Đề tài Vai trò của các hoạt động xúc tiến đầu tư và các công việc chuẩn bị tiền đầu tư trong thu hút đầu tư nước ngoài

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư phía Bắc, Trung tâm Xúc tiến đầu tư miền Trung và phía Nam. Đến nay, nhiều địa phương đã có trung tâm xúc tiến đầu tư trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư, hoặc trực thuộc UBND tỉnh, thành phố. Thông qua các trung tâm xúc tiến đầu tư mà các nhà đầu tư sẽ chủ động hơn trong việc tìm kiểm thông tin về địa phương mình định đầu tư , thúc đẩy quá trình hoàn thành thủ tục thực hiện đầu tư nhanh gọn.

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4178 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của các hoạt động xúc tiến đầu tư và các công việc chuẩn bị tiền đầu tư trong thu hút đầu tư nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các biện pháp khác Hiện tại các cơ quan xúc tiến đầu tư đã có kế hoạch sản xuất các đĩa CD- CROM giới thiệu tổng hợp. Một vài cơ quan đã hoàn thành sản xuất và sắp sửa phát hành rộng rãi tới công chúng. Đây được coi là một biện pháp hứa hẹn hiệu quả xúc tiến đầu tư tuy nhiên thành công của nó chắc chắn phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của các đĩa CD - CROM cũng như cách thức tổ chức phân phối… cho tới thời điểm hiện tại thì đĩa CD - CROM vẫn chưa được phát hành cả ở trong nước cũng như ngoài nước. Cung cấp các dịch vụ đầu tư Tất cả các cơ quan xúc tiến đầu tư khẳng định tầm quan trọng của các dịch vụ này và việc các nhà đầu tư được thoả mãn với các dịch vụ này cũng là phương thức xúc tiến hiệu quả nhất. Đã có nhiều cải thiện quan trọng trong quy trình trước cấp phép song các dịch vụ sau cấp phép vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu vẫn còn là trở ngại đối với đầu tư nước ngoài. Dịch vụ trước cấp phép Một điều dễ nhận thấy là chất lượng các dịch vụ trước cấp phép đã được cải thiện đáng kể trong thời gian gần đây. Các Sở Kế hoạch và Đầu tư đặc biệt là các Ban quản lý KCN, KCX đều cung cấp các dịch vụ hướng dẫn và tư vấn miễn phí cho các nhà đầu tư mới và giúp đỡ họ chuẩn bị thủ tục đăng ký đầu tư. Tuy nhiên, theo ý kiến của các nhà đầu tư thì các cơ quan cần phát triển hơn nữa loại hình văn phòng cung cấp dịch vụ tổng hợp để tiết kiệm thời gian liên hệ cho các nhà đầu tư. Hiệu quả hoạt động của các văn phòng này phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả quản lý của các UBND tỉnh. Một số UBND các tỉnh như Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá là quản lý khá hiệu quả và thực hiện phối hợp tốt với các cơ quan chức năng liên quan.[17] Dịch vụ cấp phép Quá trình cấp phép so với một vài năm trước đây đã được đơn giản hoá và gọn nhẹ hơn rất nhiều. Thời gian cấp phép cũng đã giảm đáng kể. Đối với các dự án thuộc thẩm quyền cấp phép của Sở Kế hoạch và Đầu tư hay Ban quản lý KCX, KCN, toàn bộ quy trình chỉ được thực hiện trong 2 ngày. Đối với các dự án chỉ cần đăng ký, không cần thẩm định thì chỉ thời gian cấp phép chỉ là một ngày. Một trong những lý do giúp cho việc rút gọn thời gian cấp phép của các Sở Kế hoạch & Đầu tư và các Ban quản lý KCX, KCN là các cơ quan này đã có điều kiện xem xét dự án từ trước đó, khi giúp các nhà đầu tư chuẩn bị thủ tục đăng ký cấp giấy phép. Một số cơ quan còn cho phép nhà đầu tư tự lựa chọn ngày giờ nhận giấy phép đầu tư. Đối với các dự án cần được sự