MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ 3
I-/ KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA DNV&N. 3
1-/ Khái niệm về DNV&N. 3
2-/ Các loại DNV&N. 3
a. Các nhóm tiêu chí phân loại: 3
b. Các yếu tố tác động đến phân loại DNV&N. 4
3-/ Vai trò của các DNV&N. 7
II-/ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC DNV&N. 10
1-/ Các nhân tố tác động đến DNV&N 10
2-/ Vai trò và sự cần thiết của các chính sách hỗ trợ DNV&N của Chính phủ. 14
2.2. Sự cần thiết phải hỗ trợ. 16
3-/ Cơ chế mô hình hỗ trợ DNV&N của Chính phủ. 17
III-/ KINH NGHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ CÁC NƯỚC TRONG HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
CÁC DNV&N. 19
1-/ Tạo khung khổ pháp lý khuyến khích phát triển DNV&N 19
2-/ Thành lập các cơ quan Nhà nước chuyên trách về các DNV&N. 20
3-/ Chiến lược phát triển và chính sách hỗ trợ DNV&N. 21
4-/ Khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và các tổ chức đại diện cho DNV&N. 22
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 24
I-/ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM. 24
1-/ Quy mô doanh nghiệp: 24
2-/ Tình hình sản xuất kinh doanh của DNV&N. 25
II-/ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ. 28
1-/ Cơ chế và mô hình hỗ trợ ở Việt Nam. 28
2-/ Các chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở Việt Nam và tác động của nó. 31
a. Chính sách đổi mới kinh tế. 31
b. Chính sách tài chính - tiền tệ, tín dụng: 32
c. Chính sách đầu tư. 36
d. Chính sách thương mại. 38
e. Chính sách công nghệ đào tạo. 39
III-/ KẾT LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TRONG VIỆC HỖ TRỢ
CÁC DNV&N. 40
1-/ Đánh gia chung. 40
2-/ Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân. 43
2.1. Tồn tại: 43
2.2. Nguyên nhân: 45
2.3. Một số kết luận. 47
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
CHÍNH PHỦ TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CÁC DNV&N 49
I-/ QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ
ĐẾN NĂM 2010. 49
1-/ Tình hình quốc tế. 49
2-/ Phương hướng đổi mới quan điểm hỗ trợ. 50
2.1. Đổi mới nhận thức tư tưởng. 50
2.2. Bảo hộ phát triển DNV&N trong từng giai đoạn phát triển: 51
2.3. Phát triển DNV&N là một bộ phận quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. 52
2.4. DNV&N cần phải lấy quan điểm kinh tế làm thước đo. 53
2.5. DNV&N cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số
ngành có lựa chọn. 53
2.6. Ưu tiên phát triển DNV&N ở nông thôn, cả trong công nghiệp và
các ngành dịch vụ, coi công nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận quan trọng nhất của
chiến lược CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. 53
2.7. DNV&N được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định mà
DN lớn không có lợi thế tham gia. 55
2.8. Phát triển DNV&N trong mối liên kết chặt chẽ với DN lớn. 55
2.9. Nên có một khu công nghiệp tập trung ở các thành phố dành riêng
cho DNV&N. 56
3-/ Một số chỉ tiêu định hướng phát triển DNV&N. 56
II-/ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG VIỆC
HỖ TRỢ DNV&N. 56
1-/ Các giải pháp dài hạn. 57
1.1. Xúc tiến xây dựng chiến lược phát triển khu vực DNV&N. 57
1.2. Soạn thảo và ban hành luật DNV&N. 57
1.3. Tạo điều kiện để thiết lập quan hệ kinh doanh, hỗ trợ lẫn nhau giữa
DNV&N đối với các DN lớn với các Tổng công ty của Nhà nước. 57
2-/ Các giải pháp trung hạn: 57
2.2. Chính sách đất đai: 58
2.2. Chính sách tài chính - tín dụng. 58
2.3. Chính sách thuế: 60
2.4. Chính sách thị trường. 61
3-/ Các giải pháp ngắn hạn. 62
3.1. Về đất đai: 62
3.2. Về vốn: 62
3.3. Về xuất nhập khẩu. 63
3.4 Về công nghệ và đào tạo. 63
KẾT LUẬN 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
67 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển các DNV&N trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m hỗ trợ DNV&N còn một số hạn chế:
- Trong các qui định chính thức, quan điểm hỗ trợ bảo đảm sự bình đằng giữa các thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế việc triển khai các quan điểm đó ở các địa phương thì vẫn còn sự phân biệt đối xử thiếu bình đẳng.
