LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2
1. Khái niệm và bản chất thị trường chứng khoán 2
2. Chức năng của thị trường chứng khoán 3
2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế 3
2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng 3
2.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán 3
2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp 3
2.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô 4
3. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán 4
3.1. Nhà phát hành 4
3.2. Nhà đầu tư 4
3.3. Các tổ chức tài chính trung gian 6
3.4. Sở Giao dịch chứng khoán, thị trường phi tập trung (OTC) và Trung tâm lưu ký 6
3.5. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán 7
4. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán 7
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 9
1. Lịch sử hình thành 9
2. Thị trường chứng khoán Việt Nam 10
3. Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán 12
CHƯƠNG II: HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH 15
I. HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ 15
1. Khái niệm về hệ số beta trong mô hình CAPM 17
2. Danh mục đầu tư và sự phòng hộ rủi ro của danh mục đầu tư 18
2.1. Lý thuyết danh mục đầu tư 18
2.2. Rủi ro của danh mục đầu tư 22
2.3. Phòng hộ rủi ro của danh mục đầu tư bằng các công cụ phái sinh 23
3. Ý nghĩa và vai trò của hệ số beta của danh mục 30
3.1. Danh mục hỗn hợp 30
3.2. Danh mục thuần nhất ( ngành kinh tế) 31
II. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH HỆ SỐ BÊTA CỦA DANH MỤC 31
1. Các giả thiết 31
2. Thiết lập danh mục thị trường 32
3. Đường thị trường vốn và đường thị trường chứng khoán 34
3.1. Đường thị trường vốn 34
3.2. Đường thị trường chứng khoán 35
4. Mô hình CAPM 36
4. Mô hình chỉ số đơn 37
4.1. Giả thiết 37
4.2. Mô hình 38
CHƯƠNG III: ÁP DỤNG TÍNH TOÁN HỆ SỐ BÊTA CHO MỘT DANH MỤC CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 39
I. LỰA CHỌN DANH MỤC THÔNG QUA MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH 39
1. Lựa chọn chỉ tiêu tài chính 39
1.1. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) 39
1.2. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có (ROE) 39
1.3. Cổ tức 40
1.4. Thu nhập trên mỗi cổ phiếu ( EPS ) 40
1.5. Giá trên thu nhập của cổ phiếu ( P/E ) 40
1.6. Giá trị sổ sách của cổ phiếu phổ thông 41
2. Xây dựng danh mục 41
II. XÁC ĐỊNH HỆ SỐ BÊTA CỦA DANH MỤC 42
1. Xác định tỉ trọng của danh mục bằng phương pháp EGP 42
1.1. Các giả thiết 42
1.2. Thuật toán EGP 44
III. ĐỀ XUẤT VIỆC SỬ DỤNG HỆ SỐ BÊTA CỦA DANH MỤC 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 52
60 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2695 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ước lượng hệ số rủi ro bêta của danh mục đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể bị phạt tù hoặc cả hai hình thức trên. Nói chung ở một số nước có thị trường phát triển, các biện phát thanh tra xử lý vi phạm, cưỡng chế thực thi luôn được thực hiện chặt chẽ nhằm ngăn chặn các hành vi giao dịch không công bằng, tăng cường hiệu quả của công việc quản lý nhà nước đối với thị trường, giúp thị trường phát triển ổn định và hiệu quả.
CHƯƠNG II: HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH
I. HỆ SỐ BETA CỦA DANH MỤC ĐẦU TƯ
Khi nhà đầu tư thiết lập một danh mục đa dạng hoá đầu tư, rủi ro phi hệ thống là loại đầu tư không được thị trường trả giá. Nói cách khác, thị trường chỉ chấp nhận mang lại thu nhập cao hơn cho tài sản có mức rủi ro thị trường lớn hơn chứ không phải mức tổng rủi ro lớn hơn. Do đó, vấn đề đặt ra là để xác định mức thu nhập mong đợi của đầu tư vào một tài sản người ta cần phải đo lường “ mức rủi ro thị trường” của tài sản đó ( mức mà thị trường trả giá cho nó). Hệ số bêta là hệ số đo lường mức rủi ro thị trường này của từng tài sản cũng như của từng danh mục.