chấp nhận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hay Chính phủ, thời gian cấp phép có thể kéo dài hơn song các Sở Kế hoạch và Đầu tư và các ban quản lý KCX, KCN cũng có thể giúp rút gọn thời gian này bằng việc phối hợp tích cực với các cơ quan chức năng liên quan. Dịch vụ sau cấp phép Mặc dù đã có những cải thiện đáng kể song đây vẫn được xem là khâu yếu nhất trong các dịch vụ đầu tư. Các nhà đầu tư sau khi nhận được giấy phép đầu tư phải tiếp tục liên hệ với rất nhiều cơ quan chức năng liên quan về các vấn đề như đất đai, lao động, thuế, giấy phép xuất nhập khẩu. Hiện nay, một số văn phòng cung cấp dịch vụ tổng hợp sau cấp phép đã được thành lập và đang hoạt động, tuy nhiên dường như mới chỉ ở các khu chế xuất và khu công nghiệp do Ban quản lý ở những nơi này vốn đã là cơ quan có chức năng đảm nhiệm hầu hết các thủ tục sau cấp phép. Các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp và khu chế xuất, do đó gặp ít trở ngại hơn so với các nhà đầu tư bên ngoài. Một số Ban quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp như Hải Phòng còn cung ứng các dịch vụ miễn phí khi cấp giấy phép nhập khẩu, giới thiệu nguồn lao động, cấp giấy phép hoạt động. Đánh giá sự tham gia của các tỏ chức, cá nhân vào hoạt động xúc tiến đầu tư của Việt Nam Chính phủ Theo Nghị quyết 09/2001 của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài cùng với Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan đã ban hành và hoàn chỉnh nhiều đề án nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư. Thông qua các hành động cụ thể như Ban Vật giá Chính phủ đã đề xuất đề án điều chỉnh giá phí, thống nhất giá đối với đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước tạo sự công bằng cho các doanh nghiệp. Trong khi đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp ký thông tư về việc hoàn trả các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vốn đã ứng trước để xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào. Cộng với bản dự thảo của Bộ Xây dựng trình việc sửa đổi bổ sung Nghị định 60/CP ngày 5/4/1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị và Nghị định 61/CP về mua bán kinh doanh nhà ở. Những đề án này đã giúp các nhà đầu tư thêm phần lạc quan hơn khi bỏ phần vốn đầu tư vào thị trường Việt nam. Bên cạnh đó các Bộ ngành khác cũng tích cực sửa đổi, đề xuất các đề án nhằm cải tiến các chính sách thuộc lĩnh vực mình như Bộ y tế, Tổng Cục địa chính, Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Đặc biệt Bộ Kế hoạch và Đầu tư rất tích cực đề xuất và trình Chính phủ nhiều đề án, chính sách nhằm đẩy mạnh triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư, hỗ trợ xúc tiến đầu tư cho các địa phương … Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20 tháng 03 năm 2003, tất cả 61 tỉnh, thành phố trong cả nước đều đang có dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực và chỉ có 3 khu vực là chưa thực hiện được vốn đầu tư là Kon Tum, Tuyên Quang và Đồng Tháp. Đặc biệt thời gian gần đây lĩnh vực công nghiệp đã phát triển mạnh đó là do những cố gắng của Chính phủ trong việc ban hành Nghị định sửa đổi số 27/2003 của Chính phủ. Theo đó thì các danh mục lĩnh vực công nghiệp đặc biệt khuyến khích đầu tư đã được mở rộng từ 11 lên 15-16 lĩnh vực. Danh mục lĩnh vực công nghiệp khuyến khích đầu tư cũng bao gồm hàng chục lĩnh vực khác