Đề tài Tự do hoỏ lói suất ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 2

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT 2

1. KHÁI NIỆM 2

2. PHÂN LOẠI LÃI SUẤT 2

2.1 Phân loại theo nguồn sử dụng : 2

2.2 Phân loại theo giá trị thực: 3

2.3 Phân loại theo độ dài thời gian: 4

2.4 Phân loại theo loại tiền: 4

2.5 Phân loại theo phương pháp tính lãi: 4

3. LÃI SUẤT HOÀ VỐN BÌNH QUÂN 6

4. PHÂN LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG 7

5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT 7

5.1 Mức cung cầu tiền tệ 7

5.2 Lạm phát 10

5.4 Các chính sách của Nhà nước 13

5.5 Cân đối ngân sách Nhà nước : 15

5.6 Các nhân tố khác 16

II. LÍ LUÂN VỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 16

1. CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT 16

1.1 Cơ chế điều hành gián tiếp: 16

1.2 Cơ chế điều hành trực tiếp 17

1.3 Các mức lãi suất thường được công bố 17

2. THẾ NÀO LÀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 18

3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 19

PHẦN II: THỰC TRẠNG 20

A. QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 20

I. KHU VỰC TÀI CHÍNH VÀ TIẾN TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TRƯỚC NĂM 2000 20

1. CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG HAI CẤP VÀ ĐỢT TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT ĐẦU TIÊN 20

2. CẢI CÁCH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BƯỚC HAI 23

II. TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TỪNG BƯỚC TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2002 28

1. CẢI CÁCH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BƯỚC BA: CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CƠ BẢN THAY CHO LÃI SUẤT TRẦN 28

2. CẢI CÁCH LÃI SUẤT BƯỚC 4: ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT THEO CƠ CHẾ LÃI SUẤT THOẢ THUẬN 32

B. ĐÁNH GIÁ CHUNG 33

I. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TIẾN TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 33

II. ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHNN 36

1. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT LÃI SUẤT CỦA NHNN 36

2. NHỮNG YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI 38

III. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA TRÊN CON ĐƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM SAU KHI THỰC HIỆN CƠ CHẾ LÃI SUÂT THOẢ THUẬN 44

PHẦN III: BIỆN PHÁP 48

I. NHÓM BIỆN PHÁP VĨ MÔ 48

1. NGÂN HÀNG NÀH NƯỚC CẦN BAN HÀNH VĂN BẢN PHÁP LÝ TẠO ĐIỀU KIỆN CHO THƯƠNG PHIẾU LƯU HÀNH TẠI VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN 48

2. NHÀ NƯỚC CẦN SỚM BAN HÀNH LUẬT THANH TOÁN SÉC TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ VỮNG CHẮC CHO VIỆC MỞ RỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 48

3. NHÀ NƯỚC CẦN NGHIÊN CỨU SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 48

4. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 49

4.1 Lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất mục tiêu trong từng thời kỳ 49

4.2 Xây dựng mô hình kiểm soát lãi suất của NHNN 50

4.3 Quản lý các loại lãi suất thị trường 51

II. NHÓM CÁC BIỆN PHÁP VI MÔ 53

1. XÂY DỰNG VÀ TỪNG BƯỚC HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 53

1.1 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin tài chính 53

1.2 Xây dựng và phát triển thị trường tài chính 53

2. NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 53

KẾT LUẬN 56

 

 