Các chuyên gia tài chính cho rằng các tài sản khác nhau mang theo mình những rủi ro không đa dạng hoá được khác nhau phụ thuộc vào sự biến động của chúng so với sự biến động của toàn thể thị trường. Hệ số bêta là hệ số đo lường sự biến động trong lợi suất của lợi suất toàn thể thị trường trong từng thời kỳ.
Theo định nghĩa trong từ điển tài chính Collins thì : hệ số bêta là một đại lượng đo lường sự phản ứng của lợi suất kỳ vọng của một chứng khoán tài chính riêng biệt, có liên quan tới những biến động trong lợi suất kỳ vọng trung bình của các chứng khoán còn lại trong thị trường. Hệ số bêta được coi như một thước đo rủi ro thị trường của một cổ phiếu. Hệ số bêta liên kết lợi suất của cổ phiếu với lợi suất của cổ phiếu với lợi suất trung bình của thị trường. Rủi ro thị trường bình quân của tất cả các cổ phiếu trên thị trường bằng 1, đó là, việc tăng 10% trong lợi nhuận thị trường được phản ánh như 10% tăng thêm trong lợi nhuận một chứng khoán A. Nếu lợi suất của một chứng khoán B, là 20%, nhưng chỉ có 10% tăng thêm trong lợi suất thị trường, thì chứng khoán này có β =2 chỉ ra một rủi ro lớn hơn của thị trường. Nếu một chứng khoán C có β =0.5, điều đó nói lên chứng khoán này ít rủi ro hơn thị trường chung”.
Hệ số beta cũng được xem như là một yếu tố “ đòn bẩy” đối với lợi nhuận của tài sản tài chính. Khi phần bù rủi ro thị trường (Rm-Rf) thay đổi 1% thì lợi nhuận kỳ vọng của tài sản tài chính thay đổi β %.
Trên thị trường đầu tư, hệ số bêta được tính toán và sử dụng rất rộng rãi trong việc tạo ra các quyết định đầu tư và đánh giá hoạt động của các nhà quản lý đầu tư, trong phân tích cũng như hoạch định chiến lược đầu tư.
Do hệ số bêta là hệ số đo lường mức độ rủi ro, khi xác định được hệ số đo lường mức độ rủi ro, khi xác định được hệ số bêta của công ty mình, các nhà quản lý đồng thời ước lượng được rủi ro mà công ty mình đang gánh chịu, trên cơ sở đó họ có thể đưa ra những đối sách hợp lý trong chiến lược phát triển của công ty.
Trên một thị trường tài chính chuyên nghiệp, nơi mà việc đầu tư vào các tài sản tài chính được thực hiện theo các danh mục và được quản lý bởi các nhà quản lý đầu tư, hệ số bêta sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để các nhà quản lý lựa chọn tài sản vào danh mục của mình. Hơn thế dựa vào thước đo này các nhà quản lý sẽ cho người đầu tư của mình biết mức rủi ro thị trường (rủi ro hệ thống) mà họ gánh chịu theo mục tiêu họ đặt ra. Với hệ số bêta, thước đo về mức độ thành công trong hoạt động đầu tưu và quản lý được đo lường và thể hiện rõ ràng hơn.
Như vậy, chúng ta có thể thấy hệ số bêta có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá cổ phiếu, tài sản tài chính của các công ty trên thị trường cũng như trong các hoạt động đầu tư. Một thị trường phát triển cần phải có những danh mục công bố bêta của các tài sản trên thị trường.
Có rất nhiều phưong pháp để ước lượng hệ số rủi ro bêta cho các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Việc sử dụng phương pháp nào tuỳ thuộc vào sự phù hợp của phương pháp đó với thị trường đang xét, tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá, cũng như phụ thuộc vào hiệu quả mà phương pháp đó mang lại. Các phương pháp thường được sử dụng là:
+ Ước lượng bêta thông qua các phương pháp đơn giản bằng đồ thị.
+ Ước lượng bêta bằng mô hình chỉ số đơn.
+ Ước lượng bêta bằng mô hình CAPM dựa trên số liệu lịch sử
Trong đó ước lượng beta qua mô hình CAPM là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất.
