MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 3
1.1. Hàn Phi Tử - Cuộc đời và tư tưởng: 3
1.1.1.Bối cảnh xã hội Trung Hoa cổ đại thời Hàn Phi Tử: 3
1.1.2. Cuộc đời Hàn Phi Tử: 6
1.1.3. Cơ sở hình thành tư tưởng dùng Pháp Trị của Hàn Phi : 7
1.2. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử: 8
1.2.1. Lược sử hình thành và phát triển của tư tưởng pháp gia: 8
1.2.2. Những tư tưởng cơ bản trong thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử: 10
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ LÊN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 15
2.1. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - Trung Hoa cổ đại, thời Chiến Quốc 15
2.2. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - Việt Nam xã hội phong kiến: 17
2.3. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - xã hội ngày nay 19
2.3.1. Bối cảnh xã hội ngày nay: 19
2.3.2. Ảnh hưởng của Pháp trị lên đời sống xã hội ngày nay: 18
2.4. Tư tưởng Pháp Trị của Hàn Phi - Những mặt tồn tại và giải pháp 26
2.4.1. Những mặt tồn tại của Pháp trị: 26
2.4.2. Giải pháp khắc phục. 30
2.5. Pháp trị - Hàn Phi Tử và phương Tây, một cái nhìn so sánh 31
CHƯƠNG 3: PHẦN MỞ RỘNG: PHÁP TRỊ TRONG VIỆC QUẢN LÝ ĐẤT NƯỚC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NGÀY NAY 35
3.1 Vận dụng tư tưởng Pháp trị trong quản lý xã hội và điều hành đất nước 35
3.2. Vận dụng trong quản lý doanh nghiệp. 38
3.2.1 Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước về doanh nghiệp. 38
3.2.2 Nhìn từ góc độ nội bộ doanh nghiệp. 39
KẾT LUẬN 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO 42
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 18441 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa xuất hiện một bộ pháp điển nào lấy nho gia làm tư tưởng chỉ đạo, nhưng công cuộc cải cách pháp luật nói trên có ý nghĩa rất quan trọng: nó đánh dấu sự hình thành và xác lập pháp chế phong kiến trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời cũng là bước ngoặt của tư tưởng pháp trị từ chính thống sang giai đoạn phát triển dưới ảnh hưởng của nho giáo. “Đến đời Tần thống nhất, mới bắt đầu bước vào xã hội phong kiến lấy nông thôn làm điểm xuất phát, và đến “pháp độ” của Hán Vũ đế mới dùng hình thức pháp luật để cố định chế độ phong kiến...”. Từ đây, xu hướng kết hợp lễ trị và pháp trị trở thành đường lối cai trị chủ yếu của nhà nước phong kiến Trung Quốc.
Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2.2. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - Việt Nam xã hội phong kiến:
Tư tưởng về đường lối trị nước là sự phản ánh ý chí, chủ trương của các triều đại phong kiến trong lịch sử, đồng thời quyết định sự tồn vong của mỗi triều đại. Trong lịch sử Việt Nam gắn với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, tư tưởng về đường lối trị nước được hình thành và phát triển cùng với sự hoàn thiện của bộ máy nhà nước phong kiến.
Nhà Trần đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử dân tộc về lĩnh vực đấu tranh bảo vệ đất nước, làm nên hào khí “Đông A” vẻ vang. Hào khí ấy thấm đậm tinh thần Nho giáo được khởi nguồn từ “ý trời, lòng dân” trong Chiếu dời đô và “chủ quyền quốc gia” trong Nam quốc sơn hà thời Lý, lại được tiếp sức bởi đường lối đoàn kết toàn dân, xây dựng đội quân cha con hùng mạnh, tư tưởng tôn trọng những giá trị thiêng liêng của con người và đặt ra những vấn đề vinh nhục trong cuộc sống của nó dưới thời Trần.