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1883 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tự do hoỏ lói suất ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khu vực. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, yêu cầu phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn... , cơ chế lãi suất trần đã trỏ nên không còn thích hợp, làm méo mó sự phân bổ nguồn vốn trong xã hội và hạn chế khả năng cạnh tranh giữa cac TCTD, hạn chế sự luân chuyển vốn trong xã hội, cũng như sự phát triển các công cụ thị trường tiền tệ. Đặc biệt, trong tình hình diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế trong năm 200 có xu hướng ngày càng tăng, việc thực hiện cơ chế lãi suất trần cho cả VND và ngoại tệ đã cản trở việc huy động vốn từ nước ngoài, gây thua thiệt cho DN cũng như các TCTD. Lí do căn bản của lãi suất trần là để hạn chế vấn đề lựa chọn bất lợi; tức là hạn chế xu hướng các ngân hàng nâng lãi suất để cạnh tranh huy động vốn rồi cho vay rủi ro, một tình trạng đã xảy ra trong cuộc đổ vỡ quỹ tín dụng vào năm 1990. Tuy vậy, trong trường hợp của Việt Nam, chính sách trần lãi suất là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống áp chế tài chính (ít nhất là trong thập niên 90) và sự kết hợp với sự chỉ định tín dụng nhằm đảm bảo các khu vực ưu tiên của chính phủ được nhân vốn vay với lãi suât vừa phải. Một minh chứng cho nhận định này là các ngân hàng có thể huy động và cho vay với lãi suất vượt trần đối với “huy động vốn cho mục tiêu cụ thể” (purposeslinked mobilized funds). Tức là đối với những dự án đã xác định, ngân hàng có thể huy động tiền gửi với lãi suất cho vay cao hơn lãi suất trần. Nếu ngăn chặn lựa chọn bất lợi là lý do chính yếu để áp đặt lãi suất trần thì kiểu “vốn huy động cho mục tiêu cụ thể” không bao giờ được phép. Hệ thống ngân hàng và chính sách lãi suất trong hai năm 1998-99 chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á Với đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi, tài khoản vốn đóng, và giá trị tiền cùng với tài sản nợ chính M3 còn nhỏ so với GNP, hệ thống ngân hàng Việt Nam không phải chịu các tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng châu Á. Chính vì vậy, trong năm 1997 và đầu năm 1998 NHNN đã không siết chặt kiểm soát lãi suất mà thậm chí còn nới lỏng. Trần lãi suất được nâng lên để các NHTM (đặc biệt là các ngân hàng cổ phần) có thể tăng lãi suất tiền gửi để huy động vốn trong năm 1997. Trong bối cảnh bắt đầu có sự cạnh tranh lãi suất giữa các ngân hàng, quy định giới hạn chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi trong khoảng 0,35% tháng dần dần không còn tác dụng và cuối cùng được huỷ bỏ. Tuy nhiên, trái với nhiều dự đoán của chính phủ, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu tác động khá mạnh (mặc dù gián tiếp) của cuộc khủng hoảng từ giữa năm 1997. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, chất lượng tài sản có của các ngân hàng suy giảm khi các doanh nghiệp vay nợ gặp khó khăn do tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài suy giảm. Nhiều khoản cho vay DNNN của các ngân hàng thương mại quốc doanh trở thành nợ khó đòi. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhập khẩu mở một khối lượng tín dụng thư trả chậm (deffered L/Cs) lớn trong hai năm 1995, 1996 và đáo hạn vào cuối năm 1997, đầu năm 1998. Việc nhiều doanh nghiệp trong số này không có khả năng thanh toán (mà tình hình còn trầm trọng hơn sau khi đồng nội tệ được phá giá 10% vào tháng 8 năm 1998) buộc các ngân hàng phải chịu gánh nặng chi trả cho phía nước ngoài. Một số ngân hàng cổ phần vì thế rơi vào tình trạng gần như phá sản. Từ cuối năm 1998, Chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm giảm nhẹ khó khăn cho các DNNN bao gồm việc hạ lãi suất tiền gửi và nới lỏng tín dụng Tác động của việc làm này được đánh giá như sau: _Thứ nhất, lãi suất giảm nhưng lượng tiền gửi tại ngân hàng vẫn ổn định _ Thứ hai, tín dụng nội địa tăng nhưng không hoàn toàn do lãi suất giảm. Hầu hết sự gia tăng tín dụng nằm ở hạn mức tín dụng chỉ đạo bao gồm tín dụng cho các DNNN, chương trình mía đường, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và khắc phục hậu quả thiên tai. _ Thứ ba, gia tăng tín dụng trong khu vực nhà nước trong khi tiền gửi không tăng lên, nên các NHTM giảm dự trữ phụ trội cũng như tăng vay vốn từ NHNN. Đặc biệt, khi dự trữ phụ trội cạn kiệt, NHNN đã ra quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng từ 10% xuống 7% lượng tiền gửi ngắn hạn vào tháng 2/1999. Một tình trạng xảy ra trong năm 1999 là trong khi tiền gửi ngoại tệ tăng cao thì tăng trưởng dư nợ cho vay ngoại tệ lại không theo kịp. Theo quy định của NHNN, các DN chỉ được vay ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu máy móc. thiết bị hay chi trả dịch vụ phí mua từ các tổ chức nước ngoài. Hạn chế này tới tháng 9/2000 mới được tháo gỡ, từ đó cho phép các NHTM mở rộng đối tượng khách hàng vay ngoại tệ. Tiền gửi ngoại tệ gia tăng và các NHTM chuyển số tiền này vào các tài khoản tiền gửi ở nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất. Đánh giá của cơ chế điều hành lãi suất theo trần Ưu điểm Lãi suất tín dụng được gắn chặt với chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ giá và quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ, tín dụng; lãi suất cho vay được xác định phù hợp nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao; lãi suất tiền gửi được tự do hoá. Lãi suất cho vay được quy định theo trần, có sự phân biệt giữa trần lãi suất cho vay : ngắn hạn và trung hạn, dài hạn; cho vay khu vực thành thị và khu vực nông thôn; cho vay các NHTM và hệ thống QTDND. Nhìn chung, trần lãi suất cho vay của các TCTD giảm dần qua các năm từ 1996 đến thời điểm 7/2000. Lãi suất ngoại tệ được điều chỉnh phù hợp kịp thời với lãi suất thị trường quốc tế giảm thiểu chênh lệch lãi suất cho vay nội tệ và lãi suất cho vay ngoại tệ. Hạn chế Cơ chế trần lãi suất là một biện phap can thiệp hành chính của Nhà nước, làm cho lãi suất đôi khi không phản ánh đúng quan hệ cung-cầu vốn trên thị trường, hạn chế mức độ cạnh tranh, hạn chế việc huy động và cho vay vốn dài hạn (do bị khống chế bởi trần); việc phân bổ các nguồn tín dụng theo lĩnh vưc kinh tế và địa bàn lãnh thổ gặp khó khăn. Có nhiều mức lãi suất trần, vấn đề này xuất phát từ điều kiện khách quan là sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực thị trường tiền tệ, sự chênh lệch về quy mô và năng lực tài chính giữa các TCTD. Trần lãi suất đã gò bó tính chủ động linh hoạt trong kinh doanh của các TCTD, khó xử linh hoạt, hài hoà mối quan hệ về lợi ích giữa người gửi tiền và người đi vay. Cơ chế trần lãi suất làm hạn chế việc hình thành và phát triển của các công cụ tài chính trên thị trường, vì các TCTD áp dụng phổ biến là lãi suất cố định, chưa có thước đo để áp dụng lãi suất linh hoạt. Trần lãi suất được điều chỉnh theo xu hướng giảm thấp để hỗ trợ cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh nhưng lại làm cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động của các TCTD bị giảm thấp (dưới 0.2% tháng), nhiều tổ chưc tín dụng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Cơ chế trần lãi suất áp dụng cho cả đồng Việt Nam với lãi suất ngoại tệ trong nước, lãi suất ngoại tệ trong nước với lãi suất trên thị trường quốc