MỤC LỤC Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
MỤC LỤC 1
Danh mục viết tắt 3
Danh mục các hình vẽ 4
Dang muc các bảng 5
MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Mục tiêu của đề tài 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Phương pháp nghiên cứu 7
5. Lịch sử nghiên cứu của đề tài 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT 9
1.1. Vật liệu mao quản trung bình 9
1.2. Phương pháp tổng hợp vật liệu MQTB 10
1.2.1. Chất định hướng cấu trúc 10
1.2.2. Cơ chế hình thành vật liệu MQTB 11
1.2.3. Sự thay thế đồng hình Si4+ bởi ion kim loại Men+ 15
1.2.4. Phương pháp thủy nhiệt 18
1.3. Một số phương pháp hóa lý đặc trưng vật liệu 19
1.3.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) 19
1.3.2. Các phương pháp hiển vi điện tử 20
1.3.3. Phương pháp phổ kích thích electron
(Ultra Violet – Visible: UV-Vis 26
1.4. Vai trò xúc tác của MCM-41 27
1.4.1. Xúc tác axit 27
1.4.2. Xúc tác oxy hoá – khử 28
1.4.3. Chất mang – Chất hấp phụ 29
1.4.4. Ứng dụng trong sắc ký lỏng hiệu suất cao (HPLC) 30
1.4.5. Các lĩnh vực ứng dụng khác 30
1.5. Oxy hóa phenol trong môi trường nước 30
1.5.1. Sự ô nhiễm môi trường do phenol 30
1.5.2 Oxy hóa phenol trong môi trường nước 31
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM 32
2.1. Hóa chất và dụng cụ 32
2.1.1. Hóa chất 32
2.1.2. Dụng cụ 33
2.2. Thực nghiệm 33
2.2.1. Nguyên tắc 33
2.2.2. Điều kiện phản ứng 33
2.2.3. Tiến hành thực nghiệm 34
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36
3.1. Kết quả xúc tác phân hủy phenol 36
3.2. Kết quả xúc tác phân hủy xanh metylen 48
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO 53
47 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2867 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng MCM-41 để xử lí các chất hữu cơ độc hại trong môi trường nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh cấu trúc MQTB lục lăng.
Hình 1.5. Cơ chế phù hợp mật độ điện tích [27]
1.2.2.5. Cơ chế phối hợp tạo cấu trúc (Cooperative Templating)
Cơ chế này được Huo và các cộng sự đề nghị [29, 31].
Trong một số trường hợp, nồng độ chất định hướng cấu trúc có thể thấp hơn nồng độ cần thiết để tạo ra cấu trúc tinh thể lỏng hay thậm chí là dạng mixen.
Theo cơ chế này, trước khi thêm nguồn silic vào, các phân tử định hướng cấu trúc nằm ở trạng thái cân bằng động giữa mixen ống, mixen cầu và các phân tử chất định hướng cấu trúc riêng rẽ.
Khi thêm nguồn silic vào, các dạng silicat đa điện tích thay thế các ion đối của các chất định hướng cấu trúc, tạo thành các cặp ion hữu cơ – vô cơ. Chúng tự sắp xếp tạo thành pha silic.
Bản chất của các pha trung gian này được khống chế bởi các tương tác đa phối trí.
Hình 1.6. Cơ chế phối hợp tạo cấu trúc [27]
1.2.4. Phương pháp thủy nhiệt [6]
Có nhiều phương pháp tổng hợp vật liệu Fe-MCM-41 như phương pháp sol-gel [11, 16], phương pháp đồng kết tủa, phương pháp nhiệt luyện,… Ở đây, chúng tôi dùng phương pháp thủy luyện để tổng hợp vật liệu. Vì phương pháp này khá đơn giản, phù hợp với điều kiện phòng thí nghiệm của chúng ta hiện nay.
Hỗn hợp phản ứng được đưa vào autoclave (bình teflon) ở dạng huyền phù hidroxit hay ankoxit, kết tinh được thực hiện ở nhiệt độ thấp từ 100 – 170 0C, áp suất tự sinh từ 1 đến vài chục atm, tránh được việc nung nhiều giai đoạn như phương pháp sol-gel. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi phải xử lý nhiệt trong nhiều giờ vì tốc độ phản ứng chậm.
Phương pháp thủy nhiệt không phải là mới, nó được ứng dụng từ thế kỷ trước để tổng hợp các khoáng vật, điều hấp dẫn này được Morey mô tả vào năm 1953.