Đường lối trị nước ở thời Trần so với thời Lý là một bước phát triển mạnh mẽ. Đó không còn đơn thuần là đường lối “đức trị” với tinh thần “từ bi bác ái” của nhà Phật như thời Lý, mà là đường lối kết hợp “đức trị” với “pháp trị” trên tinh thần “đức chủ, pháp bổ”, đường lối “đức trị” giữ vị trí chủ đạo trong cách cai trị của nhà Trần. Chỉ mấy năm sau khi lên ngôi, năm 1230 Lê Thái Tông đã lập tức cho “khảo xét các luật lệ của triều trước soạn thành Quốc triều thông chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển”. Đến đời Trần Dụ Tông, vua lại sai Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên định bộ Hình thư. Đồng thời với việc biên soạn luật pháp, nhà Trần còn quan tâm đến việc hoàn chỉnh các cơ quan chuyên trách về tư pháp và thể lệ xét xử. So với thời Lý thì thời Trần có bước phát triển hơn cả về việc biên soạn luật lẫn việc kiện toàn bộ máy pháp luật. Ở trung ương, nhà Trần có cơ quan chuyên xét việc kiện tụng gọi là viện Thẩm hình, ngoài ra còn có viện Đăng văn Kiểm pháp làm nhiệm vụ xét hỏi của các cơ quan xét xử. Cùng với việc làm đó là sự tuyển chọn và bổ nhiệm những quan lại thanh liêm vào các cơ quan pháp luật. Những người được lựa chọn vào làm việc ở các cơ quan luật pháp phải thông qua thi cử, trong đó có thi về hình luật (thi thủ phân, hỏi về phép đối án).
Đường lối kết hợp đức trị với pháp trị từ nhà Trần đến nhà Lê sơ là một bước phát triển mới trong lĩnh vực chính trị - xã hội so với các thời kỳ trước đó. Nếu ở nhà Trần đường lối “đức trị” là chủ đạo có sự hỗ trợ của pháp luật thì đến thời Lê sơ, vai trò của pháp luật đã được nâng lên ngang tầm với yếu tố đức trị. Nói cách khác, đó là đường lối trị nước đức trị kết hợp với pháp trị theo đúng nghĩa của nó. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện thực tiễn cụ thể, có khi tư tưởng pháp trị đã vượt lên và được đề cao hơn cả đức trị. Chẳng hạn, vua Lê Thái Tổ khẳng định: “Từ xưa đến nay trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật, để dạy các tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ, biết thế nào là thiện ác, điều thiện thì làm, chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp”. Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu lên ngôi, việc lập pháp đã được vua Lê Thái Tổ đặc biệt chú trọng. Năm 1428, ông đã “hạ lệnh cho các quan… bàn định pháp lệnh cai trị quân dân, để người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng để răn quân dân biết có pháp luật”.
Nổi bật trong đường lối pháp trị của Lê Thái Tổ là việc đề cao pháp luật mà trọng tâm là việc thưởng phạt nghiêm minh. Hình phạt dưới thời Lê Thái Tổ mặc dù chưa chặt chẽ, song, có thể nói là rất nghiêm khắc, bởi tình hình đất nước khi đó hết sức phức tạp, chưa ổn định sau nhiều năm chiến tranh loạn lạc.
Bộ Quốc triều hình luật nổi tiếng được hoàn thành dưới triều đại của ông và được sử dụng, kế thừa trong nhiều triều đại sau này với nội dung chủ yếu là bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp và gia đình phụ hệ gia trưởng thông qua cơ chế pháp luật. So với Hình thư của nhà Trần thì bộ Quốc triều hình luật - Bộ luật Hồng Đức có sự phát triển cả về qui mô, nội dung, tính nghiêm khắc lẫn tính thực tiễn của nó. Tuy nhiên, dù bộ Quốc triều hình luật là bộ luật nghiêm khắc, song nó vẫn chứa đựng những yếu tố đạo đức như những nguyên tắc nhân đạo, được vận dụng khi xử lý một số đối tượng, như phụ nữ, người già, trẻ em, người tàn tật (các điều 1, 16, 17, 18, 19… của bộ luật).