- Chưa xác định số đối tượng cần hỗ trợ trong các DNV&N vì số lượng là rất lớn.
- Bước đầu đã chú ý đến hỗ trợ theo ngành nghề và địa bàn nông thôn, miền núi, các ngành thu hút nhiều lao động,... nhưng vẫn còn rất chung, thiếu cụ thể.
- Chưa có quan điểm rõ nét về hỗ trợ theo qui mô giúp các DN yếu vươn lên.
- Về chiến lược và qui hoạch phát triển các DNV&N: Chiến lược và qui hoạch có vai trò to lớn trong việc định hướng cho các DNV&N, định hướng cho các DNV&N phát triển theo hướng kinh doanh ngày càng văn minh, hiện đại, đạt hiệu quả cao, mở rộng qui mô DN,...
ở Việt Nam, hiện mới có chiến lược phát triển kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế, chưa có qui hoạch và chiến lược phát triển tổng thể cho DNV&N. Trong chiến lược chung, việc xác định các ưu tiên ngành, nghề sản xuất, địa bàn,... Chưa thực sự dựa trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế và lợi thế so sánh của từng vùng làm căn cứ. Việc thực thi chiến lược và qui hoạch chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp. Điều đó được thể hiện rõ nét qua chiến lược đầu tư. Cơ cấu đầu tư tuy đã có đổi mới, nhưng vẫn quá chú trọng vào công nghiệp nặng, hoặc đổ dồn vốn vào công trình những ngành, dự án mang lại hiệu quả kinh tế xã hội thấp Nhà nước vẫn còn bao cấp nhiều lĩnh vực trong đầu tư mà lẽ ra phải để cho nhân dân tự làm.
Chưa kết hợp đúng đắn giữa chiến lược định hướng lớn với kế hoạch bước đi và giải pháp lớn cho từng thời kỳ với chính sách gồm các biện pháp cụ thể thực hiện các định hướng đó. Hiện đang có xu hướng coi nhẹ kế hoạch, qui hoạch, dự báo,... khi chuyển sang kinh tế thị trường.
ở các địa phương, tình hình càng nghiêm trọng hơn. Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu ở một số địa phương cho thấy, chính quyền còn lúng túng trong việc hoạch định chiến lược phát triển chung và hầu như chưa có chiến lược phát triển các DNV&N.
b. Khung khổ pháp lý.
Trên cơ sở những định hướng lớn của Đảng, trong thời gian qua, Nhà nước đã tiến hành tạo lập khung khổ pháp lý cần thiết cho các doanh nghiệp hoạt động. Mở đầu là một số Nghị định của Chính phủ nhằm khuyến khích phát triển khu vực ngoài quốc doanh chủ yếu là qui mô nhỏ như Nghị định 27,28,29/HĐBT về tư nhân, cá thể, hợp tác xã và kinh tế gia đình, Nghị định 66/HĐBT về hộ kinh doanh dưới vốn pháp định,... Nhà nước đã ban hành các luật liên quan đến các DNV&N như luật DN tư nhân, luật công ty, luật hợp tác xã, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, luật DNNN, các luật thuế,...
Tuy còn thiếu nhiều luật, đặc biệt là các luật bảo vệ lợi ích và khuyến khích phát triển các DNV&N, nhưng bước đầu đã tạo ra cơ sở pháp lý cho các DNV&N hoạt động.
Tuy nhiên, khung khổ pháp lý đối với các DNV&N ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Dưới đây là một số hạn chế trong số đó:
- Hệ thống phát luật chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng như luật thương mại, luật hợp đồng kinh tế, luật thừa kế,...
- Trong các luật đã ban hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết, luật công ty còn nhiều hạn chế, các chủ sở hữu nắm quyền sở hữu toàn bộ tài sản, nhưng pháp nhân công ty chưa rõ ràng. Luật doanh nghiệp tư nhân quy định thủ tục thành lập quá rườm rà, phải qua nhiều khâu.
Chưa có cơ sở pháp lý qui định khung khổ tiêu chí DNV&N, do đó có nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quản lý và thực hiện chính sách hỗ trợ.
