MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
1. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 3
1.1. Khái niệm công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 3
1.2. Vai trò, nhiệm vụ và mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 3
1.2.1. Vai trò công nghiệp - hoá hiện đại hoá. 3
1.2.2. Nhiêm vụ công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 4
1.2.3. Mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 4
1.3. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 5
2. Thực trạng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta. 8
2.1. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 8
2.2. Nội dung của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 11
2.2.1. Những thành tựu mà công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã đạt được. 11
2.2.2. Những khó khăn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 14
3. Các biện pháp để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở
nước ta. 17
3.1. Tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. 17
3.2. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả phục phụ tốt cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 18
3.3. Đổi mới và nâng cao trình độ khoa học - công nghệ trong nước. 19
3.4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. 20
3.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. 21
KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2265 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phương thức sản xuất mới: phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Như vậy, mối liên hệ tất yếu lịch sử, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa phải là nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại.
Năm 1921, tại đại hội III quốc tế cộng sản LêNin đã chỉ rõ: “cơ sở vật chất - kỹ thuật duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp nhưng không thể đóng khung ở nguyên lý chung đó, cần phải cụ thể hoá nguyên lý đó. Nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo cả nông nghiệp, đó là điện khí hoá cả nước”. Ngoài ra, ông còn nói: “một lần nữa, tôi phải nhấn mạnh rằng cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí, ai quên điều đó người đó không phải là người cộng sản. Chúng tôi phải đặt vấn đề một cách thực tiễn đại công nghiệp hiện đại là thế nào? đại công nghiệp hiện đại có nghĩa là điện khí hoá toàn nước Nga”.
Như vậy, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, luận điểm trên của chủ nghĩa Mác- LêNin cần phải được vận dụng một cách thích hợp với đặc điểm của thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật và đặc điểm cụ thể của mỗi nước.
Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học- kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất nhanh, những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo cơ hội mới, vừa cản trở nền kinh tế của chúng ta. Các mặt đó nó đan xen vào nhau, tác động lẫn nhau. Vì vậy, nước ta phải chủ động sáng tạo để nắm lấy thời cơ đồng thời phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá tạo ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế nước ta tăng trưởng, phát triển bền vững hơn.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều có nhu cầu thực hiện các mối quan hệ, hợp tác với các quốc gia khác về mặt kinh tế. Việc thực hiện các mối quan hệ, hợp tác kinh tế với các nước đặt ra vấn đề cho nước ta phải khắc phục các hạn chế đó. Vì vậy, cần phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì mới tạo ra những tiền đề để hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta có nguồn lao động dồi dào bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất. Vì thế, công nghiệp hoá tạo điều kiện cho con người và khoa học công nghệ phát triển. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá góp phần nâng cao vai trò con người trong nền kinh tế đồng thời thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. Trên cơ sở đó tạo mối quan hệ cho từng vùng, từng miền trong cả nước làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá không chỉ làm kinh tế phát triển mà còn giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền. Như vậy, việc thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo ra sự phát triển về mọi mặt, mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội.
2. Thực trạng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
2.1. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Ngày nay, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta”. Do thiếu một lực lượng sản xuất phát triển vì thế cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa phù hợp. Chừng nào cơ sở vật chất chưa phù hợp thì đất nước ta chưa có chủ nghĩa xã hội hiện thực. Quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật chính là quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Văn kiện đại hội lần thứ VII ban chấp hành trung ương khoá VII khẳng định quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta là: “Quá trình chuyển căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghiệp, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của nông nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Việc xác định đúng những quan điểm công nghiệp hoá - hiện đại hoá là vấn đề rất quan trọng. Vì các quan điểm công nghiệp hoá - hiện đại hoá là cơ sở cho việc định hướng và chỉ đạo, thực hiện các nội dung và bước đi của công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá cần phát triển khoa học công nghệ. Vì thế, việc đưa khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống là rất cần thiết đối với nước ta đồng thời phải xã hội hoá tri thức khoa học công nghệ để mọi người có thể am hiểu và sử dụng chúng. Bên cạnh đó, phải phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng các thành tựu khoa học tiên tiến và ứng dụng chúng trong đời sống để phát triển kinh tế.
Quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá là quá trình cải tiến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, thực hiện cơ khí hoá trong sản xuất. Từ đó, chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, có kết cấu tương đối hiện đại và hợp lý đồng thời tiến hành cơ khí hoá và tự động hoá trong sản xuất. Đây là yếu tố then chốt tạo ra bước nhảy vọt cho nền kinh tế.
Để phát triển công nghiệp hoá- hiện đại hoá cần phải thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển mạnh của các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế nhằm tạo vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện phát triển kinh tế, chính trị xã hội. Đồng thời kết hợp tối ưu các thế mạnh của các quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ, trong đó phát triển quy mô vừa và nhỏ là chính.
Để phát triển công nghiệp hoá- hiện đại hoá cần phải khai thác tối đa nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Phải có biện pháp thu hút nguồn vốn nước ngoài. Nhưng để nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả ở nước ta thì trước hết phải có đủ nguồn vốn trong nước để tiếp nhận. Ngoài ra, để tạo việc làm cho nhân dân thì cần phải khai thác nguồn vốn trong nước của nhân dân ta cho việc đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Để phát triển công nghiệp hoá- hiện đại hoá phải thực hiện chiến lược hướng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Trong đó xuất khẩu là chính, xuất khẩu làm cho chúng ta phải phát triển các mặt hàng phong phú, đa dạng hơn để đáp ứng nhu cầu của mọi người trên thế giới. Có như vậy nước ta mới cạnh tranh được trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước. Bên cạnh đó phải đáp ứng được nhu cầu trong nước, phải có hàng hoá với mức giá phù hợp với mọi người dân.
Để phát triển công nghiệp hoá- hiện đại hoá phải thực hiện có hiệu quả các hệ thống pháp luật, các kế hoạch, các chính sách mà đảng và nhà nước để ra. Đặc biệt là các hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến vấn đề phát triển kinh tế để đảm bảo sự công bằng xã hội, an ninh quốc gia. Nhưng dù phát triển theo hướng nào thì yếu tố con người vẫn rất quan trọng, nó quyết định đến thành công của việc thực hiện quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Vì thế, cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ lành nghề có trình độ khoa học kỹ thuật, quản lý công nghệ.
Trong những năm gần đây, sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá cũng được bắt đầu từ nông thôn, lấy nông nghiệp là chính. Đại hội lần VIII của Đảng xác định: “cần phải coi trọng công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn” Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “cần tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta”.
Việt Nam, một nước dân số đông chủ yếu ở nông thôn và hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là chính. Vì vậy, cần công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn để đất nước phát triển hơn bằng cách tạo điều kiện để hình thành nền nông nghiệp mang tính chất hàng hoá, thu hút lực lượng lao động ở nông thôn. Bên cạnh phát triển nông nghiệp thì cần phát triển ngành công nghiệp vì ngành công nghiệp mới có khả năng phát huy được lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị trường trong nước và thế giới.
Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa đạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Ðảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Vì vậy, xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và của toàn xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Ðảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Nước ta là một nước nghèo, lao động thủ công là chính dẫn đến kết cấu hạ tầng của nền kinh tế còn thấp. Việc phát triển kết cấu vật chất hạ tầng trở nên cấp thiết. Cùng với việc đó cần phát triển các ngành dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của nhân dân lao động, nâng cao đời sống của nhân dân. Ngoài ra, phải chuyển dịch các ngành theo vùng, lãnh thổ để khai thác lợi thế và tiềm năng của vùng lãnh thổ đó. Đồng thời, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu để xuất khẩu đáp ứng nhu cầu nhập khẩu coi xuất khẩu là trọng điểm xây dựng nền kinh tế mở với một cơ cấu kinh tế hợp lý, năng động.
2.2. Nội dung của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
2.2.1. Những thành tựu mà công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã đạt được.
Sau khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế năm 1986 và sau đại hội khoá VII (năm 1994) thì việc thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá diễn ra rất sôi nổi, nó làm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn: “Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất về hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ, thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá”.
Trước kia, công nghiệp hoá - hiện đại hoá được tiến hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp với pháp lệnh chỉ tiêu riêng của nhà nước. Hiện nay, “ công nghiệp hoá - hiện đại hoá không chỉ dừng lại ở nhận thức mà đã trở thành hành động mạnh mẽ thôi thúc mỗi người dân, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp, mỗi địa phương tham gia”.