1. Khái niệm về hệ số beta trong mô hình CAPM
- Hệ số beta của một chứng khoán theo mô hình CAPM :
E(ri) = rf + * (13)
Trong đó:
E(ri) : Là lợi suất kỳ vọng của cổ phiếu i.
Rf : Là lợi suất phi rủi ro trên thị trường.
E(rm): Là lợi suất kỳ vọng của thị trường.
: Là thước đo về mức độ rủi ro của tài sản.
=
Hệ số bêta của một chứng khoán xác định theo mô hình CAPM là thước đo rủi ro của chứng khoán, nó xác định số phần trăm thay đổi lợi suất kì vọng của một chứng khoán khi có 1 % thay đổi trong lợi suất của danh mục thị trường. Hay nói cách khác nó là thước đo mức độ biến động của lợi suất chứng khoán so với danh mục thị trường.
- Danh mục đầu tư là việc một nhà đầu tư thực hiện đầu tư bằng cách lựa chọn các vị thế của các tài sản và tập hợp chúng gọi là danh mục đầu tư.
- Hệ số bêta của một danh mục đầu tư : Là thước đo mức độ biến động của một danh mục đầu tư so với danh mục thị trường. Nó được xác đinh dựa trên tỉ trọng của các tài sản trong danh mục cùng với các hệ số bêta tương ứng. Hệ số bêta của danh mục được xác định như sau :
Trong đó : - βP là hệ số beta của danh mục
- βi là hệ số beta của một chứng khoán
- ωi là tỉ trọng của chứng khoán i trong danh mục
2. Danh mục đầu tư và sự phòng hộ rủi ro của danh mục đầu tư
2.1. Lý thuyết danh mục đầu tư
2.1.1. Khái niệm về danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư là một nhóm các tài sản như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc một số tài sản khác như bất động sản, quyền chọn,.. do một nhà đầu tư hoặc một tổ chức nắm giữ. Trên thị trường chứng khoán thì danh mục đầu tư ở đây nghĩa là việc nắm giữ các tài sản là các chứng khoán.
Hay có thể nói danh mục đầu tư là việc một nhà đầu tư thực hiện việc đầu tư bằng cách chọn lựa vị thế đối với các tài sản, và tập hợp các vị thế này gọi là một danh mục đầu tư.
Có nhiều cách để thể hiện một danh mục đầu tư nhưng cách thuận lợi nhất là thể hiện dưới dạng tỉ trọng các tài sản đầu tư trong danh mục. Ví dụ có danh mục P: với, là tỉ trọng của tài sản thứ i.
Phân tích và quản lý danh mục đầu tư là dựa vào thái độ đối với rủi ro của nhà đầu tư, phân tích biến động chứng khoán từ đó điều chỉnh vị thế các tài sản trong danh mục. Hai yếu tố quan trọng phải xem xét đó là lợi suất, và độ rủi ro của danh mục mà nhà đầu tư chấp nhận. Bởi vì có thể với cùng một tài sản nhưng thái độ với tài sản đó của nhà đầu tư không giống nhau, hay cùng với một danh mục nhưng thái độ với rủi ro của từng nhà đầu tư là khác nhau.
Quản lý danh mục đầu tư là việc công ty quản lý quỹ thực hiện quản lý theo sự ủy thác của từng nhà đầu tư trên cơ sở hợp đồng thông qua việc mua bán, nắm giữ các chứng khoán, tài sản. Công ty quản lý quỹ phải lưu giữ số tiền ủy thác của nhà đầu tư trong tài khoản tại ngân hàng do hai bên thỏa thuận, bảo quản chứng khoán, tài sản thuộc sở hữu của khách hàng tại một thành viên lưu ký được cấp phép; được hưởng phí quản lý danh mục đầu tư, các khoản thưởng nếu có theo thỏa thuận.