Luật và các văn bản dưới luật còn mang tính quản chế, khống chế, cho phép,... hơn là tạo ra một hành lang rộng để khuyến khích các DN phát huy hết tài năng trong kinh doanh.
Quy trình soạn thảo chưa hợp lý: chủ yếu do các cơ quan của chính phủ soạn thảo, chưa quan tâm tới việc trưng cầu ý kiến của các DN. Việc soạn thảo các văn bản pháp lý chưa thực sự gắn với thực tế Việt Nam và không được kiểm nghiệm trước khi đưa ra thi hành. Do đó có nhiều luật đưa ra thi hành đã phải sửa đổi.
Thiếu những khoản thiết yếu về khuyến khích và hỗ trợ các DNV&N. Trong số các văn bản pháp lý nói trên chỉ mới có một số điều khoản khuyến khích DNV&N trong luật đầu tư trong nước và một số luật thuế.
Mức độ khuyến khích còn rất hạn chế và chưa thoả đáng chẳng hạn mức độ miễn thuế trong luật đầu tư trong nước chỉ có 1-2 năm đối với các DN mới thành lập trong khi đó ở nhiều nước có thể tới 5-7 năm đối tượng được miễn giảm thuế còn rất hạn chế. Chỉ có các DN mới thành lập ở vùng xa vùng sâu, các DN chế biến nông sản,...
Hiện có nhiều luật điều chỉnh cùng một nhóm đối tượng giống nhau như đã nêu trên. Nhiều văn bản luật không còn phù hợp nhưng chưa rà soát kịp thời, nhất là luật thuế, luật đất đai, nhiều văn bản pháp luật chưa nghiêm và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh đã dấn đến tình trạng nghiêm minh thiếu lành mạnh, rối loạn. Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu cho thấy 52,9% những người được hỏi ý kiến cho rằng các DNV&N chấp hành pháp luật không nghiêm.
2-/ Các chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở Việt Nam và tác động của nó.
a. Chính sách đổi mới kinh tế.
Chính sách đổi mới kinh tế tác động mạnh mẽ đến sự phát triển nền kinh tế nói chung, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Nội dung chủ yếu của chính sách đổi mới kinh tế bao gồm:
- Hình thành cơ chế kinh tế thị trường.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
- Mở cửa nền kinh tế.
Chính sách đổi mới kinh tế được chính thức khởi xướng vào năm 1986, tuy nhiên phải đến đầu năm 1989, với chính sách tự do hoá thương mại - chuyển sang cơ chế giá thị trường, thì công cuộc đổi mới kinh tế mới thực sự có thay đổi về chất. Việc xóa bỏ hầu hết các nguồn bao cấp đã thực sự đặt các DN trước cơ chế thị trường.
Có thể nói, chuyển sang kinh tế thị trường là điểm then chốt trong chính sách đổi mới kinh tế và có ý nghĩa cơ bản trong phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, nền kinh tế Việt Nam được coi là nền kinh tế “đóng cửa”. Mọi mối quan hệ kinh tế đối ngoại trong thời kỳ này chỉ hạn chế trong các nước khối hội đồng tương trợ kinh tế (COME COW) và một số rất ít các nước thuộc thế giới thứ 3. Cùng với chủ trương đổi mới, đường lối phát triển kinh tế đất nước cũng thay đổi cơ bản và đường lối này được gọi là mở cửa nền kinh tế.
Nội dung cơ bản của chính sách mở cửa nền kinh tế bao gồm:
Tự do hoá kinh tế đối ngoại, mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, hoà nhập khu vực và quốc tế,....
Từ chỗ chỉ có mối quan hệ kinh tế với một số ít nước, đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 100 nước trên thế giới. Nền ngoại thương Việt Nam đã có vai trò rất quan trọng cho ổn định hoá nền kinh tế trong thời kì 1992-1996 và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao (8-9%/năm) trong thời gian 1992-1996. Sự gắn kết giữa nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng tăng lên. Điều này thể hiện ở việc Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN, tích cực tham gia vào quá trình liên kết kinh tế khu vực, tham gia AFTA, phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ. Tỷ trọng xuất nhập khẩu là một trong những nước có nền kinh tế mở. Điều đó thể hiện bởi tỷ lệ giữa ngoại thương và sản lượng (GDP) tăng liên tục từ 51% năm 1989 lên 60% năm 1995.
