Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở tài khoản L/C thanh toán một cách tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở L/C trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dài hạn càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua ký quỹ bắt buộc.
Điều hành tỷ giá hối đoái theo tín hiệu thị trường: Nhà nước thực hiện chính sách thả nổi có kiểm soát. Nhà nước đã mở rộng biên độ giao dịch của các ngân hàng thương mại từ 1% đến 5% rồi lên 10%,giải pháp này đã góp phần giảm sức ép đối với tỷ giá hối đoái.Mặc dù có những biến động phức tạp về tỷ giá hối đoái song tổng kim nghạch xuất khẩu năm 1997 vẫn tăng xấp xỉ 9%, đạt được 20050 triệu USD. Mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn song năm 1997 Việt Nam đã đạt được một số thành công đáng kể.Chính sach tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt,một mặt tạo điều kiện cho giá trị đồng Việt Nam phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ,góp phần kiềm chế lạm phát,một mặt hỗ trợ xuất khẩu.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5923 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tỷ giá hối đoái - Mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế và giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
:Thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu, chính sách thu nhập và tiết kiệm...
2.1.Các công cụ sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái :
- Công cụ lãi suất chiết khấu: Phương pháp dùng lãi suất chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái là phương pháp thường dùng với mong muốn có những thay đổi cấp thời về tỷ giá. Cơ chế tác động của công cụ này là: Trong thế cân bằng ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khi lãi suất chiết khấu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó, tác động đến xu hướng chuyển dịch của dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn và làm những người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái.Ví dụ khi lãi suất tăng sẽ dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn từ thị trường thế giới đổ vào trong nước và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ sang đồng nội tệ. Kết quả là tỷ giá giảm. Ngược lại, sẽ làm tỷ giá tăng.
Điều kiện để sử dụng công cụ lãi suất chiết khấu trong việc tác động đến tỷ giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường vốn ngắn hạn) đủ mạnh, tự do, linh hoạt; tài khoản vốn được mở cửa.
- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Chính phủ cụ thể là NHTW sử dụng công cụ này để tác động vào tỷ giá hối đoái bằng cách mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường cuả NHTW sẽ làm giảm cung ngoại tệ, từ đó làm tăng tỷ giá hối đoái (ngoại tệ tăng hay nội tệ giảm giá). Ngược lại, một nghiệp vụ bán ngoại tệ rên thị trường sẽ làm giảm tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ có tác động mạnh đến tỷ giá hối đoái.Tuy nhiên để thực hiện nghiệp vụ nàyđòi hỏi quốc gia phải có dự trữ đủ mạnh.Bên cạnh công cụ này, NHTW có thể tiến hành mua bán các chứng từ có giá như tín phiếu kho bạc để làm thay đổi cung tiền trong nước vẫn có tác động tỷ giá vì làm thay đổi lãi suất, mức giá cả... trong nước. Tuy nhiên cách thức này chỉ có tác động gián tiếp đến tỷ giá nhưng lại có tác động trực tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô khác.Do đó công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ thường không được dùng như một công cụ nhằm can thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái mà chỉ được dùng phối hợp với công cụ nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ.
Ngoài hai công cụ cơ bản và thuần tuý mang tính kinh tế trên, các quốc gia cũng thường dùng một số công cụ mang tính hành chính như các quy định quản lý ngoại hối, điều chỉnh các nghiệp vụ mua bán trên thị trường... và những điều chỉnh trong chính sách tài chính (thay đổi chỉ tiêu,thuế khoá của chính phủ) cũng sẽ có tác động làm thay đổi tỷ giá hối đoái.Tuy nhiên,tỷ giá hối đoái cũng như thị trường ngoại hối chỉ là một phần trong thị trường tiền tệ nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Vì vậy, phải đặt chính sách tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.
