình dự án thực hiện.
Chương trình, dự án
Kết quả đạt được
Chỉ tiêu đề ra
1.Tín dụng ưu đãi hộ nghèo
Ước đạt 6,2 triệu lượt hộ vay; bình quân 7-8 triệu VNĐ/hộ, đạt 103,3% kế hoạch
6 triệu lượt vay
2. Dự án khuyến nông – lâm – ngư, dạy cách làm ăn
Ước đạt 3,7 triệu lượt người nghèo, đạt 85% kế hoạch
4,2 triệu lượt người nghèo
3. Dạy nghề cho người nghèo
Ước 4 năm dạy nghề miễn phí cho 150.000 người nghèo, đạt 100% kế hoạch 5 năm, 60% có việc làm;
150.000 lượt người nghèo
4. Hỗ trợ khám chữa bệnh
4 năm có 52 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT, đạt trên 90%;
100% người nghèo được cấp thẻ BHYT
5. Miễn, giảm học phí
Ước 5 năm có 10 triệu học sinh nghèo được miễn học phí; 2,8 triệu HS được cấp sách giáo khoa;
Miễn, giảm học phí 19 triệu lượt HS nghèo, trong đó có 9 triệu HS tiểu học
6. Nâng cao năng lực giảm nghèo
Ước 5 năm tập huấn nâng cao năng lực cho 180.000 lượt cán bộ cơ sở, đạt 105,8% KH
170.000 lượt cán bộ
7. Hỗ trợ nhà ở
4 năm đã hỗ trợ được 350.000 hộ nghèo
Xóa nhà tạm cho 500.000 hộ nghèo
8. Hỗ trợ xây dựng CSHT xã đặc biệt khó khăn bãi ngang ven biển, hải đảo
4 năm đã đầu tư xây dựng 2.000 công trình hạ tầng phục vụ sản xuất ở 273 xã (ước 5 năm có khoảng 2.500 công trình)
2.500 công trình
III. Hạn chế, khó khăn và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện XDGN
1.Hạn chế
- Trong tiến trình mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, thách thức do phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế,trong khi chất lượng nền kinh tếcòn thấp, hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh kém, nhất là giá cả nông sản không ổn định và có xu hướng cánh kéo giḠgiữa hàng nông sản và hàng công nghiệp tăng lên ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân, nhất là người thu nhập thấp.
- Số lao động chưa có và thiếu việc làm còn lớn và số lao động được qua đào tạo còn thấp. Khả năng tạo việc làm và nâng cao năng suất lao động của xã hội còn hạn chế, trong khi dân số và nguồn lao động vẫn tiếp tục tăng với tốc độ cao làm cho sức ép về việc làm tăng lên
- Xu hướng gia tăng chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng vẫn còn lớn (cả về chênh lệch khả năng tiếp cận các dịch vụ và chi phí phải trả cho một số dịch vụ còn cao), đòi hỏi phải kết hợp hài hòa phát triển các vùng để có tốc độ phát triển cao, vừa hỗ trợ dầu tư nhiều cho các vùng còn khó khăn. Như vậy vừa phải xây dưng kinh cơ cấu kinh tế có hiệu quả, vừa phải nâng cao sức cạnh tranh, vừa phải hoàn thiện một bước cơ bản kết cấu hạ tầng, đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời vừa phải giải quyêt những vấn đề xã hội bức xúc, tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo
- Nguồn lực trong nước còn quá hạn hẹp, phải đầu tư lớn cho nguồn lực
+ Vẫn còn là nước nông nghiệp, đến năm 2004 vẫn còn 74.1% dân sống ở nông thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân thấp.
+ Nền kinh tế phát triển không bền vững. tăng trưởng tuy cao nhưng chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước thấp
+ Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, chủ yếu vẫn cong ưu tiên các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, nông dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước
- Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào nông nghiệp.
