LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I: BẢN CHẤT KẾ HOẠCH HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 2
I - Phân biệt kế hoạch hoá tập trung và kế hoạch hoá định hướng 2
1. Bản chất của kế hoạch hoá tập trung 2
2. Bản chất của Kế hoạch hoá định hướng: 3
3. Nguyên tắc kế hoạch hoá định hướng 4
4- Nội dung KHH định hướng 6
II - Đổi mới kế hoạch hoá tập trung sang kế hoạch hoá định hướng 7
1- Đôỉ mới nhận thức mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường 7
2.Đổi mới tính chất kế hoạch 7
3. Phân cấp kế hoạch hoá 8
4. Đổi mới hệ thống các chỉ tiêu 8
5. Đổi mới nội dung kế hoạch hoá 9
III - Vai trò của kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội 11
1. Tăng trưởng kinh tế bền vững 11
2. Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động 11
3- Khống chế lạm phát ở mức vừa phải 12
4. Cân bằng ngân sách Nhà nước và bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội 12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI 13
I. Kế hoạch hoá trong thời kì chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam hiện nay 13
II Sự cần thiết phải chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng xã hội – chủ nghĩa 13
1. Những tồn tại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung 13
2. Thực trạng kinh tế – Xã hội Việt nam trước khi chuyển đổi 14
3. Bối cảnh quốc tế 14
III. Các vấn đề mà kế hoạch hoá đã làm được 15
1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội 15
2. Kinh tế_ xã hội phat triển 15
3. Chuyển dần trọng tâm sang kế hoạch hoá định hướng phát triển 5 năm 16
4. Xây dựng và thực hiện các chương trình dự án phát triển kinh tế_xã hội 16
IV. Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa 16
1. Kế hoạch hoá bảo đảm mối tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội 17
2. Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo địa phương và vùng lãnh thổ 18
3. Đổi mới toàn diện kế hoạch hoá phát triền 18
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 20
1- Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 20
2- Nâng cao chất lượng canh tác quy hoạch phát triển 20
4- Hoàn thiện kế hoạch hàng năm 22
5- Xây dựng và phát triển công tác dự báo và phân tích kinh tế 23
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
27 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường và những vấn đề đổi mới, trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế hoạch phát triển vùng kinh tế kế hoach nâng cao phúc lợi xã hội. Về mặt thời gian thì kế hoạch phát triển kinh tế_xã hội 5 năm đặc biệt coi trọng đó là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phat triển trong lộ trình phats triển lộ trình dài hạn của đất nước.
4.4 Chương trình dự án và phát triển kinh tế_xã hội
Chức năng chủ yếu của các chương trinh quốc gia là:
Cụ thể hoá kế hoạch đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống với chức năng này một chương trình quốc gia phải bao gồm các mục tiêu cụ thể các chỉ tiêu biện pháp và các giải pháp để thực hiện.
Các chương trình dự án phát triển được xem là cơ sở thực hiện phân bố nguồn lực như: vốn đầu tư ngân sách thay cho hình thưc phân bố theo đối tượng như trươc kia thực hiện KHH theo chương trình quốc gia là biện pháp để khắc phục những mặt trái cơ chế thị trường tạo sự ổn định về chính trị xã hội cho kinh tế tăng trưởng một cách bền vững.
II - Đổi mới kế hoạch hoá tập trung sang kế hoạch hoá định hướng
1- Đôỉ mới nhận thức mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung kế hoạch không gắn với thị trường còn thị trường không những không có tác động kích thích các hoạt động sản xuất kinh doanh mà ngược lại còn gó phần kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng, kế hoạch hoá không tìm cách thay thế thị trường mà ngược lại nó bổ sung chothị trường bù đắp các khiếm khuyết của thị trường hướng dẫn thị trường và bảo đảm sự vận hành của thị trường đẻ đưa ra các mục tiêu hợp lý cân nhắc một cách có hệ thống tất cả các công cụ chính sách có lựa chọn tối ưu.
2.Đổi mới tính chất kế hoạch
Trong cơ chế KHH tập trung mang nặng tính mệnh lệnh trực tiếp Về thực chất đó là quá trình áp đặt của Nhà nước bằng các chỉ tiêu pháp lệnh đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh Trong cơ chế cũ việc thực hiện KHH chủ yếu được tiến hành bằng cách giao chỉ tiêu pháp lệnh Vì vậy cấp dưới và các đơn vị cơ sở có nhiệm vụ thihành không cần suy nghĩ sáng tạo tính toán hiệu quả do đó mà trở nên hết sức thụ động.