Phần II
Tỷ giá trong mối liên hệ với cán cân thanh toán quốc tế
I- quan điểm chung:
Một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu á năm 1997 là việc các nước để thâm hụt cán cân vãng lai ở mức cao và trong một thời gian dài. Trong bối cảnh các nền kinh tế trên thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, việc nhìn nhận thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của một nước là đòi hỏi cần thiết trong việc hoạch định và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. Một trong những nhân tố có mối liên hệ chặt chẽ với cán cân thanh toán là tỷ giá hối đoái. Trên thực tế, đã nhiều nước dùng chính sách phá giá để cải thiện cán cân thanh toán nhưng thành công hay thất bại lại phụ thuộc vào điều kiện của mỗi nước, nhất là chế độ tỷ giá được lựa chọn ở nước đó. Mối quan hệ giữa cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái được thể hiện trên các khía cạnh sau:
1. Mối quan hệ giữa cán cân thanh toán và các chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau.
Một trong những nhân tố tác động lớn đến tỷ giá hối đoái đó là chế độ tỷ giá hối đoái.Các nước trên thế giới đã và đang áp dụng các chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau nhưng ta chỉ xem xét hai chế độ tỷ giá hối đoái cơ bản là chế độ tỷ giá hối đoái cố định và chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
Dưới chế độ tỷ giá hối đoái cố định: Cán cân tổng thể là một chỉ tiêu quan trọng bởi vì nó cho thấy áp lực phải phá giá hay lên giá đồng bản tệ.Trong trường hợp bội chi cán cân thanh toán NHTW buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì mức tỷ giá hối đoái cố định.
Ngược lại, dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, NHTW sẽ không can thiệp vào thị trường ngoại hối mà giá trị của động nội tệ được quyết định bởi cung cầu. Dưới chế độ này, cán cân tổng thể sẽ theo cơ chế tự động trở về mức cân bằng và không áp lực cho NHTW phải phá giá hoặc lên giá đồng nội tệ.
2.Việc đánh giá tỷ giá của đồng nội tệ quá cao hay quá thấp ảnh hưởng đến cán cân thanh toán.
Việc đánh giá quá cao tỷ giá đồng nội tệ so với giá trị thực của nó sẽ làm giảm tính cạnh tranh quốc tế.Kết quả là xuất khẩu giảm,nhập khẩu tăng lên dẫn đến bội chi cán cân thương mại. Trường hợp này thường thấy ở những nước theo chiến lược thay thế nhập khẩu và ở các nền kinh tế có nhiều ngoại tệ đổ vào nền kinh tế.
3. Mối quan hệ giữa chính sách phá giá và cán cân thanh toán:
Điều kiện Marshall-Lerner chỉ ra rằng: khi nào mà độ co giãn của đường cầu xuất khẩu cộng với độ co dãn của đường cầu nhập khẩu lớn hơn 1(h xk +hnk >1) thì phá giá mới giúp cải thiện cán cân thương mại.
II- Liên hệ thực tế ở Việt Nam trong các giai đoạn:
1. Giai đoạn từ 1955 đến 1989.
Giai đoạn này, ở Việt Nam chưa xác lập nền kinh tế thị trường.C ơ chế kế hoạch tập trung đang bao trùm nền kinh tế với nguồn ngân sách hạn hẹp, chủ yếu dựa vào viện trợ của các nước XHCN, nhất là Liên Xô. Tiền viện trợ này được tính theo tỷ giá do Nhà nước quy định.
Ngày 25/11/1955 đồng Việt Nam được chính thức quy định tỷ giá với đồng nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc (1NDT=1470 Việt NamĐ)
Đến năm 1959, nước ta đổi tiền nên tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng NDT và đồng Rúp cũng thay đổi. Năm 1977, các nước XHCN thoả thuận với nhau thanh toán bằng đồng Rúp chuyển nhượng.Một Rúp chuyển nhượng có lượng vàng là 0,987412 gram và tỷ giá đó được dùng trong thanh toán mua bán.Song song với tỷ giá đó Nhà nước ta còn ấn định tỷ giá kết toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức ngoại thương.Việc sử dụng tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này cho thấy:
+ Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này hoàn toàn là do ý đồ của nhà nước quyết đinh,không xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế cũng như từ thị trong nước và quốc tế.
+ Tỷ giá kết toán nội bộ được sử dụng để kết toán thu chi ngân sách đã không phản ánh trung thực, đầy đủ sức mua của đồng Việt Nam với đồng Rúp và một số đồng tiền khác.