Ngày nay, kỹ thuật thủy nhiệt được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp để hòa tan quặng boxit. Sau đó kết tủa thu được Al(OH)3 đem dùng làm chất đầu cho việc tổng hợp zeolit. Tuy nhiên, chỉ trong những năm gần đây, phương pháp này mới thu hút sự chú ý đáng kể cho việc tổng hợp vật liệu, điều đó thể hiện khá rõ qua lượng công trình nghiên cứu ngày càng tăng của phương pháp này, chỉ sau phương pháp sol-gel.
1.3. Các phương pháp hóa lý đặc trưng vật liệu
1.3.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) [10]
Phương pháp nhiễu xạ tia X cung cấp trực tiếp những thông tin về cấu trúc lỗ xốp của vật liệu. Xét hai mặt phẳng song song i và ii có khoảng cách d. Chiếu chùm tia Rơnghen tạo với các mặt phẳng trên một góc θ. Để các tia phản xạ có thể giao thoa thì hiệu quang trình của hai tia 11’ và 22’ phải bằng số nguyên lần bước sóng l
AB + AC = nl hay 2dsinθ = nl
Đó là phương trình Bragg. Như đã đề cập ở phần trên, do vật liệu xốp mao quản trung bình có cấu trúc thành lỗ ở dạng vô định hình nên kết quả nhiễu xạ tia X ở góc lớn không cho thông tin về cấu trúc vật liệu. Trong giản đồ nhiễu xạ tia X của loại vật liệu này chỉ xuất hiện những Pic ở góc 2θ nhỏ (thường dưới 7o), và những pic này phản ánh mức độ tuần hoàn của các lỗ xốp.
Hình 1.7. Sự phản xạ trên bề mặt tinh thể [10]
Từ giản đồ nhiễu xạ tia X, ta có thể thu được một số thông tin quan trọng như: mức độ trật tự của các lỗ xốp, giá trị khoảng cách giữa các mặt phẳng song song (cùng chỉ số miller) từ đó suy ra giá trị khoảng cách giữa hai tâm mao quản liền nhau. Dựa vào giá trị khoảng cách giữa hai tâm mao quản liền kề với dữ liệu đường kính mao quản thu được từ phương pháp hấp phụ nitơ, ta có thể tính được độ dày của thành mao quản.
1.3.2. Các phương pháp hiển vi điện tử
Hiển vi điện tử là phương pháp sử dụng chùm tia electron năng lượng cao để khảo sát những vật thể rất nhỏ. Kết quả thu được qua những khảo sát này phản ánh về mặt hình thái học, diện mạo học và tinh thể học của vật liệu mà chúng ta cần xác định. Phương diện hình thái bao gồm hình dạng và kích thước của hạt cấu trúc nên vật liệu. Diện mạo là các đặc trưng bề mặt của một vật liệu bao gồm kết cấu bề mặt hoặc độ cứng của vật liệu. Phương diện tinh thể học mô tả cách sắp xếp của các nguyên tử trong vật thể như thế nào. Chúng có thể sắp xếp có trật tự trong mạng tạo nên trạng thái tinh thể hoặc sắp xếp ngẫu nhiên hình thành dạng vô định hình. Cách sắp xếp của các nguyên tử một cách có trật tự sẽ ảnh hưởng đến các tính chất như độ dẫn, tính chất điện và độ bền của vật liệu.
Các phương pháp hiển vi điện tử được phát triển để thay thế các phương pháp hiển vi quang học bị hạn chế bởi độ phóng đại, chỉ đạt được 500 – 1000 lần với độ phân giải 0,2 micromet. Hiển vi điện tử truyền qua (TEM) [10] là phương pháp hiển vi điện tử đầu tiên được phát triển với thiết kế đầu tiên mô phỏng phương pháp hiển vi quang học truyền qua (những năm đầu 1930). Phương pháp này sử dụng một chùm electron thay thế chùm sáng chiếu xuyên qua mẫu vật và thu được những thông tin về cấu trúc và thành phần của nó giống như cách sử dụng hiển vi quang học.
Các bước để thu được một ảnh hiển vi điện tử gồm:
Một dòng electron hình thành từ một nguồn electron được tăng tốc hướng về phía mẫu được tích điện dương.
Chùm electron được điều khiển và hội tụ nhờ những khe hở và các thấu kính hội tụ từ tính hình thành một chùm tia nhỏ, đơn sắc.
Chùm electron được hội tụ vào mẫu nhờ sử một dụng thấu kính hội tụ từ tính.
Do xảy ra những tương tác xảy ra bên trong của mẫu nên chùm tia chiếu vào sẽ bị ảnh hưởng đồng thời xảy ra các bức xạ thứ cấp.