Việc mở cửa nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các DN khu vực tư nhân tiếp cận không chỉ với thị trường nước ngoài, mà còn cả với công nghệ, kỹ thuật mới, kiến thức quản lý hiện đại của các nước tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên do thiếu kinh nghiệm, cũng như hạn chế về thông tin thiếu sự hỗ trợ cần thiết của Nhà nước cho nền các DN đặc biệt là các DNV&N, gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng khi bước ra thị trường thế giới.
Trong thời gian qua Việt Nam cũng đã thi hành nhiều biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành từ năm 1987 và nhiều lần sửa đổi (1991,1992,1994). Đến nay đầu tư nước ngoài chiếm 20-30% tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên các đối tác phía nam chủ yếu là các DNNN. Các DN ngoài quốc doanh qui mô vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng không đáng kể, dưới 10%.
b. Chính sách tài chính - tiền tệ, tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tài chính - tiền tệ là trung tâm của hệ thống chính sách. Do đó nó có những tác động mạnh mẽ và quyết định tới phát triển trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tài chính - tiền tệ là trung tâm của hệ thống chính sách. Do đó, những tác động mạnh mẽ và quyết định tới phát triển trong quá trình đổi mới ở Việt Nam và đối với phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đều liên quan tới chính sách tài chính - tiền tệ.
Nội dung đổi mới chính sách tài chính tiền tệ bao gồm:
- Đổi mới chính sách huy động vốn, chính sách ngân sách, chính sách thuế và chính sách tài chính DN.
- Chính sách huy động vốn nhằm huy động mọi nguồn vốn bên trong và bên ngoài cho sự phát triển kinh tế.
Các nguồn vốn trong nước bao gồm: tiết kiệm của khu vực nhà nước, nguồn vốn của dân tiết kiệm của các hộ gia đình, tiết kiệm của các DN.
Các nguồn vốn bên ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho vay và viện trợ không chính thức.
Nguồn vốn
Vốn
nước
ngoài
Vốn
trong
nước
Nhà nước
Dân cư
Tiết kiệm của ngân sách
Tiết kiệm của các DN
Tiết kiệm của dân cư
Tiết kiệm của DN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Vay nước ngoài
Viện trợ nước ngoài
Chính sách huy động vốn trong nước được thực hiện thông qua chính công cụ chính sách thuế, chính sách khuyến khích đầu tư, tạo môi trường đầu tư an toàn và ổn định hơn. Nhờ đó có tác dụng kích thích đầu tư toàn nền kinh tế tăng mạnh và đạt 16 tỷ USD. Trong đó đầu tư của tư nhân trong nước chiếm 30%, tức khoảng 6 tỷ USD trong 5 năm, đầu tư nước ngoài chiếm 27%.
Tuy nhiên trong chính sách huy động vốn còn một số trở ngại cho khu vực ngoài quốc doanh như:
Hiện nay, phần lớn vốn và tài sản do các DNNN nắm giữ ước tính khoảng 88,4% trong tổng số vốn và tài sản của các DN trong nền kinh tế. Trong đó tài sản được định giá thấp như đất đai. Hơn nữa, hiện nay, nhiều DNNN kinh doanh không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp, nên việc sử dụng nguồn lực trong toàn bộ nền kinh tế không hiệu quả. Khu vực ngoài quốc doanh thiếu vốn để hoạt động.
Phần lớn các nguồn lực bên ngoài (FDI, ODA) đều tập trung cho khu vực Nhà nước hơn 80% vốn liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài là các DNNN, khu vực tư nhân chiếm tỉ lệ không đáng kể.
Chính sách tín dụng đã có nhiều thay đổi trong những năm gần đây. Những thay đổi cơ bản của chính sách tín dụng bao gồm: cho vay tất cả các thành phần kinh tế Quyết định 18-NH của ngân hàng Nhà nước ngày 17-4-1988 về qui chế tạm thời thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với tư nhân, cá thể và kinh tế gia đình, Chỉ thị 202/HĐBT tháng 6/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về cho vay vốn sản xuất đến hộ nông dân,... Chuyển sang lãi suất thị trường có điều tiết, đa dạng hoá các hình thức tín dụng, tín dụng ngân hàng và nhiều hình thức tín dụng các tổ chức tài chính khác. Nhờ đó, tín dụng cho vay các DN ngoài quốc doanh tăng mạnh. Cơ cấu tín dụng cho vay đối với các DN khu vực này tăng từ 10,3% (1990) lên 18,2% (1992), 33,1% (1993), 37,1% (1994) và 50% (1995).