Vấn đề danh mục đầu tư không chỉ đơn giản là sự kết hợp của những chứng khoán riêng lẻ mà còn cả những đặc trưng rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong muốn của danh mục. Điều đó chỉ ra rằng, chúng ta phải xem xét mối quan hệ giữa những phương thức đầu tư để thiết lập được một danh mục tối ưu đáp ứng được những yêu cầu đề ra. Điều đó được giải thích trong lý thuyết đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Nhà đầu tư mong muốn tối đa hóa tỷ suất lợi tức từ việc đầu tư với một mức rủi ro cho phép. Các tài sản trong danh mục tác động qua lại lẫn nhau và việc mục danh mục tốt không chỉ đơn giản là một danh mục gồm toàn các tài sản tốt.
Bên cạnh đó, việc thành lập một danh mục tối ưu, chúng ta còn phải quan tâm đến thái độ đối với rủi ro của từng nhà đầu tư. Từ đó xác định được mức rủi ro mà nhà đầu tư có thể chấp nhận.
Như vậy việc phân tích và quản lý danh mục là việc thiết lập mối quan hệ giữa rủi ro mà mỗi nhà đầu tư có thể chấp nhận và lợi suất kỳ vọng thu được của danh mục.
2.1.2. Lý thuyết về thị trường hiệu quả
Nội dung chính của lý thuyết cho rằng thị trường hiệu quả là thị trường trong đó giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ, tức thời tất cả các thông tin hiện có trên thị trường. Điều này có nghĩa là giá cả được xác định ở mức công bằng và phản ánh đầy đủ thông tin hiện có trên thị trường. Giá cả chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên do ảnh hưởng của những thông tin không thể dự đoán được.
Có 3 hình thái của thị trường có hiệu quả, đó là hình thái yếu, hình thái trung bình và hình thái mạnh.
EMH cấp thấp - hình thái yếu của thị trường: Trong hình thái này, giá cả của chứng khoán đã phản ánh đầy đủ và kịp thời những thông tin trong quá khứ về giao dịch của thị trường như giá cả giao dịch, khối lượng, động thái,... Khi hình thái yếu của thị trường tồn tại thì các nhà phân tích kỹ thuật sẽ bị “vô hiệu hoá”.
EMH cấp trung - hình thái trung bình của thị trường: Trong hình thái này giá cả của chứng khoán đã phản ánh tất cả các thông tin liên quan đến công ty đã được công bố công khai bên cạnh các thông tin trong quá khứ. Khi hình thái trung bình tồn tại thì không có hình thức phân tích nào kể cả phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật có thể đem lại lợi nhuận siêu ngạch cho nhà đầu tư nếu việc phân tích chỉ dựa trên các thông tin trên thị trường.
EMH cấp cao - hình thái mạnh của thị trường: Trong hình thái này giá cả của chứng khoán phản ánh tất cả những thông tin cần thiết liên quan đến tổ chức phát hành thậm chí đó là những thông tin nội gián, thông tin mật. Điều này có nghĩa là thị trường sẽ phản ánh hết sức nhanh trước những thông tin. Và vì vậy, trong hình thái này không thể thực hiện bất kỳ một hình thức phân tích nào.
2.1.3. Lý thuyết về đa dạng hoá rủi ro
Để đạt được mục tiêu tối đa hoá danh mục, nhà đầu tư phải đánh giá hai thành phần quan trọng của danh mục đó là rủi ro và tỉ suất lợi nhuận. Tất cả các quyết định điều chỉnh danh mục đều được cân nhắc dưới góc độ rủi ro và tỉ suất lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đó. Các nhà đầu tư đều muốn cùng một mức độ rủi ro của danh mục thì lợi suất kỳ vọng của danh mục là lớn nhất hoặc cùng với một mức lợi suất nhất định thì mức độ rủi ro là nhỏ nhất. Ta biết mối quan hệ giữa lợi suất và rủi ro: Rủi ro càng lớn thì lợi suất kỳ vọng càng cao. Do đó tùy vào mục tiêu đầu tư của từng nhà đầu tư mà chọn cho mình một danh mục chứng khoán với lợi suất thích hợp.
