LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Vai trò của FDI với vấn đề thu hút và tạo việc làm cho người lao động 2
1. Lý luận chung về FDI và việc làm 2
2. Tác động của FDI đến thị trường lao động ở Việt Nam 6
3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc thu hút FDI 8
3.1. Trung Quốc: 8
3.2. Ấn Độ: 8
3.3. Hồng Kông: 9
3.4. Hàn Quốc: 9
3.5. Malaysia: 9
3.6. Indonesia . 10
3.7.Thái Lan: 11
Chương II: Thực trạng về FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở Việt Nam 12
1.Thực trạng của việc thu hút và sử dụng FDI trong thời gian qua 12
2. Thực trạng của việc làm ở Việt Nam dựa trên FDI trong thời gian qua 19
Chương III: Dự báo và giải pháp về tạo việc làm dựa trên FDI trong tình hình toàn cầu hóa hiện nay 22
1. Dự báo về quá trình toàn cầu hóa ảnh hưởng tới FDI và việc làm tại Việt Nam 22
2. Dự báo về cung cầu lao động trong thời gian sắp tới 23
3. Giải pháp về tạo việc làm thông qua thu hút FDI trong thời gian tới trong quá trình hội nhập (toàn cầu hóa) 24
KẾT LUẬN 28
30 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1330 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a bàn mà nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư.
3.4. Hàn Quốc:
Hàn Quốc lại ưu tiên thu hút FDI từ các nước công nghiệp phát triển, lựa chọn lĩnh vực và hình thức thu hút FDI. Hàn Quốc coi trọng thu hút FDI từ các nước công nghiệp phát triển để phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế tạo. Do điều kiện tài nguyên khan hiếm, Hàn Quốc tập trung thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp, ít thu hút vào các lĩnh vực khai thác tài nguyên, sơ chế sản phẩm, vì thế công nghiệp sơ chế chiếm không quá 1% tổng số vốn FDI. Trong lĩnh vực dịch vụ, Hàn Quốc chỉ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào một số hoạt động du lịch, tham gia liên doanh trong hoạt động ngân hàng, thương mại. Hàn Quốc cũng chú trọng mở rộng tự do hóa tài chính - tiền tệ, từng bước thực hiện chính sách tự do hoá thị trường chứng khoán, bãi bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động sáp nhập và mua lại các công ty trong nước. Hàn Quốc cũng thực hiện kéo dài thời gian miễn, giảm thuế từ 8 đến 10 năm đối với doanh nghiệp FDI Đó là những kinh nghiệm rất hữu ích mà Việt Nam có thể tham khảo để áp dụng cho quá trình thu hút đầu tư.
3.5. Malaysia:
Trong các nước đang phát triển, Malaysia được đánh giá là nước thành công trong thu hút FDI để thực hiện công nghiệp hóa. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đa sắc tộc, tích luỹ nội địa thấp, Malaysia luôn coi trọng nguồn vốn FDI đối với sự phát triển nền kinh tế đất nước vì coi đây là yếu tố then chốt đẻ thực thiện công nghiệp hóa. Do quan điểm như vậy. Malaysia đã luôn tích cực cải thiện môi trường đầu tư của mình để thu hút đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, dòng FDI đổ vào Malaysia ngày càng tăng và đã đóng góp to lớn tạo ra sự tăng trưởng “thần kỳ” cả nền kinh tế nước này trong nhiều năm qua.
Nhờ vào chính sách đầu tư thông thoáng, đầu tư nước ngoài của Malaysia năm1991 đạt 6,4 tỷ USD và đến năm 1996 chiếm hơn ½ tổng số vốn đầu tư trong cả nước. Các nước đầu tư lớn nhất vào Malaysia là Nhật Bản, Đoài Loan, tương ứng đạt 7,02 tỷ USD và 2,29 tỷ USD.