Bảng 9: Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế (%)
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Tỷ lệ tín dụng cho DNNN
89,7
90,0
81,8
66,9
62,9
50
Tỷ lệ tín dụng cho DNNQD
10,3
10,0
18,2
33,1
37,1
50
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tuy vậy nhu cầu về tín dụng của các DN ngoài quốc doanh vẫn chưa được đáp ứng. Nguyên nhân có thể là thủ tục vay vốn phiền hà, lãi suất cao. Số liệu điều tra cho thấy số liệu tài chính, chính thức bao gồm các ngân hàng và các tổ chức tín dụng của các DN ngoài quốc doanh. Do đó, các DN này phải tìm kiếm tín dụng từ các nguồn phi chính thức. Phân bổ các DNV&N theo mức độ vay vốn từ khu vực tài chính phi hình thức được trình bày trong bảng sau:
Bảng 10: Phân bổ DNV&N theo mức vay phi chính thức
Số lượng DN
Tỷ lệ (%)
Tổng số DNV&N điều tra
407
100
Số lượng DN có vay vốn từ khu vực phi chính thức
316
77,6
Trong đó: Vay dưới 30% vốn
242
76,6
Vay từ 30%-50% vốn
59
24,4
Vay từ 50%-70% vốn
15
0,6
Vay trên 70% vốn
13
0,5
Nguồn: Viện nghiên cứu QLKTTW 1996
Khó khăn trong việc huy động các nguồn tài chính là do sự kém phát triển của hệ thống ngân hàng cản trở sự luân chuyển các nguồn tài chính từ người tiết kiệm với người đầu tư. Sự lệ thuộc của DN ngoài quốc doanh vào nguồn vốn phi chính thức cho thấy mức độ ảnh hưởng của chính sách tài chính, tín dụng đối với các DN này. Sự phụ thuộc đó gây thiệt hại đáng kể cho các DN ngoài quốc doanh do chúng phải chịu chi phí giao dịch và lãi suất cao hơn nhiều lần. Lãi suất đối với các khoản vay từ khu vực tài chính phi chính thức có thể cao gấp ba lần so với lãi suất vay từ khu vực tài chính chính thức.
Thuế là một trong những chính sách quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Do đó, đồng thời với việc chuyển đổi nền kinh tế, Nhà nước đã thay đổi chính sách thuế. Nội dung đổi mới chính sách thuế bao gồm: chuyển từ hệ thống thu quốc doanh sang hệ thống thuế thống nhất cho tất cả các thành phần kinh tế làm cho thuế thực sự là công cụ điều tiết trong nền kinh tế thị trường. Trên tinh thần đó, Nhà nước đã ban hành một loạt các luật thuế.
Ngày 8/8/1990 Hội đồng Nhà nước công bố ba luật thuế áp dụng cho tất cả các thành phần kinh tế. Luật thuế doanh thu, luật thuế lợi tức và luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Luật thuế xuất nhập khẩu 29/12/1987.
Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 7/1993.
Từ đó đến nay, Nhà nước đã xem xét, sửa đổi những bất hợp lý và gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua luật thuế VAT, thuế thu nhập công ty. Đồng thời Nhà nước đã có những chính sách giảm thuế cho một số đối tượng trong các luật như luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài, luật hợp tác xã,...
Tuy vậy chính sách thuế hiện hành còn nhiều bất cập, thể hiện cụ thể ở những điểm sau đây:
Các qui định về thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn nhiều bất hợp lý, nặng về cơ chế thu, chưa có cơ chế động viên nuôi dưỡng các nguồn thu. Nhà nước đã có nhiều lần sửa đổi chính sách thuế nhưng đến nay, thuế suất vẫn còn cao và nhiều khoản thu ngoài thuế.
Theo đánh giá của Bộ tài chính thì tình trạng trốn thuế, đặc biệt là của khu vực DN tư nhân là đặc biệt quan trọng. Còn các DN tư nhân lại cho rằng nếu như họ thực hiện nghiêm chỉnh chế độ nộp thuế theo qui định của luật thì không có DN nào tồn tại.