Từ năm 1985 sau khi có chủ trương thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài thì USD lần lượt vào thị trường nhưng chúng ta lại dùng tỷ giá do NHTW quy định còn cách xa so với tỷ giá thực tế (giá thị trường ). Tuy chênh lệch tỷ giá đã được ấn định sát với thị trường hơn song việc tự tạo ra một tỷ giá chính thức bóp méo so với thực tế đã không phản ánh được các quan hệ kinh tế quốc tế và làm cho các quan hệ kinh tế chưa đạt được hiệu quả.
Sự áp đặt tỷ giá chính thức tưởng là giữ được giá trị đồng tiền Việt Nam so với các đồng tiền khác nhưng đã đẩy xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt.Không khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, đẩy mạnh nhập khẩu làm cho cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng.
Việc tự ý nâng cao đồng Việt Nam một cách thiếu cơ sở đã khiến các công ty xuất khẩu phản ứng lại bằng cách thực hiện phương châm "dùng lãi hàng nhập bù lỗ hàng xuất". Nguyên nhân của tình trạng đồng nội tệ bị đánh giá quá cao là do khi xác định tỷ giá chính thức đã loại bỏ yếu tố lạm phát. Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam với ngoại tệ không được điều chỉnh tương ứng với lạm phát.Tuy nhiên,những tác động tiêu cực của tỷ giá chưa được biểu hiện rõ trong nền kinh tế đóng trong cơ chế độc quyền ngoại thương vì quan hệ ngoại thương của Việt Nam thời kỳ này chủ yếu với các nước SEV. Tuy cán cân thương mại đã có những chuyển biến tích cực song tình trạng nhập siêu vẫn là phổ biến :tỷ lệ xuất/nhập khẩu của giai đoạn 1975-1980 là 1/4,2 ;giai đoạn 1981-1985 là 1/1,28; giai đoạn 1986-1990 là 1/1,8.
2. Giai đoạn từ 1990 đến nay.
Từ năm 1989 đến nay, Nhà nước đã xoá bỏ các tỷ giá hối đoái trước đây như tỷ giá kết toán nội bộ và thực hiện chế độ một tỷ giá. Tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh sát với thị trường. Nhà nước đã giao cho NHTW công bố tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ mạnh đặc biệt là USD và cho phép NHTM được xây dựng tỷ giá hàng ngày với mức chênh lệch 5% so với tỷ giá chính thức.
Ngoại trừ sự đột biến về tỷ giá vaò cuối năm 1991 và đầu năm 1992 thì giao động của tỷ giá là tương đối ổn định. Nhờ áp dụng tỷ giá hối đoái mới nên đã mang lại những kết quả thiết thực và quan trọng cho ngoại thương Việt Nam. Kinh doanh xuất nhập khẩu được đẩy mạnh, đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu góp phần tăng nhanh doanh số xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể chia làm 3 thời kỳ.
- Thời kỳ từ 1989-1993: Trong thời kỳ này,tình hình tỷ giá hối đoái, lạm phát và xuất nhập khẩuđược thể hiện trong bảng số sau:
Năm
Tỷ giá USD/VNĐ
Tỷ lệ
Lạm phát%
Xuất khẩu (triệu USD)
Nhập khẩu
(triệu USD)
Giá chính thức nhà nước
Giá thị trường tự do
Tăng giảm %
1989
4200
4570
+8,8
34,7
1946
2566
1990
6650
7550
+13,55
67,5
2404
2752
1991
12720
12550
- 0,02
68
2087
2338
1992
10720
10550
- 0,02
17,5
2581
2541
1993
10835
10736
- 0,01
5,2
2989
3879
Qua bảng cho thấy, nhìn tổng thể trong thời gian này tỷ giá có khuynh hướng tăng và được điều chỉnh sát với thị trường tự do làm cho khuynh hướng xuất khẩu tăng, tuy nhiên tình trạng nhập siêu vẫn là phổ biến.:thâm hụt năm 1993 là 890 triệu USD, ngoại trừ năm 1992 có thặng dư là 40 triệu USD.