Mới 20 năm trước đây, Malaysia vẫn còn là nước xuất khẩu dầu thô, đầu thực vật, cao su, chì, gỗ và các nguyên liệu khác, tỷ lệ của hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 22% vào những năm 1980. Nhưng từ năm 1996, tỷ lệ đó đã lên 80 % và hiện nay Malaysia là một trong những trung tâm sản xuất điện tử cao cấp trên thế giới.
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của Malaysia chủ yếu tập trung vào:
Xây dựng hệ thống chính trị ổn định và đoàn kết dân tộc;
Hệ thống giáo dục vững mạnh;
Hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại;
Có kế hoạch phát triển kinh tế ngắn hạn và dài hạn với mục tiêu rõ ràng;
Có chương trình khuyến khích đầu tư tích cực cho cả người đầu tư trong và ngoài nước
3.6. Indonesia .
Là một nước công nghiệp, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng lại thiếu vốn để khai thác, do đó đường lối phát triể kinh tế của nước này cũng phải đưa vào nguồn vốn nước ngoài. Năm 1991, nợ nứoc ngoài của nước này đã lên đến 57,5 tỷ USD. Luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1967, trong đó điều đáng chú ý là:
Thời gian hoạt động của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài có thể lên đến 30 năm;
Khuyến khích hình thức liên doanh, trong đó phần góp vốn của các chủ đầu tư trong nước tối thiểu là 20% vốn pháp định vào thời điểm thành lập công ty và trong vòng 15 năm sau khi hoạt động được phép tăng vốn ít nhất tới 51%;
Được miễn thuế nhập khẩu và thuế doanh thu đối với hàng nhập khẩu dùng cho mục đích góp vốn đầu tư
3.7. Thái Lan:
Từ một nước phát triển nông nghiệp là chủ yếu, Thái Lan đã trở thành một nước công nghiệp mới nhờ vai trò quan trọng của chính sách thu hút vốn nước ngoài thích hợp và hiệu quả trong giai đoạn đầu.
Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm1954, đến năm 1972 ban hành luật đầu tư nước ngoài và sau đó sửa đổi vào năm 1986, 1989. Luật đầu tư nước ngoài không cho phép người nước ngoài đầu tư vào nghành trồng lúa, nghề khai thác muối (muối mỏ), buôn bán nông sản trong nước, buôn bán bất động sản, xây dựng
Thời kỳ 1961-1971: là thời kỳ nền kinh tế thiếu cả vốn lẫn kỹ thuật để phát triển kinh tế trong nước. Vì thế trong giai đoạn này chính sách đầu tư tập trung khuyến khích phát triển các liên doanh với nước ngoài.
Thời kỳ 1972-1986: là thời kỳ thực thi chính sách giảm nhập khẩu, chỉ cho phép nhập khẩu chủ yếu là máy móc, trang thiết bị và nguyên vật liệu chưa sản xuât được trong nước. Trong giai đoạn này, chính sách đầu tư tập trung vào khuyến khích các dự án làm hàng xuất khẩu, các dự án phải tạo ra 80% sản phẩm phục vụ xuất khẩu.
Thời kỳ 1987-1997: là thời kỳ khuyến khích mạnh mẽ các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. Những công ty có 50% sản phẩm làm ra để xuất khẩu thì các nhà đầu tư nước ngoài có thể chiếm phầm lớn cổ phần, còn các công ty có 100% sản phẩm phục vụ xuất khẩu thì có quyền bỏ 100% vốn để mua cổ phần công ty đó. Giảm bớt các dự án tập trung ở Bangkok, đồng thời cũng cho phép các nhà tư bản Thái Lan đầu tư ra nước ngoài. Năm 1989, đầu tư ra nước ngoài của Thái Lan đạt 492 triệu USD và con số đó ngày một gia tăng.