với nhiều điều kiện ưu đãi hơn trước và thủ tục phê duyệt, cấp giấy phép đầu tư được tinh giản, thông thoáng hơn. Với bước đổi mới quan trọng này về phát luật các ngành công nghiệp nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung sẽ có cơ thu hút nhiều dự án và vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới và vị thế của khu vực công nghiệp đầu tư nước ngoài sẽ còn tiến xa hơn. Các địa phương Việc thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế xã hội và nâng cao đời sống đối với Tỉnh mình đều là mong muốn của các Tỉnh, thành trong cả nước. Mỗi khu vực đều có những thế mạnh riêng của mình mà từ đó có chính sách phù hợp để thu hút đầu tư nước ngoài. Thành phố Hà nội: Do các chính sách thu hút đầu tư của mình nên bên cạnh việc đầu tư vào các lĩnh vực khác, thì các Cụm và KCN vừa và nhỏ ở Hà nội có sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư đó là thủ tục cấp đất nhanh gọn, được vay vốn Quỹ hỗ trợ phát triển. Khi thuê đất doanh nghiệp được ký hợp đồng trực tiếp với Nhà nước, không phải thuê đất của Ban quản lý, thời gian thuê tối đa là 50 năm. Bên cạnh đó Thành phố đầu tư xây dựng toàn bộ hạ tầng kỹ thuật đầu mối bên ngoài đến tường rào KCN và chịu 30% kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng còn các doanh nghiệp chỉ phải chịu 70%. Nhằm thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư vào các KCN, KCX ở Hà nội. Thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đặt ra nhiều mục tiêu để phấn đấu đạt mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài trong những năm tới. Tp.Hồ Chí Minh đã công bố chương trình “5 sẵn sàng” để phục vụ các nhà đầu tư, nhằm tạo được sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Thành phố đang triển khai hệ thống thông tin sẵn sàng, mục đích cho đến 2005, viễn thông không còn là yếu tố cản trở thu hút đầu tư, mà trở thành yếu tố mở đường cho đầu tư. Thành phố dự kiến hình thành một trung tâm khai thác hạ tầng, tức là chuẩn bị sẵn đất, thành phố sẽ đền bù trước và nhà đầu tư có thể chọn mua hoặc thuê. Thành phố cũng đang triển khai các chương trình phát triển nguồn nhân lực. Các khu công nghiệp cũng được phát triển mạnh, theo cơ chế đảm bảo các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư sẽ có sức cạnh tranh với các nước trong khu vực. Địa bàn trọng điểm phía Bắc chiếm tới 21,5% số dự án và 30,2% vốn FDI, trong đó Hà Nội chiếm 11,6% về số dự án; 14,9% tổng vốn đăng ký của cả nước. Địa bàn trọng điểm phía Nam đã chiếm 56,9% dự án và trên 51% vốn FDI, trong đó TP. Hồ Chí Minh chiếm 27,6% về số dự án và 20% tổng vốn đăng ký của cả nước. Như vậy, chỉ tính riêng hai thành phố lớn nhất nước ta, thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 39,2% số dự án và 34,9% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. Các Tỉnh thành khác Ngoài hai thành phố lớn, việc thu hút đầu tư nước ngoài đã và đang được thực hiện một cách mạnh mẽ tại các tỉnh khác như Đà Nẵng, Phú Yên, Bình Dương, Khánh Hoà, Vĩnh Phúc, Tân Thuận … Các tỉnh đề ra chính sách chiến lược để thu hút đầu tư nước ngoài như giảm giá thuê đất, loại bỏ nhiều thủ tục phiền hà, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường đô thị, xây dựng các công trình như đường giao thông, hoàn thiện hệ thống điện… Các doanh nghiệp Sự hỗ trợ của Nhà nước chưa nhiều, nhân lực còn mỏng, đầu tư trang thiết bị còn