Trước hết tìm hiểu rủi ro là gì? Rủi ro được xem như là khả năng xuất hiện những khoản thiệt hại không lường trước. Những chứng khoán nào có khả năng xuất hiện các khoản lỗ lớn được xem như là có rủi ro lớn hơn những chứng khoán có khả năng xuất hiện khoản lỗ thấp hơn. Nói cách khác rủi ro thể hiện sự biến đổi không chắc chắn của các tỷ suất lợi nhuận liên quan đến một chứng khoán hay một tài sản nào đó. Rủi ro danh mục được thể hiện bằng độ biến động của danh mục đó, thể hiện sự biến động trong tương lai kết quả thu được của việc đầu tư.
Lợi suất của một tài sản hay của một danh mục thể hiện phần trăm thay đổi giá trị của tài sản (danh mục) tại thời điểm xem xét với giá trị của tài sản (danh mục) ban đầu. Lợi suất của tài sản (danh mục) thể hiện đầy đủ các thông tin và đặc điểm của tài sản (danh mục) và lợi suất của tài sản thì không phụ thuộc vào quy mô của việc đầu tư.
Một danh mục đầu tư là sự kết hợp các vị thế của các tài sản tài chính với nhau. Điều đó thể hiện một nguyên tắc trong đầu tư tài chính là “ không bỏ tất cả trứng vào cùng một giỏ”. Sự đa dạng hoá đầu tư sẽ giảm thiểu rủi ro danh mục bằng cách kết hợp đầu tư nhiều loại chứng khoán mà các chứng khoán này có giá hoặc lợi suất biến động không cùng chiều với nhau.
Như vậy rủi ro có thể loại trừ được bằng cách đa dạng hoá danh mục đầu tư.
2.2. Rủi ro của danh mục đầu tư
- Mỗi tài sản tài chính đều tiềm ẩn hai loại rủi ro: rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
- Rủi ro hệ thống là loại rủi ro tác động đến toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản trên thị trường. Vì thế người ta gọi nó là rủi ro thị trường. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro hệ thống như là thay đổi trong lãi suất, thay đổi trong sức mua, thay đổi trong kỳ vọng của nhà đầu tư về triển vọng của nền kinh tế...
- Rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản, nghĩa là loại rủi ro này chỉ liên quan đến từng doanh nghiệp cụ thể. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro phi hệ thống này như năng lực và quyết định quản trị, đình công, nguồn cung ứng nguyên vật liệu, những tác động về cạnh tranh của nước ngoài, mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh...
Tổng rủi ro = Rủi ro hệ thống + Rủi ro phi hệ thống
Tổng rủi ro của danh mục P:
Trong đó:
: rủi ro riêng, rủi ro phi hệ thống của danh mục.
: rủi ro hệ thống hay rủi ro thị trường.
Sự kết hợp giữa những tài sản rủi ro này sẽ tạo nên rủi ro cho danh mục. Rủi ro phi hệ thống có thể loại trừ được bằng cách đa dạng hoá, còn rủi ro thị trường thì không thể loại bỏ được. Điều đó thể hiện qua đồ thị sau:
Rủi ro hệ thống
Rủi ro phi hệ thống
N
Hình 1: Rủi ro của danh mục
Thực tế chứng minh khi tăng số lượng chứng khoán trong một danh mục thì rủi ro của danh mục giảm xuống, nhưng việc giảm này chỉ đạt đến một điểm nhất định chứ không thể giảm mãi được. Như vậy danh mục khi tăng số tài sản lên thì nó đã giảm thiểu rủi ro phi hệ thống, còn rủi ro hệ thống là rủi ro do thị trường tác động không thể giảm thiểu được.
2.3. Phòng hộ rủi ro của danh mục đầu tư bằng các công cụ phái sinh
Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
2.3.1. Một số kiến thức cơ bản về các công cụ phái sinh
2.3.1.1. Quyền lựa chọn (Option)
- Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định, và trong một thời gian nhất định.Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
- Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn
+ Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
+ Loại quyền (chọn mua hay chọn bán).
+ Thời hạn của quyền.
+ Mức giá thực hiện theo quyền.
- Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn là:
+ Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở.
+ Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền.
+ Giá quyền lựa chọn.
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money), tức là người có quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền đó. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn (at the money), và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of money).
Đối với quyền chọn bán thì ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở mà họ muốn cung cấp.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền được gọi là giá trị nội tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại.