tế trỏ nên kém linh hoạt, cản trở việc huy động vốn từ nước ngoài và sự thua thiệt cho doanh nghiệp và TCTD Việt Nam. II. TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TỪNG BƯỚC TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2002 CẢI CÁCH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BƯỚC BA: CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CƠ BẢN THAY CHO LÃI SUẤT TRẦN Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Để phù hợp với xu hướng đổi mới hoạt động ngân hàng và trên cơ sở luật Ngân hàng nhà nước từ tháng 8/2000-5/2001, NHNN đã thực hiện cơ chế điều hành lãi xuất theo luật NHNN (cơ chế điều hành lãi suất cơ bản) thay cho cơ chế lãi suất trần. Theo cơ chế này, NHNN công bố lãi suất cơ bản hằng tháng. + Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay của các NHTM áp dụng đối với khách hàng tốt nhất và một biên độ thích hợp thể hiện bằng số phần trăm tuyệt đối. Lãi suất cho vay và huy động của TCTD gắn với lãi suất cơ bản của NHNN. + Biên độ trên được quy định hợp lý để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh doanh và mức độ rủi ro cụ thể, đồng thời NHNN kiểm soát được lãi suất cho vay. Biên độ trên phân biệt đối với lãi suất áp dụng giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, giữa các loại hình TCTD (trừ QTDND cơ sỏ) mà chỉ quy định có sự phân biệt giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất trung hạn, dài hạn. Biên độ trên bao gồm cả các khoản phí liên quan đến khoản vay nhằm tránh việc TCTD lợi dụng thu phí để nâng lãi suất cho vay lên quá mức biên độ cho phép. Trên nguyên tắc trên, các TCTD được phép cộng thêm biên độ, đối với cho vay ngắn hạn cộng 0,3% tháng, cho vay trung và dài hạn cộng 0,5% tháng, đối với lãi suất ngoại tệ theo lãi suất SIBOR cộng với biên độ. Và đến tháng 6/2001, lãi suất ngoại tệ đã được tự do hóa, mức cho vay và huy động ngoại tệ đều do các NHTM tự quyết định theo cung vốn trên thị trường, riêng lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các DN tại NHTM, và tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN chưa được tự do hoá mà nhằm khuyến khích các DN bán ngoại tệ cho các NHTM không gửi ngoại tệ ra nước ngoài. Bảng 4: Mức lãi suất cơ bản 8/2000 – 7/2002 Thời điểm Mức lãi suất cơ bản 8/2000 – 2/2001 0,750 3/2001 0,725 4-5/2001 0,700 6-9/2001 0,650 10/2001 – 7/2002 0,600 Nguồn NHNN Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn so với trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều.Thực tế lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn NHTM quốc doanh đã kịch trần (0,85% tháng). Thực tế là trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN, lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất. Từ tháng 8/2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng biên độ 0,3% tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sỏ thoả thuận với khách hàng (Biên độ lãi suất cơ bản không hạn chế lãi suất , ít nhất là ở khu vực thành thị. Còn ở khu vực nông thôn, việc áp dụng lãi suất thoả thuận giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng đã được thực thi trong thời gian dài). Một điểm đáng chú ý nữa là lãi suất cho vay của các NHTM, mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản, nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng lãi suất chovay vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt. Ý kiến bình luận Có ba ý kiến khác nhau bình luận về cơ chế điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản của NHNN. Ý kiến thứ nhất cho rằng lãi suất cơ bản cộng với biên độ không khác gì với trần lãi suất trước đây và, do vậy, sẽ không tạo ra tác động gì nhiều tới các mức lãi suất cũng như hành vi huy động và cho vay vốn của các ngân hàng. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người vay vốn nhỏ (như tiểu thương, hộ sản suất nhỏ và cá nhân) ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Đó là do chi phí cho vay các đối tượng này thường lớn hơn nên không thể cho vay trong khuôn khổ trần lãi suất hay lãi suất cơ bản cộng biên độ. Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tính tích cực của cơ chế lãi suất cơ bản. Trong phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng giờ đây có thể định mức lãi suất cho vay khác nhau tuỳ theo mức độ rủi ro, chứ không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Như vậy cạnh tranh trong hệ thống các TCTD sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn nữa, lãi suất cho vay thực tế của ngân hàng mặc dù không đụng tới biên độ nhưng có xu hướng thay đổi cùng với mức lãi suất cơ bản. Thực ra, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo tình hình thay đổi của lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu để có thể tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất. Ý kiến thứ ba lại mang tính bi quan trước cơ chế lãi suất mới. Theo ý kiến này, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các DNNN chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng thêm quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai thực tế này. Đó là vì, ngân hàng sẽ sẵn sàng cho những doanh nghiệp mà nhà nước được chính phủ bảo lãnh ngầm vay vốn với lãi suất trong khoảng 0,6-0,65% tháng trong khi khu vực tư nhân có thể phải trả lãi suất tới 0,75-0,8% tháng vì các ngân hàng coi cho khu vực này vay vốn là rủi ro hơn. Ưu diểm và nhược điểm Ưu điểm Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với điều kiện thực tế thời kỳ 2000-2001; Cơ chế điều hành lãi suất mới vừa có yếu tố thị trường, vừa có yếu tố quản lý nhà nước. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản không gây biến động làm tăng mặt bằng lãi suất huy động vốn và cho vay của các TCTD. Đồng thời tạo khuôn khổ linh hoạt hơn cho các TCTD trong việc ấn định lãi suất huy động và cho vay phù hợp với của từng vùng và từng đối tượng khách hàng; góp phần khuyến khích huy động vốn, mở rộng tín dụng, giải toả vốn ứ đọng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế. Do vậy, đến cuối năm 2001, số dư tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng 18%, dư nọ cho vay tăng 25% so với cùng kỳ 2000. Lãi suất cho vay bằng đồng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác phù hợp với lãi suất quốc tế, gắn thị trường tiền tệ trong khu vực và trên thế giới. Cơ chế lãi suất thoả thuận đã khuyến khích cho vy trung và dài hạn bằng ngoại tệ. Dư nợ cho vay ngoại tệ đến cuối năm 2001 tăng 6,5% so với cùng kỳ 2000, trong đó dư nợ cho trung, dài hạn tăng 5,5% so với cùng kỳ. Biên độ lãi suất cho vay được quy định đủ rộng đối với cho vay bằng đồng Việt Nam, không phân biệt biên độ giữa các khu vực và giữa các loại hinh TCTD (trừ QTDND cơ sở) mà chỉ sự phân biệt biên độ giữa lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất cho vay trung, dài hạn. Biên độ trên bao gồm cả các khoản phí liên quan đến khoản vay, tránh việc các TCTD lợi dụng phí vượt biên độ cho phép, không còn tình trạng vi phạm về lãi suất cho vay như quy định về trần lãi suất trước đây. Hạn chế Về thực chất, cơ chế lãi suất cơ bản vẫn còn sự can thiệp của nhà nước, thể hiện ở việc khống chế biên độ lãi suất. Trên thực tế, lãi suất cho vay và huy động vốn của các TCTD trên địa bàn thành thị về cơ bản đã thực hiện theo thoả thuận; đối với địa bàn nông thôn lãi suất cho vay đã sát biên độ được