hạn chế, thương hiệu chưa có bản sắc riêng là 4 lý do cản trở tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù vậy các doanh nghiệp Việt nam vẫn cố gắng nâng cao sức cạnh tranh thông qua quá trình cổ phần hoá, đầu tư trang thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ; đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và đào tạo lao động nhằm đáp ứng được các nhu cầu trong nước cũng như cung cấp cho các nhà đầu tư có dự án đầu tư nước ngoài tại Việt nam, hạn chế nhập khẩu tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Mục tiêu của các doanh nghiệp là tạo được niềm tin của các nhà đầu tư khi đến Việt nam. Bên cạnh đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì ngày càng phát triển góp phần thu ngân sách của Nhà nước. Các hoạt động tiếp xúc, giao lưu để tiến gần hơn tới các cơ hội đầu tư đang được tiến hành mạnh mẽ. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện nay các tập đoàn đa quốc gia có gần 300 dự án đầu tư trực tiếp tại Việt nam với tổng vốn pháp định đăng ký của bên nước ngoài là hơn 5 tỷ USD, chiếm khoảng 80% tổng vốn pháp định của tất cả các dự án đầu tư. Trong số gần 100 tập đoàn của 16 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt nam có 81 tập đoàn đứng trong danh sách Global 500 của Tạp chí Fortune. Không thể phủ nhận đây là nguồn đầu tư quan trọng mà bất cứ quốc gia đang phát triển nào cũng phải cạnh tranh gay gắt để thu hút. Bên cạnh đó, sự đóng góp không nhỏ của một bộ phận doanh nhân là những Việt Kiều yêu nước. Cho đến nay đã có 610 dự án của Việt Kiều đầu tư tại Việt nam theo Luật Đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký khoảng 500 triệu USD và 850 tỷ đồng. Như vậy có thể nói việc đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội trong quá trình thực hiện chính sách thu hút đầu tư đã dần đưa đất nước ngày một phồn vinh, tiến vào thời kỳ thực hiện chiến lược công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Đánh giá chung công tác xúc tiến đầu tư ở Việt Nam Những thành tựu đã đạt được trong quá trình thực hiện công tác xúc tiến đầu tư: Trong những năm gần đây tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào VN tăng lên rõ rệt và kết quả này đạt được do có sự đóng góp to lớn của hoạt động đầu tư trong nước bao gồm các tỉnh thành, địa phương trên lãnh thổ VN. Hiện Việt Nam đã thành lập được một số tổ chức xúc tiến đầu tư trên các tỉnh thành phố của cả nước Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư phía Bắc, Trung tâm Xúc tiến đầu tư miền Trung và phía Nam. Đến nay, nhiều địa phương đã có trung tâm xúc tiến đầu tư trực thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư, hoặc trực thuộc UBND tỉnh, thành phố. Thông qua các trung tâm xúc tiến đầu tư mà các nhà đầu tư sẽ chủ động hơn trong việc tìm kiểm thông tin về địa phương mình định đầu tư , thúc đẩy quá trình hoàn thành thủ tục thực hiện đầu tư nhanh gọn. Việt Nam đã tham gia liên kết kinh tế quốc tế Ngày 7/11/2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Sau khi gia nhập WTO, một làn sóng đầu tư đang đổ vào VN mà ai cũng có thể nhận thấy. Ngày 16/10/2007, Việt Nam được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an, cơ quan quyền lực nhất trong hệ thống Liên hợp quốc, đánh dấu bước tiến mới của Việt Nam vào trường hoạt động toàn cầu theo chủ trương của Nhà nước ta đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.  