Bước sang cơ chế KHH định hướng kế hoạch hoá mang tính chất định hướng Nhà nước chỉ tập trung vào việc thiết lập cân đối nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định tăng trưởng có hiệu quả và công bằng xã hội. Còn các đơn vị kinh tế cơ sở trực tiếp thực hiện kế hoạch kinh doanh do mình vạch ra dựa trên định hướng KHH và thông qua tác động của thị trường và sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Trong cơ chế kế hoạch hoá định hướng kế hoạch manag tính hướng dẫn buộc các đơn vị kinh tế cơ sở phải tự chủ sản xuất kinh doanh. KHH định hướng mang tính công khai với việc sử dụng đòn bẩy kinh tế đã tạo ra động lực kích thích mạnh mẽ bằng lợi ích vật chất thông qua hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3. Phân cấp kế hoạch hoá
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung cấp kế hoạch chủ yếu theo chiều dọc bằng các quyêt định mệnh lệnh được phát ra từ trung ương cơ quan kế hoạh cấp trên áp đặt hành chính chủ quan đối với cấp dưới khong phát huy được tính chủ động sáng tạo của các ngành các cấp chính quyền địa phương cũng như doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch, đơn vị kinh tế cơ sở chỉ biết chấp hành thụ động tuân theo mệnh lệnh hành chính. Điều đó dẫn đến tình trạng quan liêu bao cấp tràn lan và nặng nề.
Trong cơ chế kế hoạch hoá định hướng việc phân cấp kế hoạch hoá được thực hiện một cách mạnh mẽ phân cấp bộ máy KHH một cách triệt để theo xu hướng giao quyền cho cấp dưới. Thực hiện chế độ kế hoạch hoá hai cấp: Nhà nước và đơn vị kinh tế cơ sở, cơ quan kế hoạch trong phạm vi hệ thống kế hoạch và đầu tư nói chung đã đổi mới theo hướng đi mạnh vào việc đảm bảo các định hướng chiến lược quy hoạch các cân đối của nền kinh tế.
4. Đổi mới hệ thống các chỉ tiêu
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước phân bổ nguồn lực và sản phẩm bằng một hệ thống các chỉ tiêu hiện vật, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng đồng nghĩa với việc chuyển trọng tâm sang kế hoạch hoá giá trị, nghĩa là coi trọng các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật nói chung đã được giảm bớt đáng kể. Kế hoạch hoá định hướng là có xu thế giảm định lượng tức là thay đổi tính chất định lượng và nâng cao hiệu quả định lượng lên.
5. Đổi mới nội dung kế hoạch hoá
Nội dung kế hoạch hoá tâp trung
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nội dung kế hoạch hoá được phân thành kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch dài hạn, tuy cũng có kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm, song phạm vi chỉ bao quát các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh và khu vực nhà nước.
Nội dung kế hoạch hoá định hướng
Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng nội dung của kế hoạch được cấu thành bao gồm các bộ phận và nội dung được đổi mới như sau:
Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Trên cơ sở phân tích khoa học điều kiện kinh tế_ xã hội, khả năng khai thác các nguồn lực và tính thích ứng của quá trình hội nhập khu vực và thế giới, các quan điểm và đường lối trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội được cụ thể hoá thành các mục tiêu cho từng giai đoạn từ 10 đến 20 năm của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội Việc tăng cường nghiên cứu xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển đã tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác kế hoạch hoá trung hạn và kế hoạch hoá từng năm. Đại hội IX đã đánh giá việc thực hiện chiến lược đó và quyết định chiến lược 2001_2010”chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế thích hợp có nội dung đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, phát huy được tiềm lực trong nước và thu hút được nguồn lực từ bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Đổi mới quy hoạch phát triển
Công tác kế hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến lúc đầu tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, các chương trình và dự án lớn trong cả nước và cho từng nghành, từng vùng, từng lĩnh vực thực hiện phương trâm này, trong những năm qua Nhà nước đã tập trung thực hiện quy hoạch một số ngành như: Điện lực, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, khu công nghiệp tạo cơ sở cho việc phát triển chung của nền kinh tế đóng góp một phần không nhỏ cho công cuộc cải cách kinh tế. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền đã tạo ra những khu vực phát triển tập trung thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đàu tư nước ngoài, làm thay đổi không những bộ mặt kinh tế xã hội ở những vùng này mà còn góp phần quan trọng cho tăng trưởng của toàn nền kinh tế.