Những tương tác và ảnh hưởng trên được ghi lại, khuyếch đại và chuyển thành hình ảnh hoặc được phân tích để thu được những thông tín có giá trị khác.
1.3.2.1. Hiển vi điện tử quét (SEM) [10]
Phương pháp hiển vi điện tử quét được phát triển lần đầu tiên vào năm 1942 và thiết bị có giá trị thương mại được giới thiệu vào năm 1965. Phương pháp này được phát triển muộn hơn so với TEM [10] là do những khó khăn về mặt điện tử trong việc quét dòng electron.
Nhưng phương pháp SEM tỏ ra phổ biến hơn so với TEM do SEM có thể thu được những bức ảnh có chất lượng ba chiều cao, có sự rõ nét hơn và không đòi hỏi phức tạp trong khâu chuẩn bị mẫu, tuy nhiên phương pháp TEM lại cho hình ảnh với độ phóng đại lớn hơn. Phương pháp SEM đặc biệt hữu dụng bởi vì nó cho độ phóng đại có thể thay đổi từ 10 đến 100.000 lần với hình ảnh rõ nét, hiển thị ba chiều phù hợp cho việc phân tích hình dạng và cấu trúc bề mặt.
Hình 1.8. Sơ đồ nguyên lý của kính hiển vi điện tử quét [10]
Hình 1.8 là sơ đồ đơn giản của thiết bị SEM, chùm electron từ ống phóng được đi qua một vật kính và được lọc thành một dòng hẹp. Vật kính chứa một số cuộn dây (cuộn lái electron) được cung cấp với điện thế thay đổi, cuộn dây tạo nên một trường điện từ tác động lên chùm electron, từ đó chùm electron sẽ quét lên bề mặt mẫu tạo thành trường quét. Tín hiệu của cuộn lái cũng được chuyển đến ống catôt để điều khiển quá trình quét ảnh trên màn hình đồng bộ với quá trình quét chùm electron trên bề mặt mẫu. Khi chùm electron đập vào bề mặt mẫu tạo thành một tập hợp các hạt thứ cấp đi tới detector, tại đây nó được chuyển thành tín hiệu điện và được khuyếch đại. Tín hiệu điện được gửi tới ống tia catôt và được quét lên màn hình tạo nên ảnh. Độ nét của ảnh được xác định bởi số hạt thứ cấp đập vào ống tia catôt, số hạt này lại phụ thuộc vào góc bắn ra của electron khỏi bề mặt mẫu, tức là phụ thuộc vào mức độ lồi lõm bề mặt. Vì thế ảnh thu được sẽ phản ánh diện mạo bề mặt của vật liệu.
Hình 1.9. Ảnh SEM của mẫu MCM-41
1.3.2.2. Hiển vi điện tử truyền qua (TEM) [10]
Mặc dù phát triển trước nhưng đến bây giờ TEM mới tỏ ra có ưu thế hơn SEM [10] trong lĩnh vực vật liệu mới. Nó có thể dễ dàng đạt được độ phóng đại 400.000 lần với nhiều vật liệu, và với các nguyên tử nó có thể đạt được độ phóng đại tới 15 triệu lần. Cấu trúc của thiết bị TEM khá giống với một máy chiếu (projector), một chùm sáng được phóng qua xuyên phim (slide) và kết quả thu được sẽ phản ánh những chủ đề được thể hiện trên đó, hình ảnh sẽ được phóng to và hiển thị lên màn chiếu.
Các bước của ghi ảnh TEM cũng tương tự: chiếu một chùm electron qua một mẫu vật, tín hiệu thu được sẽ được phóng to và chuyển lên màn huỳnh quang cho người sử dụng quan sát. Mẫu vật liệu chuẩn bị cho TEM phải mỏng để cho phép electron có thể xuyên qua giống như tia sáng có thể xuyên qua vật thể trong hiển vi quang học, do đó việc chuẩn bị mẫu sẽ quyết định tới chất lượng của ảnh TEM.
Hình 1.10. Sơ đồ nguyên lí của kính hiển vi điện tử truyền qua [10]
Một chùm electron được tạo ra từ nguồn cung cấp.
Chùm electron này được tập trung lại thành dòng electron hẹp bởi các thấu kính hội tụ điện từ.
Dòng electron đập vào mẫu và một phần sẽ xuyên qua mẫu.
Phần truyền qua sẽ được hội tụ bởi một thấu kính và hình thành ảnh.
Ảnh được truyền từ thấu kính đến bộ phận phóng đại.