Với sự ổn định về chính trị-xã hội, cùng với số dân đông hàng thứ 12 trên thế giới, uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực ngày càng nâng cao. Qua 30 năm tham gia tích cực các hoạt động của Liên hợp quốc, với việc tham gia Hội đồng Bảo an, ngoại giao đa phương của Việt Nam sẽ mang tầm vóc mới, với những cơ hội mới, mà nếu tận dụng tốt có thể giúp thúc đẩy khai thác các nguồn lực từ bên ngoài hỗ trợ công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Xây dựng được danh mục kêu gọi đầu tư Gần đây bộ kế hoạch đầu tư đã cho xây dựng danh mục kêu gọi đầu tư vào VN để tư vấn trực tiếp cho các đối tác muốn có thêm thông tin về lĩnh vực mình định đầu tư. Một danh mục các dự án lớn đang tìm hiểu xúc tiến đầu tư vào Việt Nam liên tục được Bộ KH - ĐT cập nhật. Hồi đầu năm, danh mục các dự án này có giá trị vốn 20 tỷ USD, giữa năm lên đến 35 tỷ USD và đến nay danh sách đã cập nhật 50 dự án với tổng số vốn 50 tỷ USD như đề xuất xây dựng một số khu công nghệ chuyên sản xuất các sản phẩm công nghệ cao lĩnh vực điện tử với tổng số vốn 5 tỷ USD của Tập đoàn Foxconn - Đài Loan, dự án Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương 2 được Tập đoàn AES - Mỹ liên doanh với Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam trị giá 1,4 tỷ USD, v.v.. đề xuất xây dựng khu đô thị mới An Phú Hưng liên doanh giữa Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam với đối tác Trung Quốc có vốn đầu tư 1 tỷ USD.... Thiết lập bộ phận xúc tiến đầu tư nước ngoài tại một số địa bàn trọng điểm: Nhật, Mỹ, Pháp, Singapore...   Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý thiết lập bộ phận xúc tiến đầu tư nước ngoài tại một số địa bàn trọng điểm, trước mắt, có 2 đến 3 biên chế cho bộ phận xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản, 2 biên chế tại Mỹ. Tại các nước: CHLB Đức, Pháp, Hàn Quốc, Singapore, Arập Xê Út, Quata và Đài Loan, mỗi nơi 1 biên chế. Thông qua những trung tâm xúc tiến đầu tư tại nước ngoài thì các dự án của VN được đến gần hơn các nhà đầu tư. Trong khi đó cũng không thể không kể đến các hoạt động mạnh mẽ của các trung tâm xúc tiến đầu tư tại nước ngoài thông qua các hội nghị, diễn đàn kinh tế để nhằm quảng bá hình ảnh nền kinh tế VN đến các nước bạn và đống thời cũng để cho các nhà đầu tư thấy được những lợi nhuận sẽ đạt được khi đầu tư vào VN. Thành lập quỹ xúc tiến đầu tư. Thông qua nguồn vốn này mà các địa phương sẽ có đầu mối chung để liên kết với nhau để đạt được hiệu quả trong công cuộc thu hút vốn đầu tư. Quỹ sẽ hỗ trợ chương trình xúc tiến đầu tư ở các thị trường trọng điểm, nhắm đến các nhà đầu tư có công nghệ nguồn, công nghệ cao; hỗ trợ việc quảng bá nâng cao hình ảnh của VN. Những mặt còn hạn chế Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua đã có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tuy nhiên so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra, hoạt động xúc tiến đầu tư vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế sau đây: Chưa hoạch định được chiến lược xúc tiến đầu tư, công tác quy hoạch phục vụ cho thu hút đầu tư chưa được thực hiện tốt còn chồng chéo và không rõ ràng.  