Chương II: Thực trạng về FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở Việt Nam
Thực trạng của việc thu hút và sử dụng FDI trong thời gian qua
Có thể nói, những thành tựu của Việt Nam hiện nay có sự đóng góp tích cực của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tùy theo từng thời kỳ, vốn từ nước ngoài chiếm tỷ trọng khoảng từ 16,2% đến 29,9% vốn đầu tư xã hội; đóng góp khoảng từ 16% đến 24,2% GDP. Tính đến nay, đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 45% kim ngạch xuất nhập khẩu, tạo ra việc làm cho khoảng 1,42 triệu lao động trực tiếp (chưa kể hàng triệu lao động gián tiếp), tạo ra nhiều ngành, nghề mới, du nhập những công nghệ hiện đại, phương thức kinh doanh và quản lý tiên tiến; góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Việt Nam. Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1987 đến nay, đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với gần 10.000 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 150 tỷ USD. 10 tháng đầu năm nay, đà tăng trưởng này vẫn tiếp tục với tổng vốn FDI đăng ký đạt trên 59,3 tỷ USD, gấp gần 3 lần tổng vốn FDI đăng ký của cả năm 2007; vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp FDI ước đạt 9,1 tỷ USD, tăng 13% so với con số của cả năm 2007. Theo dự báo, các con số này sẽ đạt lần lượt khoảng 60 tỷ USD và 12 tỷ USD vào cuối năm nay. Ngoài những chuyển biến tích cực về lượng, những thay đổi đáng kể về chất của dòng vốn FDI vào Việt Nam cũng được thể hiện rõ nhất trong thời gian gần đây. Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án đó tăng dần từ năm 2006 và đạt mức cao nhất từ trước tới nay vào thời điểm tháng 8/2008 (68 triệu USD/dự án) với sự góp mặt của các tập đoàn có tên tuổi như: Intel, Compaq, Foxconn, Samsung. Cơ cấu đầu tư đó có những chuyển dịch tích cực, khu vực công nghiệp vẫn tiếp nhận lượng vốn đầu tư lớn nhất với những dự án quy mô lớn trong lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như công nghiệp lọc dầu, luyện kim. Bên cạnh đó, đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ cũng tăng lên với sự xuất hiện của một số dự án quy mô lớn trong lĩnh vực bất động sản, cảng biển, khu công nghệ cao.
Trong công nghiệp vai trò của đầu tư nước ngoài trong ngày càng được củng cố. Giá trị sản xuất của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước tăng dần, từ 25% năm 1995 lên 36,4% năm 2006 và 43,8% năm 2007 - mức cao nhất trong toàn Ngành Công nghiệp.
Đến nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tham gia vào hầu hết các ngành sản xuất công nghiệp, thậm chí chiếm phần lớn sản lượng sản xuất của nhiều ngành kinh tế lớn như 63% sản lượng xe có động cơ, 60% sản lượng thép cán, 76% sản lượng dụng cụ y tế chính xác, 55% sản lượng sợi các loại, 49% sản lượng da giày đặc biệt chiếm 100% về khai thác dầu thô. Sự tham gia ngày càng tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã giúp các ngành kinh tế này liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Không chỉ hướng mạnh vào khai thác thị trường, FDI trong công nghiệp còn góp phần tăng kim ngạch và thị trường xuất khẩu. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu 48,4 tỷ USD năm 2007, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 27,3 tỷ USD.
Tỷ trọng hàng công nghiệp tham gia xuất khẩu cũng đã tăng từ 18,7% năm 1985 lên 74,4% năm 2007. Đến nay, hàng hóa của Việt Nam, trong đó có 20 mặt hàng công nghiệp chủ lực, đã được xuất khẩu tới hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Điểm đáng ghi nhận là sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một môi trường cạnh tranh, góp phần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đổi mới và sắp xếp doanh nghiệp. Trong quá trình hợp tác với các doanh nghiệp FDI, nhiều doanh nghiệp trong nước đã tiến hành đổi mới công nghệ, từng bước đảm nhận từng phần trong cả chu trình công nghệ và tiến tới trở thành nhà cung cấp tin cậy của các công ty đa quốc gia, và công nghiệp lắp ráp xe máy là ví dụ điển hình.
Bên cạnh đó, FDI trong Ngành Công nghiệp còn gián tiếp đào tạo cho Việt Nam đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, được tiếp xúc với công nghệ mới, kỹ năng quản lý tiên tiến, kỷ luật công nghiệp chặt chẽ.