Cuối cùng tín hiệu tương tác với màn hình huỳnh quang và sinh ra ánh sáng cho phép người dùng quan sát được ảnh. Phần tối của ảnh đại diện cho vùng mẫu đã cản trở, chỉ cho một số ít electron xuyên qua (vùng mẫu dày hoặc có mật độ cao). Phần sáng của ảnh đại diện cho những vùng mẫu không cản trở, cho nhiều electron truyền qua (vùng này mỏng hoặc có mật độ thấp).
Tuy có độ phóng đại và độ phân giải cao hình ảnh của TEM không thể hiện được tính lập thể của vật liệu. Nhiều trường hợp người ta sử dụng kết hợp phương pháp SEM và TEM để khai thác những ưu điểm của hai phương pháp này.
Trong các phương pháp hiển vi điện tử, khi các electron va chạm với hạt nhân nguyên tử của mẫu sẽ xảy ra hàng loạt các hiệu ứng khác nhau và dựa trên những hiệu ứng này người ta có thể kết hợp hiển vi điện tử với các phương pháp phân tích định tính cũng như định lượng.
nhìn từ phía bên nhìn từ trên xuống
Hình 1.11. Ảnh TEM của mẫu MCM-41
Hình 1.12. Sơ đồ cho thấy sự phong phú về thông tin thu được từ tương tác giữa chùm điện tử với mẫu trong nghiên cứu hiển vi điện tử
1.3.3. Phương pháp phổ kích thích electron (Ultra Violet – Visible: UV-Vis)
Sự hấp phụ của phân tử trong vùng quang phổ tử ngoại và khả kiến (UV-Vis) [8, 10] phụ thuộc vào cấu trúc electron của phân tử. Sự hấp thụ năng lượng được lượng tử hóa và do các electron bị kích thích nhảy từ obitan có mức năng lượng thấp lên các obitan có mức năng lượng cao gây ra. Bước chuyển năng lượng này tương ứng với sự hấp thụ các tia sáng có bước sóng khác nhau theo phương trình:
Trong đó: h là hằng số Plăng
c là vận tốc ánh sáng
Khi phân tử bị kích thích, các electron của các nguyên tử trong phân tử thực hiện các bước nhảy sau:
*
*
n
Hình 1.13. Bước chuyển của các electron trong phân tử [7]
Trong đó: n: obitan không kiên kết
: obitan liên kết
*: obiran phản liên kết
: obitan liên kết
*: obitanphản liên kết
Các điện tử khi bị kích thích bởi các bức xạ điện từ sẽ nhảy lên các obitan có mức năng lượng cao hơn, các bước nhảy có thể là: à*, à*, n à *, n à*, tùy vào năng lượng kích mà các electron thực hiện các bước chuyển năng lượng khác nhau. Cơ sở của phương pháp này là dựa vào định luật Lambert-Beer.
Phương trình:
Trong đó: A: độ hấp thụ ánh sáng
I, I0: cường độ bức xạ điện từ sau và trước khi qua chất phân tích
: hệ số hấp thụ
l: độ dày cuvet
c: nồng độ chất phân tích
Phương pháp phổ hấp thụ UV-Vis được sử dụng rất thuận lợi và phổ biến để phân tích các chất.
1.4. Vai trò xúc tác của MCM-41
1.4.1. Xúc tác axit
Lĩnh vực đầu tiên ứng dụng vật liệu M41S có thể nghĩ ngay đến đó là xúc tác cracking các phân tử lớn, cồng kềnh. Corma [14] đã so sánh Al-MCM-41, aluminosilicat vô định hình và zeolit USY (zeolit Y) làm xúc tác cracking n-hexan, thì USY có hoạt tính gấp 140 lần Al-MCM-41 [6]. Điều này có thể giải thích vì số trung tâm axit Bronsted ở trong zeolit nhiều hơn so với Al-MCM-41. Tuy nhiên Al-MCM-41 lại có hoạt tính cao hơn nhiều so với aluminosilicat vô định hình và tương đương với zeolit USY trong quá trình cracking các phân tử dầu phân đoạn nặng. Độ chọn lọc của Al-MCM-41 trong cracking phân đoạn nặng thu được nhiều nhiên liệu lỏng hơn, ít khí và cốc hơn so với aluminoslilicat vô định hình. Với zeolit USY, thì cracking thu được chủ yếu là diesel, ít xăng và nhiều cốc hơn. Do đó dễ dàng thấy được đối với các phân tử lớn thì dùng xúc tác Al-MCM-41 là có lợi hơn cả.