Theo các cán bộ làm XTĐT, vấn đề quy hoạch ảnh hưởng đến công tác XTĐT ở tất cả các địa phương. Sự thiếu đồng nhất giữa tình trạng sử dụng và sở hữu tài nguyên tại các tỉnh đã gây khó khăn trong lập dự án đầu tư cụ thể, bởi khi xuống địa điểm dự án, đất trống còn nhiều, nhưng chỉ chỗ nào cũng đã có chủ. Có nơi, quy hoạch phát triển nuôi trồng hải sản chưa xây dựng xong, nhà đầu tư đã nuôi trồng kín diện tích. Các quy hoạch ngành cũng ảnh hưởng đến thu hút đầu tư. Nhiều vướng mắc trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư cho người dân chưa được giải quyết, nên một số nhà đầu tư chưa có đất để triển khai dự án. Nặng nề thủ tục hành chính: Mặc dù, chúng ta  luôn chỉ đạo đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hỗ trợ cho nhà đầu tư, nhưng thực tế thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư vẫn còn quá rườm rà, qua nhiều khâu, nhiều cơ quan và tốn rất nhiều thời gian, công sức của nhà đầu tư. Việc sư dụng các nguồn kinh phí cho hoạt động xúc tiến đầu tư tốn kém mà không hiệu quả. Hoạt động xúc tiến không thu hút các doanh nghiệp tham gia vì hoạt động dàn trải. Nội dung và phương thức tổ chức vận động đầu tư còn quá đơn giản, nặng nề về tuyên truyền pháp luật, chính sách, chưa tập trung vào chương trình vận động các nhà đầu tư tiềm năng theo từng lĩnh vực, đối tác và dự án cụ thể nên hiệu quả còn thấp, địa phương chưa có kinh nghiệm nên không cung cấp được đầy đủ thông tin mà nhà đầu tư quan tâm. Vi dụ  Sự thuận lợi về hạ tầng, các khu công nghiệp được các nhà đầu tư quan tâm nhiều tuy nhiên không được đề cập  nhiều nên đã không thu hút được các nhà đầu tư. Rất nhiều cuộc xúc tiến đầu tư tốn kém nhưng thông tin dành cho nhà đầu tư còn rất sơ sài. Thông tin XTĐT chưa thể hiện được cái chúng ta cần và cũng chưa đưa đến được điều mà nhà đầu tư muốn. Hoạt động du lịch,quảng bá hình ảnh Việt Nam với du khách và bạn bè thế giới vẫn còn hạn chế. Do sự yếu kém trong công tác tổ chức và quản lý hoạt động du lịch nên một con số đáng bất ngờ đó là có đến 70% du khách vào Việt Nam không muốn quay lại lần thứ 2. Chưa tổ chức được nhiều hội thảo đầu tư trong và ngoài nước; các cơ quan xúc tiến đầu tư chủ yếu tiếp cận nhà đầu tư qua các buổi tiếp và làm việc tại địa phương, nên chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư lớn. Thiếu thông tin: Theo kết quả khảo sát, thông tin về cơ hội đầu tư vào Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trong số các nhà đầu tư được phỏng vấn, có tới 60% cho rằng có khó khăn trong việc thu thập thông tin về cơ hội đầu tư; 28% các nhà đầu tư tìm được thông tin trên Internet; 85% đánh giá chất lượng thông tin là vừa phải hoặc kém. Các trang thông tin về đầu tư trong nước của VN chưa được cập nhật thường xuyên khiến cho các nhà đầu tư khó nắm bắt đựơc tình hình cụ thể để có chớp được những cơ hội đầu tư. Cùng với đó là tình trạng cơ sở dữ liệu vẫn chưa được liệt kê phân loại cụ thể điều này sẽ khiến cho các nhà đầu tư lại một lần nữa phải phân loại thông tin theo nhóm mình cần và lĩnh vực mình chuẩn bị đầu tư. điều này làm cho các nhà đầu tư có thể không tập hợp được đầy đủ các thông tin cần thiết có thể thúc đẩy quá trình đầu tư diễn ra nhanh hơn. Thiếu thống nhất giữa các tổ chức xúc tiến tỉnh, địa phương: Hệ thống tổ chức các cơ quan XTĐT từ Trung ương đến địa phương tuy đã được hình thành nhưng còn nhiều điểm hạn chế. Các Trung tâm XTĐTcủa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) ở ba miền Bắc - Trung - Nam mới được thành lập nên điều kiện, cơ chế hoạt động đang ở trong