Về nông nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chỉ là 758 dự án với 3,78 tỷ, chiếm 10% về tổng số dự án và 5,6% về tổng giá trị vốn. Vốn FDI thực hiện trong nông nghiệp, nông thôn chỉ là 1,9 tỷ.
Đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu cho chế biến nông sản, thực phẩm 53,7% tổng số vốn, trồng rừng và chế biến lâm sản 24,7%, chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc 12,7%, trồng trọt 8,9%. Tỷ trọng đầu tư cho ngành thấp và có xu hướng giảm, hiệu quả hoạt động của các dự án chưa cao, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng của đất nước. Phân bổ không đồng đều giữa các vùng miền. Các quốc gia lớn chưa thực sự đầu tư vào nông nghiệp, thiếu tính đa dạng.
Về dịch vụ, nhà nước ta đã mở cửa thị trường dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng phát triển của các ngành dịch vụ, qua đó, góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Ngược lại, sự tăng trưởng và phát triển của các ngành dịch vụ cũng tạo điều kiện để Việt Nam tăng sức hấp dẫn và cạnh tranh thu hút FDI vào các ngành kinh tế khác.
Trong xu thế vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều, dòng vốn đang có sự chuyển dịch cơ cấu “chảy” mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước trong năm 2007 vừa qua, trong đó tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giaothông-vậntải-bưuđiện(18%).
Trong số các ngành dịch vụ, lĩnh vực dịch vụ du lịch đang nổi lên là điểm sáng đáng chú ý của nền kinh tế Việt Nam với số lượng các dự án lớn đang tìm hiểu và xúc tiến đầu tư tăng mạnh.
Chỉ tính riêng năm 2007, số liệu thống kê của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cho thấy: ngành du lịch Việt Nam đã thu hút 47 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký lên đến trên 1,86 tỷ USD, tăng 19,57% so với năm 2006.
Đơn vị %
2000
2001
2002
2003
2004
Tốc độ tăng của GDP
6,79
6,89
7,08
7,34
7,69
Tốc độ tăng của khu vực có VĐT nước ngoài
11,44
7,21
7,16
10,52
11,09
Tỷ trọng vốn FDI trong tổng VĐT phát triển của Việt Nam
18,0
17,6
17,5
16,3
15,5
Nền kinh tế
100
100
100
100
100
NN, TS, LN
25,53
23,24
23,03
22,54
21,76
CN, XD
36,73
38,13
38,49
39,47
40,09
ĐV
38,74
38,63
38,48
37,99
38,15
10 dự án FDI lớn nhất tại Việt Nam (2008)
1. Công ty thép Posco (1,126 tỷ USD)
Tập đoàn thép hàng đầu của Hàn Quốc quyết định đầu tư 100% vốn xây dựng nhà máy thép cuộn cán nguội, cán nóng, thép cuộn mạ kẽm và cuộn cứng tại khu công nghiệp Phú Mỹ II, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Dự án này có tổng diện tích 1.300.000 m2 với thời gian hoạt động 48 năm.
Dự án được chia làm 2 giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 được đầu tư 340 triệu USD, hoàn thành năm 2009 và có công suất 700.000 tấn/năm. Ở giai đoạn 2, dự kiến công suất sẽ đạt 3 triệu tấn/năm, với các sản phẩm dùng trong chế tạo ôtô, đồ gia dụng, ống đường kính nhỏ và thùng phuy. Dự kiến nhà máy thép sẽ tạo khoảng 10.000 việc làm cho lao động Việt Nam.
2. Công ty TNHH Intel Products Việt Nam (1 tỷ USD)
Đầu năm 2006, tập đoàn điện tử và linh kiện máy tính Mỹ Intel được cấp phép đầu tư tại Việt Nam dự án trị giá 605 triệu USD tại Khu công nghệ cao TP HCM trong 50 năm. Đến tháng 11, Intel nâng tổng vốn đầu tư lên 1 tỷ USD, trở thành dự án lớn nhất từ trước đến nay của Mỹ tại Việt Nam. Dự kiến khoảng 4.000 lao động Việt Nam sẽ làm việc cho nhà máy này của Intel.