Đường lối trị nước kết hợp giữa đức trị với pháp trị dưới thời Lê sơ được các triều đại sau kế thừa. Nhà Mạc đã kế thừa gần như trọn vẹn các chủ trương, đường lối của thời Lê Thánh Tông về tổ chức bộ máy nhà nước quan liêu cũng như hệ thống giáo dục khoa cử của nó. (15)
Nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam ngay từ khi nắm quyền cai trị đất nước, đã thực hiện sự độc tôn Nho giáo lần thứ hai, thể hiện sự tiếp tục phát triển đường lối trị nước của nhà Lê sơ, bởi khi đó nhà Nguyễn, đứng đầu là Nguyễn Ánh dù được người Pháp giúp đỡ lật đổ nhà Tây Sơn, nhưng không vì thế mà học tập và xây dựng mô hình nhà nước phương Tây. Việc Nguyễn Ánh ra lệnh cho các quần thần biên soạn bộ Hoàng triều luật lệ (Luật Gia Long) trên cơ sở kế thừa Luật Hồng Đức và tham khảo luật lệ nhà Thanh cho thấy ảnh hưởng của đường lối trị nước thời Lê sơ đối với triều Nguyễn đến mức nào. Những thay đổi ở một số điều khoản của Luật Gia Long so với Luật Hồng Đức cũng là điều dễ hiểu, bởi ý chí và chủ trương về đường lối trị nước của bất kỳ triều đại nào cũng đều bị qui định bởi sự tồn tại của xã hội và của chính triều đại đó.
Từ những điều trên, ta có thể thấy rằng, Việt Nam chịu ảnh hưởng các tư tưởng từ Trung Hoa cổ đại, đặc biệt là tư tưởng Đức trị của Nho giáo, Pháp trị của Hàn Phi Tử. Từ xa xưa, các vị vua đã thấy được ưu điểm của Pháp trị, biết lấy Đức trị để khắc phục nhược điểm của Pháp trị, và đã sử dụng chúng một cách tài tình trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ những điều này, đã tạo ra những bước tiền đề tốt đẹp cho xã hội Việt Nam ngày nay.
2.3. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử - xã hội ngày nay:
2.3.1. Bối cảnh xã hội ngày nay:
Trải qua hàng ngàn năm vận động và phát triển, xã hội loài người có nhiều bước biến chuyển đáng kinh ngạc. Từ khi khai thiên lập địa, con người từ thời kỳ đồ đá, chuyển sang thời kỳ phong kiến, phong kiến suy vong rồi chủ nghĩa tư bản ra đời, thống trị thế giới, và cuối cùng lại đến với xã hội chủ nghĩa. Mỗi thời kỳ xã hội, mỗi quá trình có những thành tựu và khó khăn nhất định, cái mới đi lên thay thế cho cái cũ không phù hợp, tuy nhiên, những chân lý luôn luôn tồn tại và được học hỏi không ngừng. Và Pháp gia của Hàn Phi Tử là một trong những chân lý đó, mặc dù nó có những điểm không tích cực, nhưng nó luôn được vận dụng trong mọi xã hội, đặc biệt là ngày hôm nay, trong thời đại kinh tế thị trường. Pháp quyền không thể đặt bên cạnh các giá trị về tinh thần như chân lý khoa học, sự tận thiện về đạo đứa hay kinh bổn của tôn giáp. Nó chỉ có ý nghĩa tương đối, nội dung của nó một phần nào đó được quyết định bởi những điều kiện kinh tế và xã hội luôn luôn biến đổi. Tuy nhiên, nó lại có ý nghĩa to lớn trong việc ổn định xã hội. Khác với bối cảnh xã hội thời Hàn Phi Tử - thời Xuân Thu – Chiến quốc, xã hội loạn lạc, việc phát hiện sắt đã tạo ra một bước phát triển mới của loài người, đem đến sự phồn vinh về mặt kinh tế, tuy nhiên điều đó tạo ra sự giao tranh giữa các vương triều lúc bấy giờ. Thời đại ngày nay thì khác, không còn có sự thống trị của chế độ phong kiến, theo kinh nghiệm của nhiều nước phát triển cho thấy nền kinh tế thị trường có ba trụ cột: Nhà nước pháp quyền, thị trường và xã hội dân sự; đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc phải dựa trên sự phát triển đồng bộ, hài hòa của cả ba trụ cột ấy. Điều này cho thấy pháp luật rất quan trọng trong mọi thời đại.
Ngày nay, kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháp lý có tính quốc tế đang đòi hỏi mỗi quốc gia phải đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp. Bên cạnh đó, xã hội phát triển theo hướng tự do, dân chủ, pháp luật càng đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết các mối quan hệ của xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội và mỗi cá nhân.