Bên cạnh đó, công nghiệp hoá - hiện đại hoá được tiến hành trong khi cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ đang phát triển với trình độ ngày càng cao. Vài năm gần đây, khoa học và công nghệ đã tăng cả sản lượng và chất lượng đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Thành tựu đó tác động mạnh tới sản xuất và các quá trình xã hội làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đồng thời làm tăng nhanh tính chất xã hội hoá và quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội như : “Sự tăng trưởng cao dần từ năm 1990 là 5, 09% và đạt mức cao nhất là 9,54% năm 1995 đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế”,.
Tốc độ tăng trưởng GDP trong 10 năm (1991- 2000) tăng bình quân hàng năm là 7,56%. Nông nghiệp phát triển liên tục đặc biệt là sản lượng lương thực. Sản lượng công nghiệp từ năm 1991- 1995 tăng 13,7%. Tỷ trọng kinh tế nhà nước trong GDP tăng từ 29,4% năm 1990 lên 39% năm 2000. Năm 2008, tốc độ tăng GDP đạt ngưỡng 6,23%.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến 2008 đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc. Các ngành du lịch, dịch vụ cũng phát triển, tỷ trọng các ngành đó có xu hướng tăng lên. Như vậy, “ quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong những năm đổi mới vừa qua đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực và đúng hướng, đó là: “tăng tỷ trọng và tốc độ công nghiệp, phát triển nhanh có mặt hàng xã hội, thay thế những cây, con có hiệu quả thấp bằng những cây, con có hiệu quả cao”. Dựa vào đó mà chúng ta có thể chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, giảm được nạn xoá đói giảm nghèo đồng thời xây dựng các công trình lớn, trọng điểm như thuỷ điện Hoà Bình, cầu sông Gianh, cầu Mỹ Thuật,...
Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển với quy mô lớn, ngày càng được mở rộng. Những năm gần đây, các quốc gia lớn, nhỏ đều ưu tiên phát triển kinh tế, hợp tác song phương và đa phương...Đó là điều kiện thuận lợi để các dân tộc trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau. Nước ta đang thực hiện các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đầu năm 2002 vốn đầu tư của nước ngoài của nhà nước thực hiện đã phát huy hiệu quả: “trên 42 tỷ USD với trên 3000 dự án và 21 tỷ USD được thực hiện. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội”. Thậm chí, tổng vốn FDI vào Việt Nam năm nay (2009) có thể đạt tới con số 4 tỷ USD, tăng 900 triệu USD so với năm ngoái và đạt mức cao nhất trong vòng 7 năm qua.
Ngoài ra, nước ta còn thu hút được nguồn vốn ODA của các nhà doanh nghiệp quá trình đầu tư vốn ra nước ngoài. Quá trình hội nhập kinh tế thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, diễn đàn kinh tế Thái Bình Dương(APEC), đặc biệt đang trong quá trình đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại quốc tế(WTO). Việt Nam đang sẵn sàng là bạn, là đối tác quan trọng của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển.
Chính vì thực hiện các chính sách trên mà: “Năm 2001, chúng ta đạt 15,02% USD về kim ngạch xuất, nhập khẩu là 16,162 tỷ USD so với 822,9 triệu USD và gần 2,16 tỷ USD. Kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng bình quân hàng năm trên 20% ”.
Uỷ ban Thương mại Quốc tế Mỹ công bố số liệu cho thấy trong bốn tháng đầu năm 2009, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt giá trị 3,74 tỷ USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm 2008.
Hàng dệt may vẫn đứng đầu danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vào Mỹ, đạt gần 1,6 tỷ USD, tăng 5%, tiếp theo là giày dép, đạt gần 460 triệu USD, tăng 22,6%.
Nước ta có nguồn tài nguyên, đất đai phong phú đặc biệt là nguồn lao động dồi dào với cơ cấu trẻ. Hơn nữa, chúng ta kế thừa kinh nghiệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá của các nước đi trước và kinh nghiệm đổi mới đất nước. Đó là yếu tố góp phần không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong 20 năm qua.