- Trong thời gian qua, việc thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo còn dàn trải, trùng lắp, thiếu tính đồng bộ. Đây là bài toán chi phí– hiệu quả cần được xử lý cả trên phương diện chính sách vĩ mô và quá trình tổ chức thực hiện, nhằm tập hợp và sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn lực giảm nghèo.
2.Khó khăn
Vấn đề tái nghèo, cận nghèo: Hiện nay tỷ lệ tái nghèo vẫn chiếm 7-10% trong tổng số thoát nghèo hằng năm. Với việc áp dụng chuẩn nghèo mới và tình hình giá cả hàng hóa liên tục tăng cao, tình trạng tái nghèo sẽ diễn ra đối với không ít các hộ mới thoát nghèo hoặc ở mức cận nghèo dễ dàng rơi vào tình trạng nghèo khi gặp những biến động, rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, dịch bệnh, ốm đau… Đây là thách thức lớn nhất để bảo vệ thành quả giảm nghèo, và cũng là thách thức đối với việc đạt được chỉ tiêu giảm hộ nghèo 2%/năm theo mục tiêu mà Nghị quyết ĐH Đảng XI đề ra;
- Với xu hướng nghèo tập trung vào đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số và khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, công tác giảm nghèo trong thời gian tới sẽ càng khó khăn hơn vì đây là khu vực dân cư chịu tác động mạnh mẽ của phong tục tập quán bản địa. Mặt khác, việc thiết kế các chính sách xóa đói giảm nghèo cho nhóm đối tượng này thời gian qua còn nặng tính bao cấp tạo nên tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước; một bộ phận dân cư còn mặc cảm, tự ty, cam chịu đói nghèo, thiếu ý chí vươn lên thoát nghèo bằng năng lực của chính mình.
- Vấn đề giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội: Khoảng cách về thu nhập giữa các nhóm dân cư, các vùng địa lý ngày càng doãng rộng trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ngày càng tăng cao đương nhiên đưa tới hệ lụy là làm giảm cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo. Đây là thách thức đặt ra đối với chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện chính sách giảm nghèo trong thời gian tới;
- Khả năng phát sinh hình thức nghèo mới: Quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới cùng tốc độ đô thị hóa tăng nhanh tạo ra luồng dịch chuyển mạnh mẽ lao động – dân cư từ nông thôn ra thành thị. Bên cạnh đó, vấn đề nông dân không có đất sản xuất do chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất công nghiệp, đất dịch vụ và khu đô thị sẽ dẫn tới sự gia tăng người nghèo đô thị. Lạm phát và sự gia tăng chóng mặt của giá cả khiến rổ hàng hóa thiết yếu của người nghèo đô thị teo tóp rất nhanh và đặt ra nhiều vấn đề nan giải để giảm nghèo với đối tượng đặc thù này từ góc nhìn nghèo đa chiều;
3.Bài học kinh nghiệm
Sự nghiệp xóa đói giảm nghèo là của toàn Đảng, toàn dân. Do đó, cần có sự nỗ lực của tất cả mọi người, trước hết là những cơ quan tổ chức chịu trách nhiệm trong các chủ trương, chính sách đó. Nâng cao và thống nhất về nhận thức trách nhiệm của các cấp ủy Đảng chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, từ các cấp lãnh đạo đến quần chúng nhân dân.
Xây dựng một bộ máy có đủ năng lực trình độ, nhiệt tình trong công việc, có cái nhìn khách quan và toàn diện về nghéo đói. Từ đó có cách tiếp cận tốt, thực hiện với các công cụ chính sách một cách hiệu quả.
Tăng nguồn lực đầu tư cho chương trình xóa đói giảm nghèo. Tăng khả năng huy động vốn tại các huyện thị. Ưu tiên vốn tín dụng cho vùng cao vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn, tăng tính bền vững cho xóa đói giảm nghèo. Triển khai tổ chức thực hiện chương trình một cách linh hoạt nhất m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về Xóa Đói Giảm Nghèo ở Việt Nam từ năm 1945 tới nay.doc