Các qui định về thuế lãi suất rườm rà, rắc rối. Về thuế lợi tức, hiện có 19 loại văn bản liên quan (từ luật đến các văn bản hướng dẫn, về thuế môn bài có 9 loại văn bản, về thuế tài nguyên có 8 loại văn bản, về thuế doanh thu có 19 loại văn bản, thuế xuất nhập khẩu có 24 loại văn bản, thuế tiêu thụ đặc biệt có 13 văn bản. Vì nhiều văn bản cho nền việc thực hiện rất tuỳ tiện, các chủ DN không nắm được hết các qui định cho nên không thể biết được sự chính xác của mức thuế mà cán bộ thuế xác định.
Hệ thống thuế quá phức tạp. Chẳng hạn, thuế doanh thu có 16 mức từ 0-40% trên giá bán, hơn nữa, 1 DN có thể có phải trả thuế suất khác nhau: 2% nước đá, 1% đối với muối, 4% đối với sữa, 8% đối với cà phê.
Chưa bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các DN, còn có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Thuế lợi tức các sắc thuế từ 30-50%, riêng DN có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có 15-20%.
Việc thực hiện các loại thuế chưa đồng nhất: các hộ cá thể và kinh tế gia đình không phải nộp thuế kinh doanh. Quy định như vậy vừa tạo ra sự bất bình đẳng vừa tạo kẽ hở cho nhiều người núp dưới danh nghĩa “Kinh tế gia đình” để trốn thuế.
Thuế trùng lắp cho đến nay vẫn thực hiện thuế doanh thu và thuế suất cao, nên vô tình kích thích các DN trốn lậu thuế.
Cơ chế qui định thu kiểm tra thuế còn thiếu khoa học, không chặt chẽ, thiếu độc lập giữa người định thuế, người thu thuế và người kiểm tra. Trên thực tế việc thực hiện thuế khoán vừa thiếu chính xác vừa dẫn đến tiêu cực và thất thoát lớn. Nhiều cán bộ thuế tham nhũng ăn hối lộ.
Mặc dù đã được sửa đổi, nhưng luật thuế vẫn còn phức tạp. Việc thực hiện các luật thuế chưa được nghiêm minh và công bằng, nhiều DN và các cơ sở kinh doanh vẫn khai man mà các cơ quan thuế không kiểm soát được. Bên cạnh đó, mặc dù các chính sách miễn, giảm thuế cho một số đối tượng, nhưng thủ tục xin miễn, giảm thuế còn phức tạp nên nhiều khi các DN thuộc đối tượng miễn giảm thuế vẫn có xu hướng tìm cách trốn thuế hơn là xin được hưởng chế độ miễn, giảm thuế.
Việc tách Ngân hàng Nhà nước thành Ngân hàng TW và ngân hàng chuyên doanh từ tháng 5-1988 đã tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh ngân hàng thuận lợi hơn. Việc Nhà nước đã thực hiện thành công các biện pháp chống lạm phát đã tăng lòng tin của dân chúng và các nhà DN vào đông nội tệ tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư sản xuất công nghiệp, tuy nhiên việc lên giá đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ cũng phần nào ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các DN nói chung trong đó có DNV&N.
c. Chính sách đầu tư.
Trong thời gian qua chính sách đầu tư của Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Nếu như trước đây hoạt động đầu tư chỉ chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân sách và viện trợ nước ngoài thì hiện nay nguồn vốn đầu tư tư nhân đã được coi trọng. Đầu tư nước ngoài bằng nhiều hình thức cũng đã được chú ý hơn. Quốc hội đã ban hành luật đầu tư nước ngoài (1988) và luật khuyến khích đầu tư trong nước để tạo hành lang pháp lý để thúc đẩy hoạt động đầu tư. Dưới tác động của những chính sách này, cơ cấu đầu tư đã có những thay đổi đáng kể.
Sau một số năm thực hiện cải cách kinh tế, tiết kiệm nội địa đã trở thành số dương, tức nền kinh tế đã có tích luỹ nội bộ. Tỷ lệ tích luỹ nội bộ tăng từ 7,4% GDP năm 1990 lên 17,1% năm 1995, trong đó khu vực tư nhân chiếm 11,9% so với 5,2% là tỉ lệ tiết kiệm của Chính phủ. Đó là tác động tích cực của đổi mới đối với khu vực tư nhân, trong đó có các DN ngoài quốc doanh. Tuy vậy, so với các nước trong khu vực tỉ lệ tiết kiệm nội địa của Việt Nam còn thấp, do đó rất khó khăn để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong một thời gian dài nếu không cải thiện được tỉ lệ tiết kiệm nội địa.