Sau khi cracking, xúc tác phải được tái sinh và loại xúc tác mới có một giới hạn đáng quan tâm. Đối với các quá trình ứng dụng, độ bền nhiệt của xúc tác là hết sức quan trọng. Trong xúc tác tầng sôi, xúc tác phải qua một quá trình tái sinh để loại cốc. Quá trình này được tiến hành ở nhiệt độ khoảng 8000C và có mặt hơi nước. Dưới điều kiện này Al-MCM-41 không bền. Độ bền tăng lên khi giảm hàm lượng Al, nhưng khi đó hoạt tính xúc tác cũng giảm xuống.
Khuynh hướng tương tự đối với Al-MCM-48. Do vậy, độ bền thuỷ nhiệt của Al-MCM-41 và Al-MCM-48 cần phải được cải thiện trước khi có thể áp dụng rộng trong quá trình xúc tác chẳng hạn như cracking phân đoạn dầu chân không. Có vài phương pháp có thể sử dụng để nâng cao độ bền nhiệt của xúc tác, một trong những cách đó là tăng độ dày thành của vật liệu xốp, cách khác là đưa tinh thể vào thành lỗ (hoặc cố gắng chuyển thành lỗ dạng vô định hình sang tinh thể), bằng cách đó có thể tăng được độ bền của vật liệu xốp lên tương đương với zeolit. Tuy nhiên quá trình tinh luyện lại không yêu cầu loại xúc tác phải có tính bền nhiệt và có độ axit cao như xúc tác cho quá trình cracking. Chẳng hạn quá trình hydrocracking, tách kim loại, hydro đồng phân hoá và olefin oligome hoá. Do vậy loại vật liệu xốp mao quản trung bình rất phù hợp cho các quá trình này.
Xúc tác hai chức năng Pt/Al-MCM-41 tỏ ra có hiệu quả cao cho phản ứng đồng phân hoá parafin thành isoparafin. Đầu tiên phản ứng xảy ra trên các tâm kim loại Pt, quá trình này parafin bị tách hydro tạo thành olefin. Các phân tử olefin này có hoạt tính cao và tâm axit trung bình Al-MCM-41 [6] cho phép quá trình đồng phân hoá tạo ra isoolefin. Isoolefin lại được hydro hoá ở tâm kim loại tạo thành isoparafin. Do sự phân tán của Pt trên bề mặt của Al-MCM-41 tốt hơn trên aluminosilicat vô định hình nên quá trình cracking xảy ra ít hơn, sản phẩm thu được tốt hơn.
1.4.2. Xúc tác oxy hoá – khử
Xúc tác oxy hoá chọn lọc parafin, olefin và alcol thu được thành công lớn với xúc tác titansilicat. Do đó để có thể tiến hành được với những phân tử lớn thì phải cố gắng mở rộng kích thước lỗ đối với loại xúc tác này. Trước kia phải sử dụng xúc tác Ti-b-zeolit, thì đến năm 1994 đã tổng hợp được Ti-MCM-41 [25] có thể oxy hoá olefin thành epoxy sử dụng H2O2 hoặc hydropeoxit hữu cơ làm tác nhân oxy hoá. Phản ứng oxy hoá các chất khác cũng đã được tiến hành với hiệu quả cao.
Một xúc tác axit-oxy hoá hai chức năng được điều chế thành công cho phép xúc tác cho phản ứng hai bước trên cùng một vật liệu. Đó là Ti-Al-MCM-41 chứa trung tâm oxy hoá là Ti phối trí 4, kết hợp với tâm axit là H+ và nhôm phối trí 4. Xúc tác được thử với tert-butyl hydropeoxit trong phản ứng oxy hoá nhiều bước linalool (CH3)2C=CH(CH2)2CCH3OHCH=CH2 thành furanol vòng và pyran hydroxy ete. Độ chọn lọc đạt được 100% ở tỷ lệ 0,89.
Đây là quá trình ưu việt hơn phương pháp thông thường khi phải tiến hành từng bước. Sự thành công của titan trên cấu trúc vật liệu xốp meso đã tạo đà thuận lợi cho việc đưa các kim loại chuyển tiếp khác lên cấu trúc vật liệu xốp. Tuy nhiên vấn đề chủ yếu của xúc tác kim loại chuyển tiếp trên nền chất mang là vật liệu xốp ở chỗ: hoạt tính và độ chọn lọc giảm mạnh khi ta tăng hàm lượng các kim loại này. Một trở ngại khác là sự thay đổi trạng thái oxy hoá của kim loại trong quá trình nung và tái sinh.