Do tỷ giá hối đoái hình thành và vận động căn cứ hàng loạt yếu tố như giá vốn xuất khẩu, cung cầu trên thị trường nội địa, chính sách đối với đồng nội tệ, tình hình lạm phát... cộng với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp nên tình trạng thâm hụt cán cân thương mại sẽ còn kéo dài trong thời gian tới. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng để đạt được chi phí xuất nhập khẩu thấp hơn tỷ giá hối đoái hình thành trên thị trường, chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái trên thị trường và chi phí xuất khẩu càng lớn thì doanh nghiệp càng có lợi.Như vậy mức tỷ giá hợp lý phải nằm giữa giới hạn tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu.
Tỷ giá xuất khẩu < Tỷ giá hối đoái < Tỷ giá nhập khẩu
Mặt khác, vào thời gian những năm 1989-1991 giá trị đồng Việt Nam không ổn định, lạm phát cao bội chi ngân sách lớn lại được bù đắp bằng nguồn phát hành tiền không được kiểm soát hợp lý, quản lý ngoại tệ vừa lỏng lẻo vừa cứng nhắc hành chính đã góp phần làm chao đảo tỷ giá hối đoái VND/USD, tạo nên cơn sốt ngoại tệ, làm trầm trọng thêm lạm phát và ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thương mại.Từ năm 1992-1993 những đổi mới trong chính sách tài chính tiền tệ như chấm dứt bù đắp thiếu hụt ngân sách bằng phát hành tiền, duy trì lãi suất tiết kiệm,quản lý lượng cung ứng ngoại tệ theo tốc độ tăng trưởng và mục tiêu chống lạm phát... do đó đã ổn định được sức mua của đồng tiền.
- Thời kỳ 1993-1996: Trong thời kỳ này Nhà nước đã chủ động can thiệp và giữ tỷ giá hối đoái trong suốt khoảng thời gian 1993-1996 với mức biến động rất nhỏ được thể hiện qua bảng:
Lạm phát và tỷ giá của Việt Nam qua các năm 1993-1996
Năm
Tỷ giá USD/VNĐ
So sánh %năm trước
Tốc độ lạm phát
1993
10835
100
5,2
1994
11050
+1,98
14,4
1995
11040
0
12,7
1996
11060
+0,18
4,5
Nguồn :Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7/2000
Qua số liệu cho thấy tốc độ tăng của tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì các nhân tố kinh tế đối ngoại tác động đến việc duy trì một tỷ giá hối đoái ổn định trong một thời gian dài đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố sức mua của đồng tiền Việt Nam,kiềm chế được lạm phát, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư, khuyến khích đầu tư của nước ngoài... Tuy nhiên, tỷ giá ổn định từ 1993-1996 đã không khuyến khích được xuất khẩu,làm cho ngoại thương kém phát triển, thể hiện qua bảng:
Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm 1993-1996 :
(Đơn vị tính :Triệu USD)
Năm
Xuất khẩu
nhập khẩu
So sánh
1993
2890
3977
- 1087
1994
4040
5625
- 1585
1995
5448,9
8155,4
-2706,5
1996
7253
11141
- 3888
Tình trạng nhập siêu liên tục trong thời gian này đã dẫn tới tình trạng phải tiêu giảm dự trữ quốc gia hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ ngày càng tăng nhưng nhập siêu kéo dài đã khó khăn cho nền tài chính quốc gia.
- Từ năm 1997 đến nay Nhà nước đã có những chỉ đạo:
Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở tài khoản L/C thanh toán một cách tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở L/C trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dài hạn càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua ký quỹ bắt buộc.
Điều hành tỷ giá hối đoái theo tín hiệu thị trường: Nhà nước thực hiện chính sách thả nổi có kiểm soát. Nhà nước đã mở rộng biên độ giao dịch của các ngân hàng thương mại từ 1% đến 5% rồi lên 10%,giải pháp này đã góp phần giảm sức ép đối với tỷ giá hối đoái.Mặc dù có những biến động phức tạp về tỷ giá hối đoái song tổng kim nghạch xuất khẩu năm 1997 vẫn tăng xấp xỉ 9%, đạt được 20050 triệu USD. Mặc dù còn tồn tại nhiều khó khăn song năm 1997 Việt Nam đã đạt được một số thành công đáng kể.Chính sach tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt,một mặt tạo điều kiện cho giá trị đồng Việt Nam phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ,góp phần kiềm chế lạm phát,một mặt hỗ trợ xuất khẩu.