Điều này cho thấy, tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử không chỉ có ích cho Trung Quốc trong khoảng thời gian đó, mà còn đem lại nhiều giá trị tư tưởng bổ ích đến tận ngày hôm nay.
2.3.1. Ảnh hưởng của Pháp trị lên đời sống xã hội ngày nay:
Qua thời gian, tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử đã cho thấy được những điều tích cực cũng như những hạn chế, tồn tại. Tuy nhiên, những tư tưởng ấy của ông đã góp phần đặt nên nền móng để xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, một thể chế nhà nước mà các nước đang hướng tới. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên nền tảng của chế độ pháp trị.
Nhưng cũng phải nhận thấy rằng, chế độ pháp trị gắn liền với nhà nước pháp quyền hiện nay có những khác biệt so với chế độ pháp trị theo tư tưởng của Hàn Phi Tử. Theo tư tưởng Pháp trị của vị triết gia Trung Quốc cổ đại, pháp luật chỉ là công cụ của Nhà nước, và nhà nước đứng trên pháp luật, có quyền ban hành mọi thứ luật mà nhà nước đó muốn và cần để cai trị. Còn pháp trị gắn với nhà nước pháp quyền thể hiện quan điểm là pháp luật cai trị chứ không phải con người cai trị. Trong trường hợp này, không ai có thể đứng trên pháp luật, kể cả Nhà nước.
Việc cai trị, điều hành đất nước theo tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử, thông qua nhà nước pháp quyền hiện nay và thông qua hệ thống pháp luật, luôn luôn chứa đựng cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực lên đời sống kinh tế, xã hội hiện đại mà chúng ta sẽ xem xét sau đây.
2.3.2.1. Những ảnh hưởng tích cực:
Thứ nhất, Pháp trị giúp củng cố quyền lực đồng thời hạn chế sự độc đoán của nhà nước.
Nhà nước và pháp luật, hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý, luôn có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau. Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, những quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền; và ngược lại pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực Nhà nước.
Nhà nước quản lý xã hội bằng Pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội, đưa pháp luật vào đời sống của xã hội và của từng người dân. Một hệ thống pháp luật tốt (thể hiện qua tính toàn diện, tính thống nhất và tính phù hợp) sẽ giúp Nhà nước quản lý tốt những vấn đề nảy sinh trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, bắt kịp được với trình độ phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với các quan hệ xã hội. Một khi xã hội vận hành tốt trong khuôn khổ hệ thống pháp luật ấy, vai trò, quyền lực của nhà nước sẽ được tăng cường và củng cố. Ngoài ra, trong bối cảnh nước ta khi mà nhiều thế lực thù địch tăng cường việc chống phá chế độ, phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa như hiện nay thì phải cần đến sự nghiêm minh của pháp luật để ngăn chặn và ngăn ngừa những hành động phá hoại đó.
Bên cạnh đó, pháp trị ngày nay gắn liền với nhà nước pháp quyền mà theo đó, không có một ai kể cả Nhà nước, được đứng trên pháp luật. Hoạt động của Nhà nước cũng phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật mà nó ban hành. Điều này giúp kiểm soát những hoạt động của nhà nước.
Thứ hai, pháp luật hỗ trợ việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức và định hướng ứng xử.
Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm để xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo đức và hành vi ứng xử.
Giữa đạo đức và pháp luật luôn có mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp tích cực khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyền. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người và con người, giữa con người với xã hội.