Đổi mới kế hoạch hoá phát triển
Kế hoạch hoá phát triển có nhiều đổi mới quan trọng mà trọng tâm là kế hoạch 5 năm
Về phạm vi kế hoạch hoá: Phạm vi kế hoạch hoá không chỉ bao quát các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước mà phần nào đã bao quát được các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhà nước ban hành nhiều chính sách nhằm tạo ra môi trường ổn định cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng và được pháp luật bảo vệ.
Về nội dung kế hoạch: Do nhận thức và vai trò của các lĩnh vực văn hoá, xã hội đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đã chuyển hướng từ kế hoạch phát triển kinh tế sang kế hoạch phát triển kinh tế xã. Các kế hoạch 5 năm và hàng năm đã chú trọng hơn đến các mục tiêu phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội các kế hoạch ngày càng trở nên vững chắc và toàn diện hơn, kế phát triển kinh tế đi liền với kế hoạch phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Như vậy chuyển sang cơ chế mới kế hoạch 5 năm đã có những chuyển biến quan trọng phù hợp vơí nhu cầu đổi mới của nền kinh tế.
Đổi mới các chương trình dự án phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường, thực hiện các chương trình quốc gia, giải quyết các vấn đề bức xúc về kinh tế – xã hội ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phương pháp kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rãi. Kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình phát triển là việc đưa ra các chương trình mục tiêu để xử lý các vấn đề về kinh tế – xã hội của đất nước. Đây là một phương pháp quản lý vừa đặc biệt lại vừa mang tính hiệu quả cao.
III - Vai trò của kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội
1. Tăng trưởng kinh tế bền vững
Đây là mục tiêu quan trọng nhất đối với các quốc gia đang phát triển vì tăng trưởng kinh tế quyết định tốc độ phát triển quốc gia, quyết định mức sống dân cư và tiềm lực kinh tế của đất nước. Tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế không những phải ở mức độ cao có thể đạt được, mà còn phải bảo đảm sự ổn định của quá trình tăng trưởng, tức là tốc độ tăng trưởng phải ổn định liên tục, trong một thời kỳ dài, đồng thời phải đảm bảo có hiệu quả các nguồn lực sản xuất, bảo vệ môi trường, tái tạo lại các nguồn lực tự nhiên. Vì vậy mà mục tiêu hoạt động kinh tế của nhà nước luôn nhấn mạnh tăng trưởng một cách bền vững.
2. Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động
Lực lao động của một quốc gia là nguồn lực quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển. Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động vừa có tác dụng thúc đấy tăng trưởng vừa giải quyết công bằng và ổn định xã hội. Ngược lại, nếu không giải quyết việc làm đầy đủ cho lực lượng lao động, tỷ lệ thất nghiệp quá cao sẽ trở thành ngánh nặng xã hội, gây nên những hậu quả kinh tế xã hội sấu khó giải quyết ở nước ta có tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp lớn, do đó nó có vai trò rất quan trọng trong các kế hoạch phát triển của quốc gia cũng như địa phương.
3- Khống chế lạm phát ở mức vừa phải
Đây là mục tiêu ổn định nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế không bị xáo trộndo lạm phát bảo đảm ổn định môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư và góp phần ổn định kinh tế xã hội. Mức độ lạm phát quá cao hay quá thấp hoặc giảm phát đều ảnh hưởng và tác động mạnh đến sản xuất, tiêu dùng, tới sự tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế xã hội. Do vậy khống chế, kiểm soát và ổn định lạm phát ở mức chấp nhận được, hoặc ở mức vừa phải được coi là một trong mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu.
4. Cân bằng ngân sách Nhà nước và bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội
Cân bằng ngân sách cũng được coi là một trong số các mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Bởi vì việc thâm hụt ngân sách quá lớn sẽ trực tiếp tác đọng tới tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, tới dự trữ quốc gia, tới cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội là mục tiêu quan trọng, đồng thời cũng là một lĩnh vực thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.