Đồng thời với việc tăng vốn đầu tư, Intel cũng quyết định mở rộng diện tích nhà máy lên 150.000 m2. Đây là nhà máy lớn nhất trong hệ thống 7 cơ sở lắp ráp và kiểm định chip bán dẫn của Intel trên thế giới và dự kiến đi vào hoạt động từ năm 2009.
3. Công ty TNHH Tycoons Worldwide Steel Việt Nam (556 triệu USD)
Dự án này do công ty Tycoons Steel International có trụ sở tại Thái Lan làm chủ đầu tư. Dự án luyện cán thép của Công ty TNHH Tycoons Worldwide Steel Việt Nam (TWS) đặt tại Khu công nghiệp Dung Quất, Quảng Ngãi dự kiến hoạt động giai đoạn 1 (2006-2009) trong 3 năm với công suất 2 triệu tấn phôi thép/năm. TWS sẽ xây dựng một nhà máy luyện cán thép lò cao, và tăng vốn lên 1 tỷ USD, nâng công suất lên 5 triệu tấn/năm trong giai đoạn 2.
Đây là một trong những dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Khu công nghiệp Dung Quất và dự kiến tạo 4.000 việc làm.
4. Công ty TNHH Phát triển T.H.T. (314 triệu USD)
Tây Hồ Tây là dự án khu đô thị lớn nhất Hà Nội do tổ hợp 5 công ty xây dựng của Hàn Quốc, trong đó có các công ty đã triển khai nhiều dự án tại Việt Nam như Daewoo, Daewon, Keangnam, làm chủ đầu tư. Dự án được triển khai trên diện tích 207 ha, thuộc huyện Từ Liêm, với trung tâm hành chính rộng 25 ha, khu nhà ở cho 250.000 dân, trung tâm thương mại và văn phòng.
Dự kiến chủ đầu tư sẽ hoàn thành giải phóng mặt bằng vào năm 2009 và hoàn tất xây dựng khu đô thị vào năm 2014.
5. Công ty TNHH Winvest Investment Việt Nam (300 triệu USD)
Đây là dự án 100% vốn của tập đoàn Winvest Investment của Mỹ, đầu tư xây dựng khu nghỉ mát, khách sạn 5 sao và khu giải trí tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Dự án có thời hạn 50 năm, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu và giảm 50% mức thuế trong 3 năm tiếp theo.
6. Công ty TNHH điện tử Meiko (300 triệu USD)
Dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử này do tập đoàn Meiko của Nhật đầu tư 100% vốn tại Khu công nghiệp Phùng Xá, Hà Tây. Đây cũng là dự án lớn nhất từ trước đến nay tại Hà Tây.
Nhà máy của Meiko chuyên sản xuất các loại bảng mạch in điện tử, lắp ráp linh kiện điện tử lên bảng mạch, và lắp ráp các sản phẩm điện tử hoàn chỉnh. Dự kiến nhà máy sẽ thu hút khoảng 7.000 lao động và đạt doanh thu 1,7 tỷ USD mỗi năm.
7. Công ty cảng Container Trung tâm Sài Gòn (249 triệu USD)
Dự án này là liên doanh giữa công ty con của P&O Ports (Anh) và Công ty Phát triển Công nghiệp Tân Thuận (ITC), nằm trong cụm cảng Hiệp Phước, với công suất dự kiến đạt 1,5 triệu TEU/năm.
Khu cảng nằm cách trung tâm thành phố 10 km trên tổng diện tích hơn 40 ha. Dự kiến 2 cầu cảng đầu tiên trong tổng số 4 cầu cảng sẽ đưa vào vận hành năm 2008.