Nhìn chung, xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước trong 20 năm qua đã và đang tạo ra thế lực và lực lượng mới cả bên trong và bên ngoài để chúng bước vào thời kỳ phát triển mới, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
2.2.2. Những khó khăn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế.
Thứ nhất là, Nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế tiểu nông chủ yếu là sản xuất thủ công, năng suất lao động còn thấp...Hiện nay, nước ta vẫn là một trong những nước nghèo trên thế giới: trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhiều lạc hậu,...Vì thế, nền kinh tế nước ta kém phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, trong khi đó cuộc cạnh tranh về kinh tế giữa các nước trên thế giới vẫn diễn ra rất quyết liệt, nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì sẽ ngày càng tụt hậu xa hơn về kinh tế.
Thứ hai là, Các hậu quả kinh tế của cơ chế quản lý kinh tế theo lối tập trung quan liêu bao cấp để lại. Cùng với việc sinh ra những tiêu cực mới trong nền kinh tế thị trường đã và đang là vật kiên cố trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Thứ ba là, Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho nước ta theo hướng tích cực song sự dịch chuyển ấy mới chỉ là bước đầu. “ Cơ cấu kinh tế của nước ta năm 2002 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực vào những năm 80 và lạc hậu hơn cơ cấu kinh tế năm 2001 của những nước này” .
Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP có xu hướng liên tục giảm, các ngành dịch vụ quan trọng có xu hướng giảm dần: “tài chính- tín dụng, khoa học và công nghệ. Đặc biệt, cơ cấu lao động biến đổi rất chậm. Lao động trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 73% lao động xã hội năm 1990, chiếm 71% năm 1995 và năm 2000 chiếm 68%” .
Dân cư Việt Nam hiện nay vẫn tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, “ công nghiệp ở nông thôn nhất là công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản phát triển chậm, ngành nghề, dịch vụ chưa thu hút được nhiều lao động, lao động còn phổ biến là thủ công, tỷ lệ qua đào tạo thấp, thiếu việc làm trầm trọng”.
Thứ tư là, Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta được thực hiện trong tình hình thế giới đang diễn biến nhanh chóng phức tạp và chứa đựng yếu tố khó lường. Thực tế, vẫn còn những thế lực sử dụng những chiêu bài dân chủ, nhân quyền để mưu toan thực hiện diễn biến hoà bình nhằm xoá bỏ những thành quả cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước tăng nhanh, nâng cao đời sống cho nhân dân của tất cả các thành phần kinh tế, được tiến hành rộng khắp trên phạm vi cả nước. Thực tế, công nghiệp hoá -hiện đại hoá mới chỉ diễn ra mạnh mẽ ở những vùng kinh tế đã có sự phát triển, vùng đồng bằng, đô thị tập trung đông dân cư. Còn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng nông thôn, công nghiệp hoá - hiện đại hoá diễn ra chậm, gặp phải nhiều khó khăn. Đời sống người nông dân ở những vùng này vốn đã nghèo lại càng chậm được cải thiện, tạo ra sự phân hoá giàu nghèo rõ nét trong xã hội.
Thứ năm là, Trình độ văn hoá chung, trình độ tri thức về khoa học và công nghệ, về chính trị xã hội, luật pháp, về tổ chức, quản lý,...của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta còn khá thấp so với các nước trong khu vực và còn xa mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước. Đáng lo ngại là không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất, đạo đức,sức chiến đấu của một số bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy yếu. Nếu không khắc phục kịp thời và có hiệu quả những khuyết điểm, lệch lạc này, chúng ta sẽ làm suy yếu Đảng, làm cho mọt rỗng bộ máy nhà nước, làm chất chế độ và tất yếu làm cho đất nước đi lệch hướng con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu là, Dưới tác dụng của công nghiệp hoá - hiện đại hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hệ thống xuất, nhập khẩu nói riêng đã từng bước nâng cao được hiệu quả. Hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá của nước ta còn nhiều hạn chế. Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới nhìn chung còn thấp. Theo thống kê: “ Việt Nam đứng hàng thứ 49 trong 53 nước được xếp hạng năm 1997, đến năm 1999 nước ta đứng thứ 48 trong 59 nước được xếp hạng, năm 2001 nước ta đứng thứ 62 trong 75 nước được xếp hạng và năm 2002 nước ta đứng thứ 65 trong 80 nước được xếp hạng- theo xếp hạng của diễn đàn kinh tế”.