phép, làm cho lãi suất nhiều khi không phản ánh đúng cung cầu vốn tín dụng trên thị trường, các TCTD gặp khó khăn trong việc huy động và cho vay vốn. Việc khống chế biên độ lãi suất làm cho các TCTD không thể phản ánh kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong nước và ngoài nước có biến động, chênh lệch lãi suất huy động tăng, nhưng lãi suất cho vay không thể tăng được nữa. Cơ chế lãi suất có sự kiểm soát bằng công cụ hành chính phù hợp với yêu cầu của việc phát huy và khai thác nguồn vốn nội lực đáp ứng yêu cầu của việc phát huy và khai thác nguồn vốn nội lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế, vì với tư cách là “hàng hoá”, nó phải được vận hành theo quan hệ cung- cầu, nếu lãi suất không phù hợp, việc huy động vốn và cho vay sẽ rất khó khăn. Vì vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản cộng thêm biên độ sau một thời gian thực hiện cần thiết tiếp tục đổi mới phù hợp với thực tế điều kiện thị trường tiền tệ trong thời gian tới . CẢI CÁCH LÃI SUẤT BƯỚC 4: ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT THEO CƠ CHẾ LÃI SUẤT THOẢ THUẬN Tự do hóa lãi suất Vào tháng 11 năm 2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xoá bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ trong nước thương lượng lãi suất với cac ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6 năm 2002, lãi suất được tự do hoá hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất chovay trên cơ sở tự định và thương lượng với khách hàng. NHNN bãi bỏ biên độ chênh lệch lãi suất cho vay, lãi suất bằng đồng Việt Nam được các TCTD xác định trên cơ sở cung-cầu về vốn trên thị trường và mức độ tín nhiệm đối vơi khách hàng tốt nhất, đồng thời NHNN áp dụng các biện pháp để kiểm soát biến động của lãi suất trên thị trường; tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Có thể nói đó là một bước tiến quan trọng trong quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Để định hướng lãi suất thị trường, từ tháng 3/2003, NHNN bước đầu hình thành khung lãi suất với lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh theo hướng làm lãi suất sàn của thị trường liên ngân hàng; đồng thời áp dụng phân bổ hạn mức chiết khấu. Lãi suất nghiệp cụ thị trường mở được điều hành linh hoạt trong khung lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Đồng thời, để hỗ trợ cho việc tự do hoá lãi suất, NHNN đã ban hành quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, cũng như cho phép thực hiện thí điểm giao dịch hoán đổi giá cả hàng hoá. Ngoài ra khi có yêu cầu, NHNN vẫn xem xét, cho phép các NHTM thực hiện thí điểm từng trường hợp cụ thể đối với các giao dịch phát sinh khác. Các biện pháp hỗ trợ này đã góp phần tạo điều kiện để các NHTM đa dạng hoá các sản phẩm hạn chế và phòng chống rủi ro phục vụ khách hàng Quan điểm ủng hộ Ở thời điểm sau năm 2002, tự do hoá lãi suất thực sự đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi bức xúc về cung cầu vốn của nền kinh tế. Một số quan điểm ủng hộ tự do hoá lãi suất hy vọng rằng lãi suất giờ đây lãi suất sẽ phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường vốn vay. Hơn thê nữa, khi lãi suất cơ bản chỉ còn tính chất tham khảo thì các ngân hàng hoàn toàn có thể cho các đối tượng kinh doanh nhỏ hay nông dân vay với lãi suất phản ánh các chi phí cho vay và rủi ro. Thống đốc NHNN Lê Đức Thuý cho rằng: “Ưu điểm lớn nhất của cơ chế này là tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy động cho vay với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và nhanh hơn vốn cho người cần vay…Một tác động khác của cơ chế mới là: Tạo thuận lợi cho việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường, nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với thị trường tài chính quốc tế của các TCTD Việt Nam” Những người ủng hộ tự do hoá lãi suất cũng không coi việc quy định biên độ lãi suất cho vay so với lãi suất cơ bản là nguyên nhân dẫn tới tình trạng gia tăng lãi suất. Theo họ, sự gia tăng lãi suất phản ánh tình trạng khan hiếm vốn vay trong năm 2002, và thực tế là lãi suất đã tăng trước quyết định tự do hoá lãi suất nhiều tháng. Trong năm 2001 và 2002, nguồn vốn của các ngân hàng không đáp ứng nhu cầu vay, đặc biệt là vay trung và dài hạn. B. ĐÁNH GIÁ CHUNG I. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TIẾN TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Chính sách lãi suất có khả năng loại bỏ những người cho vay nhỏ Trong phạm vi biên độ cho phép, các ngân hàng giờ đây có thể định mức lãi suất cho vay khác nhau tuỳ theo mức độ rủi ro, không còn áp dụng một mức chung cho tất cả các khách hàng như trước đây. Như vậy, cạnh tranh trong hệ thống các TCTD sẽ gia tăng và hiệu quả phân bổ vốn cũng sẽ được cải thiện. Hơn thế nữa, lãi suất cho vay thực tế của ngân hàng mặc dù không đụng giới hạn biên độ nhưng có xu hướng thay đổi cùng với lãi suất cơ bản. Thực ra, NHNN trong nhiều trường hợp đã thay đổi lãi suất cơ bản theo những diễn biến thay đổi lãi suất trên thị trường. Đây là tín hiệu có thể tiến tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất. Mặc dù vậy, những ý kiến tỏ ra quan ngại về lãi suất cơ bản lại cho rằng lãi suất cơ bản cộng thêm biên độ không khác gì so với trần lãi suất trước đây và, do vậy, sẽ không tạo ra tác động gì nhiều tới các mức lãi suất cũng như hành vi huy động và cho vay vốn của các ngân hàng. Đặc biệt, chính sách này cũng như trần lãi suất, hoàn toàn loại bỏ những người cho vay vốn nhỏ ra khỏi thị trường tài chính chính thức. Ngân hàng sẵn sàng cho những DNNN vay vốn với lãi suất thấp Như đã nói ở trên, việc các ngân hàng được tự do định đoạt lãi suất trong khi các DNNN chậm đổi mới sẽ chỉ làm trầm trọng hơn quan hệ tài chính vốn không được lành mạnh giữa hai chủ thể này. Lãi suất cơ bản hoàn toàn thoát ly thị trường Lãi suất trên thị trường tiền tệ hiện có thể chia ra thành hai nhóm: _ Nhóm chịu tác động của quan hệ cung cầu vốn Lãi suất các khoản tín dụng ngắn hạn của các NHTM cho các doanh nghiệp cho vay. Đây là loại lãi suất cao nhất trên thị trường tiền tệ. Ngoài ra đây còn là lãi suất các NHTM lớn được áp dụng cho các khách hàng tốt nhất, mức lãi suất mà trên thế giói gọi là lãi suất cơ bản (prime rate banks loans). Lãi suất vay vốn giữa các NHTM trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Lãi suất các công cụ huy động vốn các trung gian tài chính như cac khoản tiền gửi, hối phiếu… Lãi suất tín phiếu kho bạc đóng vai trò là lãi suất chuẩn, thấp nhất trên thị trường tiền tệ _ Nhóm lãi suất thứ hai liên quan tới điều hành chính sách tiền tệ do NHNN công bố bao gồm lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở. Nhìn thoáng qua, sự hình thành lãi suất như trên đã cho thấy lãi suất giờ đây đã được xác định theo những tín hiệu của thị trường. Tuy nhiên, cơ chế điều hành lãi suất trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ nhược điểm là: Mối liên hệ giữa các loại lãi suất thị trường và lãi suất của NHNN biến động không cùng chiều với lãi suất thị trường. Nói cách khác lãi suất cơ bản hoàn toàn thoát ly thị trường, trong khi ngược lại lãi suất cho vay của các TCTD luôn được điều chỉnh cho phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng do áp lực từ phía các NHTM trong việc huy động vốn là rất lớn, do đó các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất, lượng tiền cung ứng cho mục tiêu tín dụng do chính phủ khống chế hàng năm nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát, cho nên tác dụng của lãi suất tái cấp vốn không phát huy tác dụng. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác nữa, nhưng có lẽ điều quan trọng nhất mà mọi người luôn luôn tự hỏi “lãi suất trên thị trường tiền tệ hiện nay có phải là lãi suất thị trường hay không ? Nếu không thì nguyên nhân thực chất là gì?”. Đây là câu hỏi mà giới quan sát rất quan tâm, bởi lẽ chúng khẳng định, ít ra cũng về phương diện lãi suất, Việt Nam hiện thật sự có đang trên con đường tiến tới tự do hoá tài chính mà trước hết là tự do hoá lãi suất hay không? Quan sát bằng số liệu thực tế trong thời gian qua cho thấy, hiện nay vẫn chưa tồn tại một dạng lãi suất phản ánh đúng hay bước di theo những tín hiệu của thị trường. Đó chính là do sự độc quyền trong hoạt động ngân hàng. Đây mới là yếu tố then chốt trong việc xác định xem liệu Việt Nam đã thực sự tự do hoá lãi suất hay chưa. Lãi suất hình thành trong bối cảnh mà khi nói đến hệ thống ngân hàng Việt Nam là nói đến 6 NHTM quốc doanh lớn chiếm khoảng 80% thị phần cho vay trong nước và từ 70% đến 80% tài sản các ngân hàng, thì khó gọi là tự do hoá lãi suất được. Đã có lúc, chẳng hạn như trong năm 2002, trong khi lãi suất đôla thì thấp hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường tiền tệ quốc tế, thì mặc dù vẫn có khả năng tăng lãi suất cho vay lên nhưng lãi suất VND hầu như đứng nguyên không đổi. Điều này đã không phản ánh thật sự nhu cầu đang tăng lên. Rõ ràng nguyên nhân chính là do những NHTMQD lớn là những người đã định đoạt lãi suất. Các ngân hàng giải thích rằng họ làm như thế là có lợi cho khách hàng của mình. Cái mà nhà đầu tư thấy rằng đây là một biểu hiện của một kiểu định giá bất bình thường của các NHTM lớn muốn duy trì lãi suất cho vay ở mức ưu đãi, mặc dù thu nhập mang lại khó có khả năng bù đắp chi phí, rủi ro tín dụng và tăng tài sản có. Chừng nào còn độc quyền, thì chừng đó không thể nói đến giá cạnh tranh được. Khi nào giá cả vẫn còn bị bóp méo, nhưng ở một thái cực ngược lại, chúng ta vẫn không dám nhìn nhận sự thật này, khó có thể nói đến hội nhập và tự do hoá tài chính một cách thực chất. Lãi suất ngoại tệ vẫn chưa tự do hoá lãi suất hoàn toàn. Lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của cac doanh nghiệp tại các NHTM và lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các NHTM tại NHNN vẫn còn do NHNN quy định. Việc khống chế này nhằm mục đích khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các NHTM va các NHTM không gửi ngoại tệ ra nước ngoài. Tác động của tự do hoá lãi suất đối với nền kinh tế còn chưa được rõ ràng Một vấn đề rất quan trọng mà các nhà hoạch định chính sách đang quan tâm là những tác động của tự do hoá lãi suất là như thế nào đối với nền kinh tế. Theo nhận định của WB, những tác động này hiện nay là chưa rõ ràng. Lý do là các ngân hàng không có cách thức thống nhất để báo cáo về cơ cấu ấn định lãi suất của mình một cách minh bạch. Kết quả là khó xác định mức độ cho vay với lãi suất thấp hơn (hoặc cao hơn) lãi suất cơ bản đối với khu vực ngoài quốc doanh. Chính vì thế, WB đã khuyến cáo rằng các ngân hàng cần phải công bố cho khách hàng của mình được biết về lãi suất thực tế, tất cả các chi phí cấu thành và mức lãi suất thực tế có hiệu lực áp dụng sau khi kí kết các khế ước vay vốn. Quá trình này sẽ làm tăng thêm tính minh bạch trong các giao dịch và giúp các ngân hàng ngăn ngừa đưa vào các khoản phí bất hợp pháp và vào các giao dịch.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72398.DOC
Tài liệu liên quan