Trong những năm gần đây, khu vực ngoài quốc doanh chững lại, không tăng trưởng nhanh như mong muốn. Bằng chứng là tỉ lệ tiết kiệm của tư nhân tăng vọt từ 7,4% năm 1990 lên 14,6% năm 1993 và sau đó giảm ngay xuống 11,9% năm 1994 và duy trì mức này cho đến nay. Dường như các chính sách phát triển kinh tế tư nhân ban hành trước đó đã phát huy hết tác dụng vào năm 1993 mà không có những độc lực mới cho khu vực này phát triển.
Năm 1995, luật khuyến khích đầu tư trong nước bắt đầu có hiệu lực tạo yếu tố mới thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư nội địa. Theo số hiệu của viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, tính đến cuối năm 1996 các cấp chính quyền đã cấp 313 giấy phép ưu đãi đầu tư đó có 93 giấy phép, tức 29,7% dành cho các DN ngoài quốc doanh hiện có thì số lượng giấy phép trên chưa tương xứng.
Trong khi mức đầu tư của khu vực tư nhân trong nước không tăng thì đầu tư nước ngoài lại tăng làm cho tổng đầu tư tư nhân ở nước ta đạt mức 21% GDP vào năm 1995. Tuy vậy so với các nước trong khu vực thì tiết kiệm và đầu tư vẫn ở mức thấp.
Bảng 11: Tiết kiệm và đầu tư 1990-1995 (% GDP)
Tiết kiệm
7,4
13,2
16,3
17,4
16,9
17,1
Nhà nước
0
1,3
4,1
2,5
5,0
5,2
Tư nhân trong nước
7,4
11,9
12,2
14,6
11,9
11,9
Nước ngoài
4,3
1,9
6,7
7,5
8,6
10
Đầu tư
11,7
15,1
17
24,9
25,5
27,1
Nhà nước
5,1
2,8
5,8
7
6,6
5,7
Tư nhân
6,6
12,3
11,2
17,9
18,9
21,4
Nguồn: Việt Nam Fiscal decen tralization and the delivery of rural services WBOCT 1996
Chính sách đầu tư trong thời gian qua tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn còn một số hạn chế đó là:
- Mức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tuy đã được chú ý nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DNV&N đặc biệt là DNV&N.
- Đầu tư của Nhà nước vẫn chủ yếu tập trung cho các DNNN, tuy rất nhiều DNNN kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài.
- Chính sách đất đai hiện hành còn nhiều bất hợp lý là một cản trở không nhỏ cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc tìm kiếm địa điểm kinh doanh, việc chuyển từ chế độ thuế sử dụng đất sang chế độ thu tiền thuê đất với mức cao hơn nhiều so với mức thuế cũ, cũng như khó khăn, phiền phức trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đều là những vấn đề cấp bách cần phải giải quyết cải thiện môi trường đầu tư cho các DN.
- Thiếu định hướng phát triển dài hạn cho các ngành công nghiệp, các chính sách thiếu ổn định, không nhất quán, không có cơ sở khoa học cho các nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư được thuận lợi, nói cách khác Nhà nước chưa có những chỉ dẫn cần thiết để nâng cao hiệu quả đầu tư chung của toàn xã hội.
d. Chính sách thương mại.
Như phần trên đã đề cập, một trong những nội dung quan trọng của chính sách đổi mới kinh tế là xây dựng nền kinh tế mở, phát triển quan hệ thương mại với các nước trên thế giới. Nhà nước chủ trương nới lỏng các qui định về xuất nhập khẩu. Nếu như trước đây chỉ có các DN Nhà nước được quyền hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương thì hiện nay các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần đều được quyền xuất khẩu trực tiếp và nhập khẩu nguyên liệu vật tư phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu thay đổi, hệ thống các biện pháp hành chính được thay thế bằng các chính sách kinh tế - hệ thống thuế quan. Nhờ đó từ năm 1989 hoạt động xuất nhập khẩu tăng nhanh.