Sang năm 1998, tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng biến động phức tạp,tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng USD ngày càng tăng, thậm chí có ngày thay đổi vài lần điều này đã ảnh hưởng không tốt tới đời sống kinh tế xã hội .Nhiều doanh nghiệp cố gắng nắm giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm chênh lệch.Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua máy móc thiết bị hoặc L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không dám vay vì sợ tỷ giá biến động đột ngột sẽ không trả được nợ. Đồng ngoại tệ đóng băng, các ngân hàng không mua, không bán hoặc cho vay bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ra quyết định 37/1998/QĐ-TTg (ngày 14/2/1998) về một số biện pháp nhằm quản lý ngoại tệ và đã kiểm soát được lượng ngoại tệ, ngăn chặn cơn sốt tỷ giá. Tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trên thị trường chính thức đã sát lại gần nhau. Ngân hàng đã kiểm soát được 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường.
Tóm lại qua phân tích môí liên hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, ta có thể thấy rõ chính sách tỷ giá có vai trò quan trọng như thế nào trong việc làm thế nào lập lại thế cân bằng đối ngoại của một nền kinh tế vĩ mô. Mức độ ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến cán cân thanh toán hoàn toàn không đơn giản mà rất phức tạp,đòi hỏi một sự phân tích thoả đáng điều kiện thương mại trong nước, sự thay đổi của các chính sách kinh tế của quốc gia như chính sách lãi suất, chính sách thuế quan... đặc biệt là chính sách tỷ giá hối đoái (trong đó bao hàm việc lựa chọn chế độ tỷ giá và sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái.Phần sau, chúng ta sẽ nghiên cứu vấn đề này.
Phần III
Thực trạng và xu hướng phát triển chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
I- Thực trạng hoạch định và thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái.
1. Thời kỳ "thả nổi" tỷ giá hối đoái 1989-1992.
Giai đoạn nay nền kinh tế nước ta mới chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy việc ấn định một tỷ giá cứng nhắc như trong thời kỳ bao cấp sẽ trở nên bất hợp lý. Ngay từ năm 1989 Nhà nước đã xoá bỏ chế độ nhiều tỷ giá, thống nhất vào một tỷ giá gần sát với tỷ giá của thị trường.
Căn cứ theo quyết định số 217/CP (20/10/1988) NHTƯ đã được phép điều chỉnh tỷ giá phù hợp với sự biến động giá cả trong nước theo nguyên tắc thời giá trừ lùi 10% đến 30%, cá biệt đến 50%. Giá cả ở Việt Nam từ khi xoá bỏ chế độ bao cấp hầu hết được hình thành trên thị trường và biến động theo quy luật cung cầu. Như vậy tỷ giá đồng Việt Nam với đồng ngoại tệ cũng phải được điều chỉnh một cách linh hoạt phù hợp vpí sự biến động giá cả trong và ngoài nước.
Tuy nhiên xu hướng chung là tăng và được Nhà nước điều chỉnh sát giá của thị trường tự do, điều này chứng tỏ Nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu đã được quan tâm đầy đủ hơn. Trong bối cảnh của Việt Nam lúc đó đang hết sức khó khăn về cán cân thương mại và cán cân thanh toán thâm hụt nghiêm trọng thì việc điều chỉnh chính sách tỷ giá là rất khó khăn cần phải xem xét thận trọng. Để chính sách tỷ giá được chuyển đổi thích hợp nhưng vẫn đảm bảo khuyến khích xuất khẩu, kích thích đầu tư trong và ngoài nước mà không tạo cú sốc đến hoạt động của nền kinh tế, NHNN đã thực hiện đưa dần tỷ giá lên (phá giá từ từ đồng Việt Nam). Mặc dù giá cả biến động lớn nhưng NHNN đã xem xét mức độ ảnh hưởng của tỷ giá khi đưa lên giá cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá đầu vào của sản phẩm do đó đẩy giá đầu ra cao lên gây mất ổn định giá cả trong nước. Thực tế trong những năm 1988 và 1989 ở Việt Nam xuất khẩu chỉ bằng 1/3 nhập khẩu. Vì vậy khi nâng tỷ giá cao đột ngột sẽ gây tác động mạnh đến mức giá cả trong nước. Do đó trong giai đoạn những năm 1989 - 1992, mặc dù tỷ giá biến động lớn nhưng tỷ lệ điều chỉnh tỷ giá chỉ từ 10% đến 30% so với mức thay đổi giá thực tế. Điều này giảm bớt được sự biến động giá cả mạnh trong nước.