8. Liên doanh khu đô thị An Khánh (211,9 triệu USD)
Khu đô thị An Khánh là dự án liên doanh giữa Tổng Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (VINACONEX) và Công ty xây dựng Posco của Hàn Quốc, đặt tại Hà Tây. Khi hoàn thành vào năm 2020, đây sẽ là khu đô thị lớn nhất miền Bắc với tổng diện tích 264 ha và vốn đầu tư 2,1 tỷ USD, trong đó đối tác Posco đóng góp 211,9 triệu USD.
Dự án khu đô thị sẽ được thực hiện trong nhiều giai đoạn, dự kiến đến năm 2020 cung cấp 7.600 căn hộ chung cư, nhà vườn và biệt thự. Dự án cũng bao gồm tòa nhà cao nhất Việt Nam với 75 tầng dành cho mục đích thương mại, văn phòng và sàn giao dịch quốc tế.
9. Công ty TNHH Booyung (171 triệu USD)
Dự án khu chung cư quốc tế Booyung được đặt tại Khu đô thị mới Mỗ Lao, thị xã Hà Đông, Hà Tây. Dự án có tổng diện tích 43.200 m2 trong thời hạn 50 năm, gồm 6 chung cư cao cấp 30 tầng và các công trình phụ trợ để bán và cho thuê.
Dự kiến khi hoàn thành, khu chung cư cao cấp Booyung sẽ cung cấp chỗ ở cho khoảng 3.000 hộ gia đình và thu hút khoảng 100 lao động.
10. Công ty ITG Phong Phú (65,5 triệu USD)
Cụm công nghiệp dệt may ITG Phong Phú tại Khu công nghiệp Hòa Khánh, Đà Nẵng, là liên doanh giữa Tổng Công ty Phong Phú với Công ty Burlington Worldwide thuộc tập đoàn ITG của Mỹ. ITG chiếm 60% và Phong phú 40% trong tổng vốn của dự án.
Dự kiến cụm công nghiệp này cung cấp 60 triệu mét vải mỗi năm, đồng thời cung cấp trọn gói từ sợi vải đến sản phẩm may mặc hoàn chỉnh và thu hút hơn 3.000 lao động.
ta có thể thấy các nganh công nghiệp các dự án này đều đóng góp rất lớn trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong pham vi dự án.
*Trở ngại lớn nhất tại các doanh nghiệp FDI
Dự kiến trở ngại khi gia nhập WTO_lương đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng_ ảnh hương tới thị trường lao động
Trước tiên, hãy điểm qua thực trạng việc làm hiện nay. Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ thập kỷ 1990 đến nay đã dựa nhiều hơn vào khai thác nhân lực. Trong giai đoạn 1998-2004, tốc độ tăng trưởng đạt trung bình 6,8% và tăng trưởng việc làm tăng trung bình 2,8%/năm. Nếu so với giai đoạn 1991-1997, với tốc độ tăng trưởng kinh tế và việc làm trung bình lần lượt là 8,8% và 2,3% thì có thể thấy tình hình việc làm đã được cải thiện một chút trong giai đoạn 1998-2004. Góp phần chủ yếu vào sự cải thiện này là sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân ở các ngành công nghiệp và dịch vụ sử dụng nhiều lao động, đặc biệt kể từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp. Tuy vậy, cần lưu ý rằng tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị tuy có giảm dần nhưng vẫn đứng ở mức cao, tới 13,2% năm 2004, tuy đã giảm khá so với mức 18,6% năm 1998. Và đây là nguồn gốc của tình trạng chậm chạp trong việc giảm đói nghèo và tăng bất bình đẳng thu nhập ở khu vực thành thị.
Gia nhập WTO được dự đoán sẽ có ảnh hưởng tiêu cực lên tình trạng việc làm do sản xuất trong nước phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu có giá rẻ hơn do hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ bị dỡ bỏ hoặc hạ thấp, và kết quả là sự phá sản của những doanh nghiệp không hiệu quả. Tuy vậy, ảnh hưởng này không đồng đều ở các ngành kinh tế. Khả năng tăng trưởng việc làm sẽ là không đáng kể (thậm chí giảm ở một số phân ngành) trong những ngành như nông nghiệp, ô tô, máy móc, thiết bị và công cụ. Sẽ có hàng chục vạn nông dân phải rời bỏ đất đai để tìm việc làm trong các nhà máy công nghiệp, do tác động trực tiếp của việc bãi bỏ bảo hộ nông nghiệp, cũng như tác động gián tiếp đến từ sự hình thành các khu công nghiệp ở địa phương (và do đó thu hẹp diện tích canh tác nông nghiệp).