1.4.3. Chất mang - Chất hấp phụ
Vật liệu M41S có diện tích bề mặt lớn (khoảng 1000 m2/g) [4] nên chúng là đối tượng rất hấp dẫn để làm chất nền cho các chất có hoạt tính hoá học khác. Cấu trúc xốp meso được sử dụng làm chất mang cho axit, bazơ và các nano kim loại hoặc oxit kim loại. Như vậy khi kết hợp một oxit hoặc một kim loại có hoạt tính xúc tác cao với một khung có diện tích bề mặt lớn có thể làm các chất xúc tác ở trạng thái phân tán cao nên có thể phát huy tối đa tác dụng của chúng. Ngoài ra do có diện tích bề mặt lớn mà các vật liệu xốp cũng được sử dụng để chế tạo các chất hấp phụ.
1.4.4. Ứng dụng trong sắc ký lỏng hiệu suất cao (HPLC)
Al-MCM-41 [6] được sử dụng làm pha tĩnh trong sắc ký lỏng hiệu năng cao: do nó có cả tính axit và bazơ nên thích hợp cho việc sắc ký phân tách các hợp chất axit, trung hoà và hợp chất bazơ. Các vật liệu xốp họ M41S được gắn với (R)-naphtylethylamin và được sử dụng như là chất mang trong sắc ký lỏng hiệu năng cao bất đối xứng
1.4.5. Các lĩnh vực ứng dụng khác
Ngoài ra các vật liệu xốp còn rất nhiều những ứng dụng thú vị như: Sử dụng vật liệu xốp để điều khiển chọn lọc hình học trong quá trình polime hoá styren, metylmetacrylat và vinyl axetat; dùng các vật liệu xốp trong chế tạo vật liệu cảm biến, tế bào năng lượng, điện cực nano, trong các thiết bị quang học, pin, tế bào nhiên liệu… trong một số công trình nghiên cứu gần đây người ta đã thông báo sử dụng ưu điểm về lỗ xốp của vật liệu mao quản trung bình để tổng hợp các phần tử nano nằm trong những lỗ xốp này, đây cũng là thông tin thú vị và nó sẽ mở ra một hướng nghiên cứu mới thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học.
1.5. Oxy hóa phenol trong môi trường nước
1.5.1. Sự ô nhiễm môi trường do phenol
Phenol và các dẫn xuất của nó chiếm một vị trí quan trọng trong công nghiệp hóa học. Hàng năm thế giới sản xuất hơn 3,5 triệu tấn phenol. Phenol và các axit cresylic và cresol được sử dụng để sản xuất nhựa phenol - focmaldehyt và photphat - tricresyl. Phenol, alkyl - phenol và poly - phenol là các vật liệu quan trọng để sản xuất các hợp chất hữu cơ, chất màu, dược phẩm, chất hóa dẻo, chất chống oxi hóa,… Đi đôi với quá trình sản xuất đó, hàng năm trên thế giới đã thải ra một lượng đáng kể rác thải chứa phenol cũng như dẫn xuất của phenol.
Phenol và dẫn xuất của nó có độc tính cao, khả năng phân hủy sinh học thấp (khó phân hủy sinh học), gây thiệt hại cho môi trường sống dưới nước. Phenol tác động đến nước và mùi vị của nước, ngay cả với một lượng cực kỳ nhỏ. Nói chung, việc xử lý nước chứa một hàm lượng phenol > 200 mg/l bằng kỹ thuật sinh học là rất khó [2]. Người ta thấy rằng xử lí ô nhiễm bằng sinh học có thể thực hiện hiệu quả khi nồng độ cực đại của phenol trong nước chỉ khoảng 50 - 70 mg/l. Hiện nay, hầu hết các nguồn nước đều chứa lượng phenol cao hơn nhiều so với giới hạn nói trên (2000 - 3000 mg/l). Do đó, người ta phải tiến hành xử lý hóa học phenol đến mức đủ thấp để xử lí sinh học hoặc hấp phụ…
1.5.2. Oxy hóa phenol trong môi trường nước [17]
Trước đây, hầu hết các nghiên cứu oxy hóa phenol trong dung dịch nước đều tập trung vào hướng oxi hóa phenol bằng không khí (Wet Air Oxidation - WAO) ở nhiệt độ và áp suất cao, có hoặc không có chất xúc tác. Những nghiên cứu các tác nhân oxy hóa như ozon (O3) và hidropeoxit (H2O2) còn rất ít. Phương pháp WAO có ưu điểm dùng oxi không khí, song phương pháp này đòi hỏi phải thực hiện ở nhiệt độ và áp suất cao nên cần thiết bị đặc biệt đắt tiền làm cho chi phí vận hành cao, không kinh tế.