Chính sách tỷ giá thả nổi được thực hiện trong giai đoạn này đã mang lại giải pháp thích hợp hơn về chính sách tỷ giá cho một nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên nó cũng gây các tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta:
-Thứ nhất, việc thả nổi tỷ giá sẽ kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ nhằm mục đíc hưởng chênh lệch giá. Điều này làm cho cầu về ngoại tệ tăng, dẫn đến nhiều thay đổi đối với thị trường ngoại tệ.
-Thứ hai, dẫn đến tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến do tác động của giá cả bất ổn định trong giai đoạn này.Thêm vào đó, trường hợp thiếu ngoại tệ gây nên những cơn sốt USD làm mất ổn định nền kinh tế.
-Thứ ba, thị trường chi phối toàn bộ tỷ giá sẽ làm cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ giảm hiệu lực. Từ đó làm cho việc quản lý cung tiền nói chung và ngoại tệ nói riêng của Chính phủ không đạt được những kết quả như mong muốn.
-Thứ tư, do nhu cầu về ngoại tệ thay đổi theo tỷ giá nên Nhà nước khó có thể kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Vì những tồn tại trên, Nhà nước thấy rằng cần phải có những thay đổi nhất định trong chính sách tỷ giá.
2. Giai đoạn 1993 - 1996 - Giai đoạn cố định tỷ giá :
Từ sau năm 1992, Nhà nước đã đưa ra quan điểm ổn định tỷ giá băng cách thực hiện chính sách cố định tỷ giá. ở giai đoạn đầu, khi mới bắt đầu điều hành tỷ giá theo cơ chế thị trường, việc can thiệp của NHNN vào thị trường là rất chặt chẽ. Tuy nhiên đến thời gian tiếp theo khi nguồn ngoại tệ vào Việt Nam đã tăng lên, cung cầu không còn khoảng cách lớn thì NHNN đã từng bước giảm bớt sự can thiệp để cho tỷ giá hình thành một cách khách quan hơn theo quan hệ cung cầu. Để thực hiện cố định tỷ giá NHNN đã can thiệp bằng cách mua và bán ngoại tệ: NHNN sẽ bán ngoại tệ để giảm bớt sự xuống giá của đồng Việt Nam quá mạnh (như khoảng cuối năm 1991 và đầu năm 1992); hoặc NHNN sẽ mua ngoại tệ vào nhằm hạn chế sự tăng giá của đồng Việt Nam (những năm1992 - 1995 và 6 tháng đầu năm 1996). Kết quả là tỷ giá sẽ được ổn định.
Việc thực hiện cố định tỷ giá như vậy đã có vai trò lớn trong sự ổn định của đồng Việt Nam, tức là nó đã tạo được lòng tin cho dân chúng vào đồng Việt Nam, từ đó củng cố sức mua cho VNĐ; đồng thời cũng tạo ra tâm lý ổn định của thị trường, nhờ đó đã thu hút được nguồn ngoại tệ lớn từ kiều hối, đầu tư nước ngoài, vay nợ vào Việt Nam. Có thể nói rằng sự ổn định của đồng Việt Nam ở đây không phải chỉ xét về danh nghĩa mà cả về giá trị thực của nó.
Việc ổn định tỷ giá cũng có ảnh hưởng tốt tới mặt bằng giá cả trong nước. Giá cả tương đối ổn định sẽ tác động tích cực tới tỷ lệ lạm phát, thể hiện ở chỗ qua các năm 1993 - 1996 chỉ số lạm phát được duy trì ở mức chấp nhận được và có chiều hướng đi xuống, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn tương đối khá đã làm cho quan hệ tiền hàng được đảm bảo.