Nền kinh tế thị trường đang lao đi với tốc độ chóng mặt, ngoài những điều tích cực mang lại cho kinh tế - xã hội, thì nó còn kéo theo sự băng hoại, xuống cấp về mặt đạo đức, hành vi ứng xử của một bộ phận không nhỏ người dân. Trong một xã hội mà, ngoài những giá trị truyền thống, đồng tiền và lối sống thực dụng đang được đề cao, thì sự suy đồi về mặt đạo đức là không thể tránh khỏi. Vì đồng tiền, người ta sẵn sàng làm tất cả mọi thứ, bất chấp tất cả để có được nó. Vì đồng tiền, tình cảm cha-con, anh-em, chồng-vợ, bạn bè, … bị đặt xuống hàng thứ yếu, anh em dắt tranh giành đất đai phải dắt nhau ra tòa, bạn bè vì tranh cãi vấn đề tiền bạc mà không nhìn mặt nhau nữa, …Quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội cũng bị hạ thấp đến mức báo động. Văn hóa ứng xử nơi công cộng cũng bị lãng quên, người trẻ bất kính với người lớn đáng tuổi cha tuổi chú mình; người ta sẵn sàng lao vào đấu đá nhau chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ ở trên đường, …Thậm chí còn nguy hại hơn, người ta ngày càng dửng dưng trước nguy hiểm, trước sự an nguy tính mạng của đồng loại. Mới đây, đất nước Trung Hoa đã phải chứng kiến hình ảnh một em bé gái hai tuổi gặp tai nạn nguy hiểm đến tính mạng trước ánh mắt thờ ơ của nhiều người qua đường. Và cũng chẳng cần phải nói đâu xa, ngay ở xã hội ta cũng đầy rẫy những chuyện như vậy. Đó là, câu chuyện một người đàn ông trong lúc giằng co với tên cướp làm túi tiền của mình quăng ra đường và ngay lập tức nhiều người đi đường thay nhau “hôi của”; đó là câu chuyện một “hiệp sĩ” bắt cướp, sau khi quần nhau, tóm gọn tên cướp, quay ra thì mới biết chiếc xe máy của mình đã “không cánh mà bay”, …
Hành vi, ứng xử của con người là những vấn đề thuộc về phạm trù đạo đức, thuộc về lương tri của mỗi người. Nhưng một khi đạo đức xuống cấp, lương tri không còn sẽ dẫn đến một lối sống lệch lạc và vô cùng nguy hiểm. Thế nên những hành vi, ứng xử này cần phải được luật hóa và quy định rõ ràng, kèm theo những chế tài thích hợp để mang tính răn đe, buộc con người phải tuân theo những quy tắc ứng xử đã được đề ra, dần dần góp phần củng cố những giá trị đạo đức. Xin được dẫn chứng ra đây một ví dụ để thấy điều này là cần thiết, là đòi hỏi của thực tế những năm qua; Điều 102 Bộ Luật Hình sự quy định “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”.
Thứ ba, chế độ pháp trị là nền tảng của hòa bình, trật tự và công bằng trong xã hội hiện đại.
- Xét trong phạm vi một quốc gia:
Các mối quan hệ xã hội rất đa dạng và vô cùng phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Trong nhịp sống hối hả ấy, con người cứ tất bật lao đi và vì vậy sẽ vô tình hoặc cố ý giẫm đạp lên lợi ích của nhau, vượt qua những chuẩn mực, những giới hạn mà xã hội đã đặt ra và gây ra tình trạng rối loạn trong xã hội. Pháp luật sẽ quy định người ta được làm và không được làm những gì, và đâu là giới hạn. Trong một xã hội mà hệ thống pháp luật vận hành tốt, con người sẽ được đối xử bình đẳng với nhau, có những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trước pháp luật.
- Xét trên bình diện quốc tế:
Sự xuất hiện của một hệ thống quốc tế dựa trên luật pháp đã tạo nên thế cân bằng quan trọng trong các vấn đề toàn cầu. Việc tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế đã giúp giữ gìn hòa bình và giải quyết xung đột. Luật pháp quốc tế đã cho các quốc gia, không phân biệt địa vị chính trị, kinh tế hay quân sự, có tiếng nói bình đẳng, loại bỏ việc sử dụng một cách bất hợp pháp vũ lực.