Chương II:
thực trạng và những vấn đề đổi mới
I. Kế hoạch hoá trong thời kì chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định” cơ chế áp dụng ở Việt Nam là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Chính Phủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa cơ chế này thể hiện nội dung cơ bản là: áp dụng hình thức đa dạng hoá các thành phần kinh tế, thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà Nước, phát triển kinh tế tư nhân. Sử dụng thị trường với tư cách công cụ điều tiết sản xuất, giá cả là cơ sở sản xuất, tiêu dùng và điều tiết các yếu tố nguồn lực.
Công tác kế hoạch hoá trong một nền kinh tế chuyển đổi như vậy không thể là kế hoạch hoá tập trung mệnh lệnh mà nó phải được chuyển sang một mô hình mới với những nét đặc trưng sau đây:
Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá phân bổ nguồn lực sang cơ chế kế hoạch hoá khai thác nguồn lực phát triển và định hướng sử dụng các nguồn lực đó theo mục tiêu đối với tất cả các thành phần kinh tế.
Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh, trực tiếp sang cơ chế kế hoạch gián tiếp, định hướng phát triển với hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp và khuyến khích nhằm đạt được mục tiêu.
Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá mang tính khép kín trong từng nghành, vùng lãnh thổ sang cơ chế kế hoạch hoá theo chương trình mục tiêu với sự kết hợp hài hoà giữa các ngành, các vùng, cả bên trong và bên ngoài theo hướng tối ưu hoá và hiệu quả các hoạt động kinh tế xã hội.
II Sự cần thiết phải chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng xã hội – chủ nghĩa
1. Những tồn tại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung
Kế hoạch hoá tập trung cao độ từ một trung tâm về thực chất là quá trình áp đặt hành vi từ phía Nhà nư. Các đơn vị kinh tế trở thành một vấn đề lệ thuộc hoàn toàn vào cấp trên, vào ngân sách Nhà nước, không có sức sống độc lập.
Kế hoạch hoá trực tiếp đòi hỏi phải chia cắt nền kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ để quản, mà thực chất là phân chia quyền sở hữu đối với mọi tài sản và nguồn lực của quốc. Tình trạng đó dẫn đến chỗ vì lợi ích cộc bộ của ngành, của địa phương, thậm chí của từng đơn vị kinh tế, làm phương hại đến lợi ích quốc gia, làm cho nền kinh tế không chỉ mất đi sức trồi của một chỉnh thể, mà còn bị lâm vào tình trạng mất cân đối với thiếu hụt thường xuyên.
2. Thực trạng kinh tế – Xã hội Việt nam trước khi chuyển đổi
Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc, không nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó đã gay ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thu hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nước ngoài. Năng suất xã hội bị suy giảm do thiếu động lực cho hàng triệu người lao động. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã áp dụng một môh ình kinh tế chưa thích hợp.
3. Bối cảnh quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế, làm thay đổi mọi mặt đời sống của các dân tộc. Xét về mỗi quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động làm cho nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước, không thể tách rời và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vấn đề đổi mới là tất yếu vì mô hình xã hội chủ nghĩa cũ không thích hợp cản trở phát triển.
III. Các vấn đề mà kế hoạch hoá đã làm được
1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991-2000 đã được điều chỉnh trong đại hội Đảng VIII, nguyên nhân thành công của chiến lược là những tư tưởng,quan điểm cơ bản,mục tiêu,nhiệm vụ và giải pháp nêu trong chiến lược1991-2000 về cơ bản là phù hợp với yêu cầu phát triển và điều kiện thực tế, thực sự có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng thúc đẩy đổi mới, tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Chiến lược đã bước đầu khơi dậy và động viên sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, đồng thời thể hiện một bước đổi mới, quan trọng có hệ thống về tư duy chiến lược. Thời kỳ 1991_2000 đã hình thành một chiến lược rõ ràng, đúng đắn, thực sự có ý nghĩa chỉ đạo, nên trong một thời gian ngắn thu được kết quả to lớn. Sau một số năm thực hiện, nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng cả nước đã đạt đươc mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay tạo mức chuyển dịch mới về cơ cấu kinh tế, nâng cao một bước đời sống các tầng lớp dân cư. Mặc dù có ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nước ta vẫn có bước phát triển khá so vơi các nước xây dựng quy hoạch phát triển.