giai đoạn hoàn thiện. Trong khi đó, các Trung tâm XTĐT của địa phương lại chưa được thống nhất từ cách thức tổ chức, tên gọi cho đến cơ chế hoạt động. Trung tâm XTĐT ở tỉnh này thì thuộc Sở KH&ĐT, tỉnh khác lại thuộc Sở Thương mại, có tỉnh gộp cả thương mại - đầu tư - du lịch trong văn phòng UBND tỉnh... Hậu quả là sự chồng chéo trong việc tổ chức các hoạt động XTĐT. Thiếu kinh phí cho các hoạt động xúc tiến: Kinh phí tổ chức các hoạt động XTĐT hiện còn rất hạn chế. Ngoại trừ những chương trình lớn được chính phủ tổ chức, đa phần các chương trình XTĐT đều có nguồn kinh phí khiêm tốn từ tài trợ. Với khoản kinh phí đã ít ỏi, việc tổ chức các hoạt động để XTĐT riêng lẻ và rời rạc tốn kém và không cần thiết. Nhân lực và chuyên môn trong ngành còn hạn chế : Về nguồn nhân lực, phần lớn các đơn vị vẫn còn thiếu, chỉ có 31,7% các cơ quan xúc tiến địa phương có trên 10 cán bộ trực tiếp làm công tác này. Chưa kể, đa phần cán bộ còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ xúc tiến thương mại và ngoại ngữ.            Theo đánh giá của nhiều nhà đầu tư và bạn bè trên thế giới thì Việt Nam chúng ta là một điểm có nhiều tiềm năng về thu hút đầu tư nước ngoài bằng chứng là những thành tựu đã đạt được những năm qua và hiện có nhiều nhà đầu tư lớn đang tìm hiểu cơ hội đầu tư vào Việt Nam như một số dự án tiêu biểu :. Một hãng vận tải Đan Mạch cũng đang khảo sát để đầu tư vào cảng biển, với vốn đầu tư có thể đến hàng tỷ USD. Một dự án khác đầu tư vào Quảng Nam xây dựng hạ tầng, nhà ở... vốn đầu tư lên tới 1 tỷ USD. Cánh cửa hội nhập và phát triển đang mở cho đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vấn đề ở đây là chúng ta cần phải tập trung khắc phục những tồn tại và hạn chế nêu trên, đồng thời sớm hoạch định chiến lược, kế hoạch xúc tiến đầu tư cho giai đoạn 2007 - 2010 và những năm tiếp theo.  Các công việc chuẩn bị tiền đầu tư: Xây dựng, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Đã đạt được: Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng trong chuẩn bị tiền đầu tư. Chính phủ Việt Nam quyết tâm phát triển cân bằng về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực cung cấp điện, nước, các dịch vụ cảng biển và viễn thông. Tổng đầu tư cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, cơ sở hạ tầng của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng nhằm đáp ứng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới đang đổ vào đây như: mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt.  Tất cả các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn có điện. Đến năm 2012, Việt Nam sẽ hoàn thành một mốc quan trọng về phát triển cơ sở hạ tầng qua việc phát triển các cảng nước sâu và vận tải biển. Sự phát triển này sẽ mang lại cho Việt Nam một lợi thế cạnh tranh to lớn và cho phép nước này tăng cường hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc thành lập các chuỗi cung ứng và xuất khẩu vào ASEAN, Trung Quốc và Bắc Mỹ. Còn hạn chế: Tuy đã có cải tiến đáng kể song cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn còn lạc hậu nhiều so với các nước khu vực và còn gây cản trở khó khăn nhiều cho các dự án đầu tư. Hệ thống giao thông còn nhiều bất cập: Mật độ mạng lưới đường thấp, mạng lưới đường này lại phân bố không đều, thiếu sự liên thông. Đường phố ngắn, lộ giới hẹp, chất lượng xấu nhưng lại nhiều giao cắt, các nút