Nhìn chung, quá trình tái cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp tư nhân sau gia nhập WTO, sự khuyến khích về hưu sớm và tinh giản biên chế, cùng với tốc độ tăng trưởng lực lượng lao động mới hàng năm ở mức khá cao và xu hướng di dân của lao động nông thôn sẽ tăng thêm áp lực tạo việc làm mới ở khu vực thành thị vốn đã vượt quá khả năng hiện thời của nền kinh tế. Bởi vậy, trong những năm trước mắt, một giải pháp thiết yếu để tạo công ăn việc làm mới là phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, như dệt may, da giày, hoặc ngành dịch vụ (xây dựng, vận tải, du lịch...) chứ không phải là những ngành sử dụng nhiều vốn.
Nói riêng về ngành dịch vụ, phần lớn số lượng việc làm mới tạo ra sẽ thuộc về những phân ngành dịch vụ không chính thức (nhà hàng, bán lẻ, sửa chữa, giao hàng, giúp việc) và những dịch vụ hạ tầng cơ bản (xây dựng, giao thông, viễn thông), du lịch và thương mại. Một nguồn tạo việc làm quan trọng khác là những dịch vụ kinh doanh nhỏ, tư nhân, có giá trị cao (như tiếp thị, quảng cáo, tư vấn, quản lý, tài chính, bảo hiểm, tin học, thương mại điện tử, cung ứng, phân phối) và các dịch vụ chuyên nghiệp khác. Đây là những phân ngành giàu tri thức và chưa được phát triển ở Việt Nam cho đến nay. Nhưng chúng là cấu thành thiết yếu của một nền kinh tế tri thức nên chúng phải được phát triển tương xứng nếu Việt Nam muốn thay đổi cơ cấu kinh tế và tăng cường tính cạnh tranh quốc tế của mình.
Ngoài ra, chúng ta còn gặp phải những khó khăn sau:
- Khả năng hấp thụ vốn FDI vừa qua bị thấp, lý do quan trọng ở sự bất cập trong phát triển nguồn nhân lực. Ngành dệt may có nhu cầu lượng lao động cao nhất trong các doanh nghiệp FDI.
- Các doanh nghiệp FDI ngành sản xuất thực phẩm cũng cần nhiều lao động nhưng tốc độ tăng của cầu về lượng lao động khu vực này sẽ giảm dần và bão hòa trong những năm tới.
- Dường như ngành xây dựng và du lịch không thu hút được nhiều vốn FDI; vì thế nhu cầu lao động trong các doanh nghiệp FDI ở đây không cao (so với các khu vực nhà nước và ngoài quốc doanh) và có xu hướng giảm trong những năm tới; như vậy, vai trò tạo công ăn việc làm trong các ngành này sẽ chủ yếu nằm ở các khu vực nhà nước và ngoài quốc doanh.
- Nếu lao động ngành SX chế biến không cần khắt khe về trình độ học vấn và tay nghề thì trong các ngành dịch vụ (nhất là ngân hàng) yêu cầu về trình độ đứng hàng đầu; cũng vì thế nhu cầu lao động chất lượng cao sẽ tăng nhiều và nhanh ở các doanh nghiệp FDI ngành dịch vụ (nhất là dịch vụ ngân hàng). Các doanh nghiệp FDI lĩnh vực bảo hiểm những năm tới rất khát lao động có trình độ.