Bảng 12: Tỷ lệ tăng trưởng xuất nhập khẩu
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Tăng trưởng XK
87,4
23,5
-13,2
23,2
21
37,6
28,3
Tăng trưởng NK
6,9
7,3
-15,1
8,7
54,4
48,5
28,7
Nguồn: Niên giám thống kê
Xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu tăng nhanh bình quân trên 20% kể từ năm 1992 tới nay sau 6 năm 1990-1995, giá trị xuất khẩu tăng hơn 2 lần và kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 2,5 lần. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở ngoài quốc doanh đều phải xuất uỷ thác qua các DNNN lớn. Số giấy phép cấp cho khu vực tư nhân chỉ chiếm 15-20% tổng số giấy phép.
Mặc dù đã có một số thay đổi tích cực nhưng chính sách xuất nhập khẩu hiện nay vẫn còn nhiều trở ngại, cụ thể là:
Các mặt hàng cấm nhập khẩu thay đổi hàng năm người đầu tư không chắc mặt hàng của mình có thuộc diện cấm hay không.
Vừa phải có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, vừa phải có giấy phép xuất hoặc nhập khẩu cho từng chuyến hàng.
Nhiều qui định không hợp lý như mắc vốn qui định cho các doanh nghiệp mới xuất khẩu và xin cấp giấy phép bổ sung đối với các doanh nghiệp mở rộng hoặc thay đổi lĩnh vực xuất khẩu. Theo qui định hiện hành các DN được phép xuất khẩu trực tiếp là những DN tự sản xuất được toàn bộ hàng xuất khẩu, có thị trường xuất khẩu ổn định trong tương lai gần có vốn đăng ký trên 2 tỷ đồng tại thời điểm xuất khẩu, có thị trường xuất khẩu ổn định. Quy định như vậy đã tạo ra lợi thế cho các công ty thương mại lớn đã có hoạt động xuất khẩu.
Hệ thống thuế quan quá phức tạp, nhiều sắc thuế, thuế suất cao và chênh lệch giữa các sắc thuế lớn.
Chưa có các thể chế hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Hiện nay, hoạt động tài trợ cho xuất khẩu chỉ giới hạn trong việc cho vay vốn lưu động ngắn hạn cho sản xuất hàng xuất khẩu của doanh nghiệp lớn. Vấn đề xử lý xuất khẩu tiểu ngạnh, thất thu thuế.
Thủ tục xuất, nhập khẩu đã được cải tiến để từng bước hợp lý hơn, tuy nhiên vẫn còn nhiều khâu gây phiền hà cho các DN.
Cùng với xuất khẩu hoạt động nhập khẩu trong thời gian qua cũng đã phát triển mạnh mẽ. Chính thông qua nhập khẩu mà các DN, trong đó có DNV&N đã tiếp cận được với máy móc, công nghệ tiên tiến của thế giới, cũng như tìm được những nguyên vật liệu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên tình trạng nhập lậu hàng hoá tràn lan, trốn thuế đã gây không ít khó khăn cho các DN. Nếu như Nhà nước không kịp thời có biện pháp hữu hiệu để loại trừ tình trạng buôn lậu, làm hàng giả và hỗ trợ các DN nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh thì các DNV&N ở Việt Nam rất khó đứng vững được khi Hiệp định AFTA có hiệu lực vào năm 2003.
e. Chính sách công nghệ đào tạo.
Với quan điểm cho rằng yếu tố công nghệ và yếu tố con người đóng vai trò chủ đạo, có tính quan trọng trong phát triển đất nước cho nên Đảng và Nhà nước Việt Nam đã rất chú ý đến việc xây dựng chính sách công nghệ - đào tạo. Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã hợp chuyên đề về công nghệ và giáo dục. Sau đó 17 chương trình công nghệ khoa học đã được triển khai nghiên cứu.
Nhà nước đã tạo điều kiện để thành lập những tổ chức có chức năng triển khai các hoạt động hỗ trợ sự phát triển của các DN nhỏ và vừa như: trung tâm hỗ trợ DNV&N của phòng thương mại công nghiệp Việt Nam, trung tâm hỗ trợ khoa học công nghệ của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường, chất lượng, trung tâm hỗ trợ phát triển DN ngoài quốc doanh của Hội liên minh các hợp tác xã Việt Nam. Ngoài ra có hai tổ chức cấp địa phương là trung tâm tư vấn DN Hà Bắc, COHASIPH ở Hải Phòng, các tổ chức khác dù trực tiếp hay gián tiếp cũ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0120.doc