giao thông nhỏ hẹp lại không hợp lý nên khiến tình trạng quá tải càng trầm trọng. Diện tích đất dành cho giao thông tĩnh quá thấp dẫn đến việc thiếu bãi đỗ xe, điểm trông giữ xe cũng như các bến xe liên tỉnh. Hệ thống cấp nước đô thị cũng trì trệ không kém. Vẫn còn gần 2/3 đô thị nhỏ chưa có hệ thống cấp nước tập trung, công suất khai thác chỉ đạt gần 2/3 so với tổng công suất thiết kế của các nhà máy nước sinh hoạt. Hệ thống thoát nước còn lạc hậu và thiếu sự đồng bộ cần thiết. Cho đến nay, chưa đô thị nào có được trạm xử lý nước thải sinh hoạt. Hệ thống thoát nước của các thành phố lớn mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu trong khi các đô thị khác phạm vi phục vụ chỉ đạt 20 - 25%, tình trạng ngập úng còn diễn ra thường xuyên. Vấn đề ô nhiễm môi trường do chất thải sinh hoạt và công nghiệp vẫn chưa được khắc phục. Tại các thành phố lớn, tỷ lệ thu gom chất thải rắn dao động từ 60-70% trong khi các đô thị nhỏ chỉ là 20-40%, thậm chí có nơi còn chưa tổ chức được công tác thu gom, chưa có bãi đổ rác chung. Chất thải độc hại từ các khu công nghiệp, bệnh viện... không được phân loại, xử lý mà được chôn lấp ngay với chất thải rắn đô thị nên các bãi chôn lấp này trở thành nguồn gây ô nhiễm môi trường. Mạng lưới điện còn chưa phủ hết toàn quốc, nhiều vùng mới có điện một vài năm gần đây dẫn đến đời sống và cơ sở hạ tầng tại vùng vô cùng nghèo nàn. Sản xuất điện không đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân và doanh nghiệp, thường xuyên luân phiên cắt điện. Nhiều DN do thiếu điện nên sản xuất gặp khó khăn. Công tác xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng chủ yếu do Nhà nước thực hiện, tốn kém ngân sách nhưng hiệu quả không cao, nhiều tiêu cực, cắt xén nguyên vật liệu, ngân sách, thời gian kéo dài thậm chí còn gây cản trở cho giao thông. Nhà nước chưa tạo được môi trường thông thoáng và thực sự minh bạch để các Doanh nghiệp có cơ hội tham gia công cuộc phát triển cơ sở hạ tầng nhằm giảm gánh nặng ngân sách nhà nước và tăng hiệu quả cho công tác phát triển hạ tầng. Công tác tuyên truyền gìn giữ bảo vệ cơ sở hạ tầng công cộng còn yếu và chưa được coi trọng. Ý thức tham gia giao thông của người dân còn kém, ý thức giữ gìn tài sản công, vệ sinh môi trường rất thấp. Công tác xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng còn thiếu đồng bộ, nhiều dự án còn cản trở lẫn nhau, có dự án cần thực hiện trước thì lại làm sau. Ngân sách cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng còn thiếu nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu cấn thiết cho thu hút đầu tư và phát triển kinh tế, dẫn đến việc xây dựng phát triển còn mang nặng tính thời vụ. Xây dựng, củng cố hệ thống chính sách pháp luật. Ngày 14/4/1999, Nghị định số 22/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam được ban hành, cùng một số văn bản pháp luật liên quan đã tạo nên một khung pháp lý cần thiết cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy vậy, qua 5 năm thực hiện, Nghị định này đã bộc lộ nhiều nhược điểm, có những điểm không còn phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước, như: Qui định còn thiếu cụ thể, đồng bộ, nhất quán. Có không ít những điều khoản đến nay không còn phù hợp, không bao quát được sự đa dạng của các hình thức đầu tư ra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25060.doc
Tài liệu liên quan