Giá bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời gian. Nói cách khác, khi đó:
Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá thực hiện).
2.3.1.2. Quyền mua trước (right)
Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất ngắn, có khi chỉ vài tuần. Quyền này được phát hành khi các công ty tăng vốn bằng cách phát hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền cho phép một cổ đông mua cổ phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời gian xác định.
Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi cổ phiếu đang lưu hành được kèm theo một quyền. Số quyền cần để mua một cổ phiếu mới được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành mới.Giá cổ phiếu ghi trên quyền thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu.
Giá của quyền tính bằng chênh lệch giữa giá thị trường hiện hành của cổ phần đang lưu hành và giá mua cổ phần mới theo quyền, chia cho số lượng quyền cần có để mua một cổ phần mới.
Ví dụ: cổ phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng có giá thị trường là 1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần mới thì giá của quyền được xác định theo công thức:
Vr = Po - Pn/r
Trong đó: Vr là giá trị của một quyền, Po là giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành, Pn là giá thực hiện cổ phiếu mới và r là số quyền cần có để mua một cổ phiếu mới.
Vậy, giá quyền ở đây là Vr = (1.000.000 – 800.000)/10 = 20.000 đồng.
Nếu không muốn thực hiện quyền, cổ đông thường có thể bán quyền trên thị trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong khoảng thời gian chào bán, tuỳ thuộc biến động giá thị trường của cổ phiếu.
2.3.1.3. Chứng quyền (warrants)
Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định của một cổ phiếu, với một giá xác định, trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tiến hành tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty muốn khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi nhưng có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường.
Đặc điểm:
Khác với quyền mua trước, chứng quyền có thời hạn dài hơn, do công ty đã phát hành công cụ cơ sở phát hành đồng thời với công cụ cơ sở. Khác với quyền lựa chọn (option), khi chứng quyền được thực hiện, nó tạo thành luồng tiền vào cho công ty và làm tăng thêm lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường. Chứng quyền có thể được giao dịch tách rời với trái phiếu hay cổ phiếu mà nó đi kèm.
Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ: số cổ phiếu được mua theo mỗi chứng quyền (thườnglà 1:1); giá thực hiện cho mỗi cổ phiếu; tại thời điểm chứng quyền được phát hành, giá này bao giờ cũng cao hơn giá thị trường của cổ phiếu cơ sở, và giá đó có thể cố định, có thể được tăng lên định kỳ; và thời hạn của quyền, đa số trường hợp là 5 đến 10 năm.
2.3.1.4. Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng nhất định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào; từ nông sản, các đồng tiền, cho tới các chứng khoán.Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau, dựa theo những ước tính chủ yếu mang tính cá nhân.
Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng ban đầu. Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị trường.
Như vậy bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng.
Khi có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác.
2.3.1.5. Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc phục được những nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn, và thường được xem là một cách thức tốt hơn để rào chắn rủi ro trong kinh doanh.
Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng kỳ hạn là:
- Niêm yết trên sở giao dịch: Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung được xử lý trên một Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được hình thành hợp lý hơn, do các bên mua bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.
- Xoá bỏ rủi ro tín dụng: Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở giao dịch, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ biết về đối tác giao dịch của mình. Công ty thanh toán bù trừ sẽ phục vụ như một trung gian trong tất cả các giao dịch.
Người bán bán cho công ty thanh toán bù trừ, và người mua cũng mua qua công ty thanh toán bù trừ. Nếu một trong hai bên không thực hiện được hợp đồng thì vẫn không gây ảnh hưởng gì đến bên phía đối tác còn lại.
- Tiêu chuẩn hoá: Các hợp đồng kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng hoá bất kỳ, khối lượng, chất lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận chung giữa hai bên bán, mua.
Tuy nhiên, các hợp đồng tương lai niêm yết trên sở giao dịch đòi hỏi việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định trước.
- Điều chỉnh việc đánh giá theo mức giá thị trường (Marking to market).
Trong các hợp đồng kỳ hạn, các khoản lỗ, lãi chỉ được trả khi hợp đồng đến hạn. Với một hợp đồng tương lai, bất kỳ món lợi nào cũng được giao nhận hàng ngày.
Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ sở biến động khác với giá đã thoả thuận (giá thực hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền cho bên được lợi từ sự thay đổi giá đó. Trên thực tế, vì không bên nào biết thông tin về đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả tiền cho công ty thanh toán bù trừ, và công ty này sẽ trả tiền cho những người thắng.
2.3.2. Phòng hộ rủi ro bằng các công cụ phái sinh
Sau đây chúng ta sẽ xem xét chức năng phòng hộ rủi ro của công cụ phái sinh thông qua một trường hợp cơ bản về hợp đồng tương lai.
Để phòng chống rủi ro với một danh mục đầu tư phân dải rộng ( dàn trải, đa dạng), ta có thể sử dụng các hợp đồng tương lai dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán. Qua mô hình định giá tài sản vốn ta thấy rõ mối quan hệ giữa lợi nhuận do danh mục đầu tư cổ phiếu và lợi nhuận trên thị trường (tức toàn bộ thị trường chứng khoán) được mô tả bởi tham số beta. Đây là độ dốc của đường thẳng hồi qui tỷ lệ dôi ra của lợi nhuận danh mục đầu tư so với tỷ lệ lợi nhuận không rủi ro theo tỷ lệ dôi ra của lợi nhuận chung thị trường chứng khoán so với tỷ lệ lợi nhuận không rủi ro. Trong trường hợp beta bằng 1 lợi nhuận của danh mục đầu tư hầu như tiến về lợi nhuận của thị trường, khi beta bằng 2 phần lợi nhuận này có xu hướng lớn gấp đôi lợi nhuận của thị trường
Những phân tích trên cho thấy, lợi nhuận dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán đối với lãi suất không rủi ro bằng với vận tốc phát triển của giá hợp đồng tương lai. Lợi nhuận dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán thể hiện gần đúng lợi nhuận của toàn bộ thị trường chứng khoán. Như thế, vận tốc phát triển của giá hợp đồng tương lai dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán có thể xem như bằng phần dôi ra của lợi nhuận thị trường so với lãi suất không rủi ro. Dựa trên mô hình CAPM ta có thể đưa ra nhận định rằng kì vọng của lợi nhuận của danh mục đầu tư là β lần tỉ lệ biến đổi của giá cả tương lai dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán. Như vậy sẽ bảo vệ danh mục đầu tư chống rủi ro chúng ta cần sử dụng các hợp đồng tương lai dựa trên chỉ số thị trường chứng khoán với tổng giá trị chính phẩm bằng β lần giá trị của cặp đầu tư:
Với : giá trị của cặp đầu tư
: giá trị của chính phẩm của một hợp đồng tương lai
Ta có tổng số hợp đồng đoản vị tối ưu dể chống rủi ro là :
Một sách lược đầu tư chống rủi ro bằng cách sử dụng chỉ số chứng khoán muốn có hiệu quả cao phải được tổ chức thế nào để trị giá của vị thế được bảo vệ tăng dần đến tỷ lệ lãi suất không rủi ro. Số lợi nhuận dôi ra của danh mục đầu tư sẽ được bù lại bởi tiền lời hay tiền lỗ trên hợp đồng tương lai. Như thế ta tự hỏi tại sao một người đầu tư chống rủi ro lại chọn lấy khó khăn khi sử dụng các hợp đồng tương lai. Nếu mục tiêu của họ chỉ nhằm đạt được lãi suất không rủi ro thì họ chỉ cần bán cổ phiếu và mua trái phiếu.
Có một khả năng là nhà đầu tư chống rủi ro cảm thấy các cổ phiếu trong danh mục đầu tư đã được chọn mua theo cách rất tốt. Họ có thể rất không chắc chắn vào biến động của tổng thể thị trường nhưng lại hoàn toàn tin tưởng các cổ phiếu trong danh mục đầu tư là vượt trội đối với thị trường. (Sau khi đã điều chỉnh một cách thích hợp beta của danh mục đầu tư). Việc chống rủi ro bằng cách sử dụng các hợp đồng tương lai dựa trên chỉ số chứng khoán loại bỏ rủi ro xuất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5940.doc