Thứ bảy là, Phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một trong những nội dung mà nhà nước chủ trương tăng quỷ đất dành cho hoạt động công nghiệp bằng cách chuyển đổi từ nông nghiệp sang để phát triển công nghiệp. Đất dành cho hoạt động nông nghiệp bị thu hẹp, một bộ phận nông dân phải chuyển sang lao động trong các ngành nghề khác nhưng hầu hết chưa qua đào tạo về ngành nghề, chưa năng động với cơ chế mới. Bên cạnh đó, việc hiện đại hoá các dây truyền sản xuất cũng khiến một bộ phận công nhân bị mất việc làm. Tốc độ phát triển công nghiệp nhanh trong khi tốc độ xây dựng kết cấu hạ tầng chưa theo kịp dẫn tới tình trạng quá tải, xuống cấp của các công trình cơ sở hạ tầng, khí thải công nghiệp gây ô nhiễm môi trường, làm mất cân bằng sinh thái. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng dẫn tới tình trạng khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên tới mức cạn kiệt, ảnh hưởng tới quá trình phát triển trong tương lai.
3. Các biện pháp để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta.
3.1. Tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá không chỉ có vốn, kỹ thuật, tài nguyên... mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đó bao gồm con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, làm việc hết mình.Trong nguồn nhân lực mới ấy, việc xây dựng giai cấp công nhân có trình độ tay nghề cao, có khả năng tổ chức và làm chủ khoa học công nghệ, giữ vững lập trường chính trị là một nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Vì thế, cần phát triển đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tại đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định: “ nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá”.Do vậy, để có nguồn lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá phải đầu tư cho giáo dục, đào tạo. Phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ nghiên cứu và triển khai công nghệ, cán bộ quản lý nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong kinh doanh, công nhân kỹ thuật... Việc xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá phải tiến hành với tốc độ và quy mô thích hợp. Bên cạnh đó, phải bố trí và sử dụng tốt nguồn nhân lực đã đào tạo, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động của họ để sáng tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu qủa kinh tế cao đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá của đất nước. Ngoài ra, cần đảm bảo dinh dưỡng, phát triển y tế, môi trường sống ... để họ có sức khoẻ tốt, yên tâm công tác.
3.2. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả phục phụ tốt cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn. Do đó, cần mở rộng quy mô huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là điều kiện, tiền đề quan trọng để công nghiệp hoá- hiện đại hoá thành công.
Vốn dành cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá bao gồm hai nguồn vốn: vốn trong nước và vốn nước ngoài. Trong đó, vốn trong nước đóng vai trò quyết định vì đó là nhân tố bên trong đảm bảo cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập,tự chủ, là tiền đề để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài.
Nước ta là nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Cần tăng cường khả năng huy động vốn để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Đây là nguồn vốn có vai trò quan trọng, không những giúp cho các nước nghèo khắc phục một phần khó khăn về vốn trong nước trong thời kỳ đầu mà còn góp phần nâng cao trình độ quản lý quản lý và công nghệ, tạo việc làm cho người lao động...Vì thế, tranh thủ nguồn vốn bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Mặt trái của nguồn vốn nước ngoài cũng không nhỏ vì sử dụng nguồn vốn nước ngoài phải chấp nhận bị bóc lột về tài nguyên, nợ nước ngoài tăng lên... Do vậy, không thể kỳ vọng vào nguồn vốn bên ngoài.
Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn thì cần phải phát triển thị trường vốn. Nhờ có thị trường vốn giúp cho người sở hữu vốn nếu nhượng quyền sử dụng vốn cho người khác sẽ có thu nhập đồng thời khi có thị trường vốn dễ dàng chuyển dịch từ nơi hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao. Cho nên, phát triển thị trường vốn ở nước ta là rất cần thiết.
Để tăng cường khả năng huy động và hiệu quả sử dụng vốn thì cần xây dựng môi trường vĩ mô. Môi trường vĩ mô càng thuận lợi thì quy mô huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Vì vậy, “Xây dựng môi trường vĩ mô thuận lợi tức là giữ ổn định về chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế, xây dựng chính sách kinh tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21203.doc