Để khắc phục nhược điểm của phương pháp WAO, người ta đưa xúc tác vào hệ trên (Catalystic Wet Air Oxidation - CWAO) đã làm giảm chi phí đáng kể. Song phương pháp CWAO cần phải lựa chọn xúc tác thích hợp có hoạt tính cao, vật liệu làm chất mang phải chịu được môi trường (axit hoặc kiềm) dưới nhiệt độ và áp suất cao.
Một trong những phương pháp có khả năng thay thế hai phương pháp trên là phương pháp sử dụng tác nhân oxi hóa H2O2 [22].
Theo Devlin và Harris [18] phản ứng oxi hóa phenol trong nước xảy ra theo sơ đồ hình 3.3 hoặc sơ đồ hình 3.4. Tùy vào điều kiện phản ứng (bản chất tác nhân oxi hóa: O2, O3, H2O2,..., nhiệt độ, áp suất, xúc tác) mà phản ứng xảy ra đến mức độ nào và tạo ra sản phẩm cuối cùng là gì.
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất và dụng cụ
2.1.1. Hóa chất
Tên hóa chất
Nguồn gốc
- Xúc tác MCM-41
- Phenol
- Xanh metylen
- H2O2 35%
- Tổng hợp từ trấu
- Trung Quốc
- Việt Nam (Thuốc trị nấm Millian)
- Trung Quốc
- Pha phenol từ phenol lỏng (D =1,072 g/ml):
Thể tích mỗi dung dịch cần pha là 500 ml.
Dung dịch phenol nồng độ a (g/l). Trong 500 ml dung dịch định pha cần có g phenol.
Dựa vào công thức , ta suy ra thể tích phenol cần lấy.
- Pha xanh metylen
Dung dịch xanh metylen có nồng độ 2 ml/l.
Dùng pipet hút 1 ml xanh metylen, chuyển hết vào bình định mức 500 ml, thêm nước cất, lắc đều. Thêm nước cất đến vạch.
2.1.2. Dụng cụ
- Bình cầu 2 cổ (500 ml)
- Sinh hàn
- Nhiệt kế
- Pipet
- Một số dụng cụ cơ bản khác.
2.2. Thực nghiệm
2.2.1. Nguyên tắc
Phản ứng oxi hóa phenol và xanh metylen được thực hiện gián đoạn, đầu tiên ta cho dung dịch phenol (hoặc xanh metylen) vào bình cầu 500 ml, khuấy, gia nhiệt đến nhiệt độ cần thiết, sau đó cho xúc tác và tác nhân oxi hóa H2O2. Lấy mẫu, lọc tách chất rắn và đem phân tích trên máy quang phổ UV-Vis Evolution-300 (Anh), với bước sóng từ 200 đến 800 nm.
2.2.2. Điều kiện phản ứng
- Phản ứng ở 700C
- Áp suất khí quyển
- Lượng phenol lấy cho mỗi lần phản ứng
+ Mẫu 1 g/l
+ Mẫu 2 g/l
+ Mẫu 5 g/l
- Tác nhân oxi hóa H2O2 (35%, d = 1,11 g/ml): 3 ml/lần
- Lượng xúc tác: 0,1 g/lần
2.2.3. Tiến hành thực nghiệm
2.2.3.1. Quá trình xúc tác phân hủy phenol trong môi trường nước
Đầu tiên, ta lấy 100 ml dung dịch phenol nồng độ 1 g/l cho vào bình cầu 2 cổ 250ml được nối với ống sinh hàn hồi lưu, đặt vào dung dịch nhiệt kế 1000C được đậy kín bằng một nút cao su ta khuấy dung dịch này bằng máy khuấy từ, gia nhiệt đến 700C như hình 2. Sau đó, ta cho 0,1g MCM-41 và 2 ml dung dịch H2O2 (30%, d = 1,11 g/ml) vào bình cầu 2 cổ, tiếp tục khuấy trên máy khuấy từ. Sau những khoảng thời gian (0, 10, 30, 60, 90, 120 phút), dùng pipet hút 5 ml dung dịch mẫu phản ứng.
Với dung dịch phenol nồng độ 2 g/l, 5 g/l, 0,2 g/l, chúng tôi tiến hành thực nghiệm tương tự:
+ Với dung dịch 2 g/l, chúng tôi lấy 5 ml dung dịch mẫu ở các thời gian: 0, 10, 30, 60, 90, 120 và 150 phút.
+ Với dung dịch 5 g/l, chúng tôi lấy 5 ml dung dịch mẫu ở các thời gian: 0, 10, 30, 60, 120, 150 và 180 phút.
+ Với dung dịch phenol 0,2 g/l, không xúc tác MCM-41, chúng tôi lấy 5 ml dung dịch mẫu gốc và mẫu ở 90 phút.