Mặc dù không thể phủ nhận rằng, với tiềm lực hùng mạnh về kinh tế, tài chính, quân sự cũng như ảnh hưởng chính trị to lớn của mình, các cường quốc như Hoa Kỳ, Trung Quốc,… đang cố gắng áp đặt, lèo lái cộng đồng quốc tế theo đường lối của mình, và mặc dù ở một mức độ nhất định nào đó các nước này đã thành công; nhưng cộng đồng quốc tế, thông qua các diễn đàn quốc tế đã góp phần ngăn cản sự bành trướng, áp đặt của các quốc gia này. Chẳng hạn Trung Quốc, vì những mưu lợi kinh tế-chính trị, muốn biến Biển Đông trở thành “sân sau” của mình, liên tục gây bất ổn trong khu vực bất chấp những quy tắc ứng xử về Biển Đông đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Rồi đến Hoa Kỳ, với sự hậu thuẫn của NATO, đã liên tục gây ra chiến tranh ở khắp nơi trên thế giới để tìm kiếm các lợi ích kinh tế…
Việc tăng cường ảnh hưởng của các tổ chức quốc tế thông qua các diễn đàn quốc tế, đảm bảo cho những nguyên tắc, luật lệ quốc tế được tôn trọng và thực thi đầy đủ sẽ giúp tạo ra quy tắc ứng xử chung cho các nước, ngăn cản tham vọng bá quyến, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các cường quốc, tạo ra môi trường bình đẳng cho tất cả các nước trong quan hệ quốc tế, góp phần duy trì hòa bình và ổn định chính trị, xã hội trên thế giới.
Đó là trên phương diện chính trị, còn trong lĩnh vực thương mại, việc gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới hay các liên kết kinh tế khu vực đã tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nền kinh tế, giữa các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên.
Thứ tư, xét trong lĩnh vực kinh tế, hệ thống pháp luật giúp xây dựng và bảo vệ các hoạt động, các mối quan hệ kinh tế.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp, pháp luật quy định tất cả các doanh nghiệp được quyền hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, được quyền tiến hành những hoạt động mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, để bảo vệ các doanh nghiệp, luật pháp cũng quy định ngăn cấm các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp khác. Từ đó, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng mở rộng hoạt động của mình.
Đứng trên góc độ người tiêu dùng, pháp luật có những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của họ. Ở các nước phát triển, cùng với sự ra đời các Hiệp hội bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, Pháp luật có những quy định đầy đủ và chi tiết về vấn đề này. Còn ở nước ta, chúng ta cũng dần dần cố gắng tiếp cận theo hướng đi này.
2.3.2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực:
Thứ nhất, tình trạng lạm quyền, lợi dụng pháp luật:
Trong hình thức nhà nước pháp quyền mà nhiều nước trên thế giới hiện nay đang hướng tới, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng và không có bất cứ một ai được đứng trên nó, kể cả Nhà nước. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho Pháp luật một sự tôn trọng cao nhất và để tránh tình trạng lạm dụng pháp luật của một bộ phận cán bộ, cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên trong thực tế, do nhận thức sai về điều này, cộng với sự thiếu hiểu biết, e ngại pháp luật của một bộ phận người dân, đã dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ, cơ quan nhà nước hành xử vượt quá phạm vi quyền hạn của mình, dùng pháp luật như một công cụ phục vụ cho những mục đích không chính đáng. Đây là thực trạng mà hầu hết các nước gặp phải, từ các nước chậm và đang phát triển cho tới các nước phát triển.
Và điều này cũng chính một trong những vấn đề nhức nhối của nước ta trong những năm qua. Cùng với sự suy đồi về đạo đức, một số cán bộ đã lợi dụng pháp luật như một công cụ để đe dọa nhân dân hay dùng vào mục đích mưu cầu lợi ích cá nhân.
Thứ hai, pháp luật đôi khi mang tính áp đặt.
Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, và trong nhiều trường hợp giai cấp cầm quyền không đại diện cho tất cả người dân. Ở nhiều nước trên thế giới với sự tồn tại đồng thời của nhiều đảng phái chính trị, sự lên ngôi của một đảng nào đó thường sẽ dẫn đến những thay đổi trong đường lối hoạt động và ngay cả trong các chính sách pháp luật, phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận cầm quyền và những người ủng hộ và do đó cũng “bỏ rơi” một bộ phận còn lại. Ngay cả ở Việt Nam chúng ta, mặc dù chỉ có một Đảng duy nhất được thừa nhận nhưng không phải lúc nào những chính sách, văn bản pháp luật mà nó ban hành cũng nhận được sự đồng tình từ tất cả người dân. Sự áp đặt của pháp luật là tất yếu vì nó không thể phản ánh được nguyện vọng của tất cả người dân.
Thứ ba, cai trị đất nước đơn thuần bằng pháp luật, trong nhiều trường hợp dẫn đến sự cứng nhắc và đôi khi không thể hiện tính nhân văn.