- Theo các chuyên gia,khả năng đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp FDI thuộc các ngành có nhu cầu lao động cao (như dệt may, sản xuất thuỷ sản) là khá khó khăn đối với các vùng kinh tế nơi lượng vốn FDI chiếm đa số, nhất là khả năng đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề và trình độ cao đang có xu hướng giảm dần, Đồng thời, có nhiều tín hiệu về sự dịch chuyển mạnh lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI ở Đông Nam Bộ và nhất là lao động có trình độ cao ra khỏi các doanh nghiệp FDI (có thể để giữ các vị trí cao trong khu vực tư nhân). Trong khi đó lượng lao động bổ sung từ các khu vực khác vào lại rất thấp, do khác biệt về văn hóa và nơi cư trú.
Thực trạng của việc làm ở Việt Nam dựa trên FDI trong thời gian qua
* Một số thuận lợi:
Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động trong nước cũng như nâng cao hơn nữa chất lượng lao động là một trong những mục tiêu đặt ra khi thực thi chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay đây là mục tiêu mà chúng ta đã thu được kết quả cao hơn so với các mục tiêu khác. Số liệu thống kê cũng cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các doanh nghiệp FDI trong việc tạo ra việc làm mới trong hay thập kỷ qua, đặc biệt trong những năm gần đây. Trong giai đoạn 2000-2005, việc làm mới đc tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI tăng trung bình 24.4%/năm (tăng gần gấp ba lần về mặt tuyệt đối, từ 227.000 người năm 2000 lên 667.000 người năm 2005), bỏ xa khu vực doanh nghiệp nhà nước và tư nhân (lần lượt 3,3% và 2,3%). Kết quả là tỷ trọng làm việc được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI đã tăng từ 0,6% năm 2000 lên 1,6% năm 2005 ở VN. Tuy con số này còn rất khiêm tốn nhưng với đà tăng trưởng nhanh như vậy, đặc biệt là sau khi VN gia nhập WTO, triển vọng việc làm được tạo ra bởi thành phần kinh tế này khá sáng sủa. Trong tương lai, thành phần này sẽ đuổi kịp thành phần kinh tế nhà nước về mặt thu hút lao động (năm 2005, doanh nghiệp nhà nước tuyển dụng 9,7% và doanh nghiệp tư nhân tuyển 88.8% trong tổng lực lượng lao động).
Đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, với tốc độ tăng trưởng nhanh hơn sẽ cho phép họ tuyển mộ được (hay cạnh tranh để thu hút) những nhân viên ưu tú từ các doanh nghiệp nhà nước. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất của các doanh nghiệp nhà nước, tạo thêm nhiều doanh nghiệp thua lỗ, và do đó, làm gia tăng thất nghiệp và bất bình đẳng ở thành thị. Số liệu từ các cuộc khảo sát cho thấy các doanh nghiệp nhà nước có năng suất thấp so với các doanh nghiệp khác, đặc biệt so với các doanh nghiệp FDI. Theo một báo cáo của Mekong Economics năm 2002, một lao động trong doanh nghiệp FDI tạo ra 110 triệu đồng giá trị gia tăng năm 2000, so với 36 triệu đồng ở doanh nghiệp nhà nước và 40 triệu đồng ở doanh nghiệp tư nhân. Nếu xét về chỉ tiêu kinh doanh khác như tỷ suất lợi nhuận/tiền lương mà Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiến hành năm 2005 thì kết quả cũng tương tự, với con số 1,1 ở doanh nghiệp FDI, 0,3 ở doanh nghiệp nhà nước và 0,5 ở doanh nghiệp tư nhân.
Qua các con số minh họa trên, có thể nói là lao động ở các doanh nghiệp FDI có năng suất lao động và tiền lương cao hơn lao động ở các doanh nghiệp nhà nước.Doanh nghiệp FDI đã trở thành đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp nhà nước trên thị trường lao động, đặc biệt là lao động có trình độ.
Số liệu công bố qua các cuộc điều tra gần đây về tiền lương cho thấy các doanh nghiệp FDI đang thắng thế trong cạnh tranh thu hút nhân lực cấp cao, như các chức danh quản lý doanh nghiệp. Mức lương trả cho lao động quản lý trong các doanh nghiệp FDI trung binh là 12 triệu đồng/ tháng (năm 2005), cao
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6028.doc