2.2.3.2. Quá trình xúc tác phân hủy xanh metylen trong môi trường nước
- Quá trình xúc tác phân hủy xanh metylen cũng được thực hiện 1 cách tương tự. Sau các khoảng thời gian 0, 10, 20, 30, 40, 60 phút, mẫu được lấy ra 1 lần, mỗi lần 5 ml.
- Lọc bằng đầu lọc chuyên dụng và bảo quản cẩn thận, rồi đem dung dịch đo phổ UV-Vis.CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả xúc tác phân hủy phenol
Các phản ứng xử lý nước thải oxi hóa phenol thường thực hiện ở nhiệt độ, áp suất cao dẫn đến giá thành cao. Với mục đích tìm kiếm hệ xúc tác và các quy trình xử lý phenol ở nhiệt độ thấp, áp suất thường nên chúng tôi tiến hành thử hoạt tính của hệ xúc tác trong các điều kiện như mục 2.3.
Hình 3.1. Công thức cấu tạo của phenol
Như đã biết, phenol là chất rắn, không màu, tan ít trong nước, độ tan của phenol trong nước là 9,5 g/100ml H2O (ở 250C) [12], đây là một hợp chất rất bền. Phenol là một chất được sử dụng rất thông dụng trong kỹ thuật nhuộm, điều chế dược phẩm, chất kích thích sinh trưởng thực vật, chất diệt cỏ rất khó phân hủy và gây độc hại khi thải ra môi trường.
Độ hấp thụ A
Bước sóng (nm)
Hình 3.2. Phổ UV-Vis của phenol (mẫu 1g/l) ở thời điểm gốc, 10’, 30’, 60’
Hình 3.2 trình bày phổ UV-Vis của phenol, nồng độ 1 g/l dưới tác dụng của xúc tác MCM-41, có mặt của H2O2 theo thời gian phản ứng. Đường 1 là phổ hấp thụ của mẫu gốc (chưa phản ứng), các đường 2, 3, 4 lần lượt là phổ hấp thụ của các mẫu phản ứng sau 10, 30, 60 phút. Phổ UV-Vis của phenol có cực đại hấp thụ ở bước sóng = 271 nm, ứng với bước nhảy điện tử từ mức à *.
Nhận thấy rằng, độ hấp thụ của dung dịch phenol giảm khá nhanh, A = 1,24 xuống còn 0,55 sau 10 phút phản ứng và tiếp tục giảm xuống còn 0,19 sau 60 phút phản ứng. Điều đó cho thấy nồng độ của phenol đã giảm đáng kể dưới tác dụng của vật liệu MQTB MCM-41 có mặt của H2O2.
Càng kéo dài thời gian phản ứng, độ hấp thụ của dung dịch phenol càng giảm. Hình 3.3 lần lượt là phổ UV-Vis của mẫu gốc, mẫu 60, 90 và 120 phút. Cực đại hấp thụ ở 271 nm giảm, chứng tỏ nồng độ của phenol giảm và bằng không sau 120 phút. Như vậy, có thể khẳng định rằng, khả năng phân hủy phenol của MCM-41 có mặt H2O2 là khá tốt và vật liệu này có thể sử dụng để xử lí phenol có trong môi trường nước.
Độ hấp thụ A
Bước sóng (nm)
Hình 3.3. Phổ UV-Vis của phenol (mẫu 1g/l) ở thời điểm gốc, 60’, 90’, 120’
Tuy nhiên, nếu quan sát kĩ đường 4 trong hình 3.3, ta thấy rằng có sự biến đổi tạo thành các chất có cực đại hấp thụ chuyển về bước sóng ngắn hơn nhưng nồng độ rất bé. Theo chúng tôi đó có thể là các chất trung gian trong quá trình phân hủy phenol bằng xúc tác MCM-41 và H2O2. Quá trình oxi hóa phenol tạo nhựa và oxi hóa hoàn toàn phenol được trình bày ở sơ đồ 3.4 và 3.5:
Hình 3.4. Sơ đồ oxi hóa phenol (tạo nhựa) của Devlin và Harris
Theo Devlin và Harris [18] thì đó chủ yếu là hiđroquinon, catechol, benzoquinon và nhựa (tar), các chất này có cực đại hấp thụ gần giống với phenol. Tuy vậy, sau 120 phút, các chất trung gian này cũng bị phân hủy cùng với phenol.
Hình 3.5. Sơ đồ oxi hóa hoàn toàn phenol của Devlin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ứng dụng MCM-41 để xử lí các chất hữu cơ độc hại trong môi trường nước.doc