Trong một xã hội đề cao nguyên tắc sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật thì tất cả mọi người phải hành xử dựa vào những quy định đã được đặt ra. Những quy định này áp dụng cho tất cả mọi người, trong mọi trường hợp, và như vậy nhiều khi sẽ dẫn đến những vận dụng cức nhắc, thiếu linh hoạt trong những tình huống cụ thể. Cùng là những tình huống và sự kiện giống nhau, nhưng chịu tác động của những yếu tố khác nhau thì phải được xem xét riêng, theo những cách thức không hoàn toàn giống nhau.Việc vận dụng pháp luật trong thực tế mà không xem xét đến những yếu tố đó sẽ khó có thể tạo ra sự thuyết phục và đồng tình từ dư luận.
2.4. Tư tưởng Pháp Trị của Hàn Phi - Những mặt tồn tại và giải pháp
2.4.1 Những mặt tồn tại của Pháp trị:
Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm của Pháp gia (trong đó có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
Học thuyết của Hàn Phi thể hiện sự coi thường trí tuệ và sức mạnh của nhân dân.
Nhưng học thuyết của Hàn Phi với nhãn quan của một đại quý tộc, đã thể hiện một sự coi thường sâu sắc trí tuệ cũng như sức mạnh của nhân dân. Dân không phải ngu xuẩn không biết lợi ích lâu dài mà không chịu ra sức làm công trình công cộng, chỉ vì kẻ cầm quyền thường lấy việc công để làm lợi riêng. Học thuyết của Hàn Phi xem con người là ai cũng vì mình, để khuyên vua không nên tin người mà chỉ nên tin vào chính mình, tin vào quyền thế bản thân. Nhưng ở khía cạnh khác, học thuyết của Hàn Phi dựa nhiều vào niềm tin, cụ thể là niềm tin của dân vào tính công minh của pháp luật: theo phép công nhất định được thưởng, trái pháp luật sẽ bị phạt. Cá nhân Hàn Phi có lẽ cũng đã quá tin vào những người cầm quyền. Nhận biết lợi ích chung khác với lợi ích riêng, Hàn Phi chỉ đề ra biện pháp uốn nắn tư lợi của người dưới, không đưa ra cách đề phòng trường hợp kẻ làm vua dùng quyền thế phục vụ lợi ích riêng. Hàn Phi có lẽ tin rằng, kẻ làm vua có trí tuệ nên ý thức được lợi ích lớn nhất của mình là đất nước được giàu mạnh, không để dục vọng nhất thời làm hỏng lợi ích vĩnh viễn.
Như vậy là Hàn Phi đã quá đề cao kẻ cầm quyền, ông cho rằng con người đều có ham muốn cá nhân, nhưng lại tuyệt đối tin vào kẻ làm vua, coi thường nhân dân, chỉ có nhân dân mới tư lợi cho riêng bản thân mà không hề nghĩ rằng bất cứ một ai cũng đều sẽ có bản tính này. Chính niềm tin mù quáng này đã phần nào làm cho các bậc đế vương càng trở nên bạo tàn, dùng quyền thế để tư lợi, để phục vụ cho lợi ích, ham muốn của riêng bản thân, bỏ qua lợi ích chung của đất nước, của con dân, xem dân chúng là công cụ phục vụ cho nhu cầu của riêng mình.
Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt nghiêm khắc.
Pháp gia quá nhấn mạnh đến biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục… là đi ngược lại xu hướng phát triển của văn minh nhân loại.
Pháp gia cho rằng, ngoài pháp luật là chỗ dựa duy nhất để nhà vua tin cậy, tất cả các quan hệ khác như: vua tôi, cha con, anh em, vợ chồng… đều tuyệt đối không thể tin tưởng và luôn phải cảnh giác. Mọi thứ tình cảm như sự kính trọng, thủy chung, trung hiếu… đều không hề tồn tại, là huyễn hoặc xa vời. Đây là một điểm hạn chế, vì rõ ràng trên thực tế những tình cảm này là hoàn toàn có tồn tại.
Pháp trị cho rằng bản chất của con người vốn dĩ là tà ác, luôn tranh giành, xâu xé lẫn nhau về lợi ích, cho nê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử và ảnh hưởng của nó lên đời sống xã hội.doc