Tuy nhiên, việc cố định tỷ giá trong một thời gian dài (1993 - 1996) cũng gây ra những bất lợi. Đó là đã không khuyến khích được xuất khẩu, làm cho ngoại thương trở nên kém phát triển. Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu gây thâm hụt cán cân thương mại. Từ đó đưa đến tình trạng phải tiêu dự trữ ngoại hối quốc gia hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán.
3. Giai đoạn từ 1997 đến nay:
Như ta đã biết, ngày 2/7/1997 Thái Lan phải thả nổi tỷ giá hối đoái kết thúc gần 14 năm duy trì một chế độ tỷ giá cố định và làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam á với một ảnh hưởng rộng khắp trên toàn thế giới.Việt Nam cũng không tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này đã tác động đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.Cụ thể:
- Đối với lĩnh vực tài chính -ngân hàng: Khủng hoảng đã tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ, tác động xấu đến hoạt động giao dịch ngoại tệ,ảnh hưởng đến cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng, gây sức ép đối với lãi suất đồng Việt Nam và sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
- Đối với lĩnh vực ngoại thương: Cuộc khủng hoảng làm giảm xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực Châu á - Thái Bình Dương, đặc biệt là các nước ASEAN.Sự mất giá của đồng tiền trong khu vực đã kích thích gia tăng nhập khẩu.
- Đối với lĩnh vực đầu tư: Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp cùng với những dự đoán không tốt trong tương lai làm các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, ngân hàng cũng dè dặt khi cho vay.Đầu tư của nước ngoài có xu hướng giảm.
- Đối với thu chi ngân sách nhà nước: Sự sút giảm của thị trường tiêu dùng và thị trường xuất khẩu đã làm cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách. Báo cáo cuả NNHH về hoạt động tín dụng, tiền tệ ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ rõ "thu ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30% so với kế hoạch năm, chi ngân sách khó hơn,mức bội chi có xu hướng gia tăng".
- Đối với tăng trưởng kinh tế: Khủng hoảng đã ảnh hưởng gián tiếp đến cán cân vãng lai,đến đầu tư nước ngoài,tạo khó khăn cho sự phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh như vậy, Chính phủ đã có những điều chỉnh trong chính sách tỷ giá hối đoái nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói riêng nhằm hạn chế những tác động của khủng hoảng.
13/10/1997 Thống đốc NHNN quyết định mở rộng biên độ giao dịch lên mức +(-)10%.Ngày 16/2/1998 NHNN quyết định nâng tỷ giá chính thức từ 1USD=11175VNĐ lên mức 1USD=11800VNĐ, tăng 5,6%.
Đến ngày 1/8/1998 NHNN điều chỉnh tăng lần thứ hai đưa tỷ giá chính thức lên 12 998 VNĐ /USD ( tăng 16.3% so với đầu năm) đồng thời biên độ giao dịch được điều chỉnh giảm từ 10% xuống 7% để thu hẹp dần khoảng cách giữa tỷ giá chính thức với tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Sau hai lần điều chỉnh tỷ giá phản ánh sát hơn tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường, góp hạn chế việc đầu cơ ngoại tệ, giảm bớt sức ép đối với dự trữ ngoại tệ của Nhà nước.
Năm 1999, NHNN thực hiện một bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá, từ quản lý có tính chất hành chính sang điều hành theo hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ ngày 26/2/1999 thay bằng việc công bố tỷ giá chính thức NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tỷ giá này được áp dụng làm cơ sở để các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ, áp dụng để tính thuế xuất khẩu.Trên cơ sở tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHNN công bố các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch không vượt quá 8.1% so với tỷ giá này. Đồng thời, biên độ giao dịch cũng được rút xuống là+(-)0,1%.Với cơ chế điều hành mới, tỷ giâ của đồng Việt Nam được hình thành trên cở giao dịch trên thị trường và phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo được vai trò kiểm soát của Nhà nước.
Tóm lại, trong công cuộc đổi mới đặc biệt là từ năm1989, chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có bước chuyển biến rất căn bản sang cơ chế thị trường thoát khỏi trạng thái thụ động để trở thành công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế mở. Tuy nhiên, điều chỉnh tỷ giá hối đoái là công việc phức tạp, khó khăn. Việc thực hiện các chính sách tỷ giá hố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72424.DOC