2. Kinh tế_ xã hội phat triển
Trong thời gian vừa qua công tác quy họach phát triển kinh tế _ xã hội đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở bắc bộ, trung bộ và nam bộ đã tạo ra những khu vực phát triển tập trung thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư nước ngoài làm thay đổi không những bộ mặt kinh tế_xã hội ở những vùng này mà còn góp phần quan trọng cho tăng trưởng của toàn nền kinh tế, tạo điêu kiện thúc đẩy các vùng lân cận phát triển thành vệ tinh của những trọng điểm phát triển trên. Trên phạm vi cả nước nhờ công tác quy hoạch đã hình thành trồng cây chuyên môn hoá, hàng chục khu công nghiệp tập trung, hàng chục điểm đô thị mới, rất nhiều cảng biển, tuyến đường có tốc độ cao, nhiều công trình thuỷ điện Nói tóm lại công tác quy hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến bước đầu đã gắn được mục tiêu của chiến lược và nội dung quy hoạch, xác định được tiềm năng, định hướng phát triển cho từng vùng, từng địa phương.
3. Chuyển dần trọng tâm sang kế hoạch hoá định hướng phát triển 5 năm
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế_xã hội và quy hoạch phát triển,các kế hoạch 5 năm 1991_1995 và 1996_2000 đã được xây dựng với những thay đổi lớn về phương pháp và nội dung như: tăng cường kế hoạch hoá vĩ mô, từng bước xoá bỏ kế hoạch hoá mệnh lệnh, chuyển sang kế hoạch hoá định hướng,chú ý hơn đến các chỉ tiêu các lĩnh vực xã hội, khoa học và công nghệ đã có nhiều cố gắng xây dựng và điều hành, đảm bảo các cân đối lớn trong kế hoạch hoá giá trị Xây dựng và thực hiệncác chương trình dự án quốc gia, chú trọng xây dựng cơ sở dựng cơ sở hạ tầng kinh tế_xã hội, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế kế hoạch hàng năm đã chú trọng đến những cân đối lớn, đặc biệt là cân đối tài chính_tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Các chính sách tài chính tiền tệ, tỷ giá, lãi xuất được nghiên cứu và vận hành ngày càng phù hợp giúp ổn định kinh tế. Thực tế nói trên chứng tỏ ý tưởng chuyển dần việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang chú trọng các vấn đề vĩ mô, các cân đối lớn ngày càng thể hiện rõ và phát huy hiệu lực thực tế.
4. Xây dựng và thực hiện các chương trình dự án phát triển kinh tế_xã hội
Cơ chế lồng ghép các chương trình đang được đặt ra bước đầu mang lại hiệu quả tốt triển khai hình thức kế hoạch hoá theo chương trình mục tiêu ưu tiên cơ sở vận dụng quan điểm hệ thống và phương pháp cân đối đã góp phần thúc đẩy quá trình hình thành cơ cấu mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở phạm vi toàn nền kinh tế cũng như ở các bộ ngành và tỉnh, thành phố, các công việc thuộc về thẩm định dự án, đấu thầu đã được triển khai theo quy trình có bài bản, hạn chế những tồn tại của công tác kế hoạch đó là sai xót và lãng phí.
IV. Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế đang chuyển đổi ở Việt Nam, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hoá Nhà nước một mặt phải xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mặt khác phải hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường, xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết kế tài chính, tiền tệ và những phương tiện về vật chất và tổ chức cần thiết cho sự quản lý của mình, tạo điều kiện cho chế thị trường hoạt động hữu hiệu.
Kế hoạch chủ yếu mang tích chất định hướng và đặc biệt quan trọng có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh. Đối với các thành phần kinh tế khác thì kế hoạch không có tính áp đặt đặt, mà thông qua các biện pháp chính sách thống nhất với lợi ích để khuyến khích họ tự nguyện hành động theo hướng mục tiêu kế hoạch hoá đã đặt ra. Như vậy đổi mới kế hoạch hoá phải ăn khớp với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung, phù hợp với quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Công tác điều hành kế hoạch phải được thực hiện thông qua những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu, phối hợp sử dụng những biện pháp gián tiếp và trực tiếp.
1. Kế hoạch hoá bảo đảm mối tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Công tác kế hoạch hoá cụ thể là chiến lược phát triển kinh tế- xã hội phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế gẵn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văng hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Công tác kế hoạch hoá phải đảm bảo sự thống nhất giữa yêu cầu phát triển kinh tế với bảo đảm chính sách xã hội theo tinh thần: Tăng trưởng kinh tế gẵn bõ liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Tiếp tục phân phối lại dân cư các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế an ninh, quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bản để trong điều kiện thu nhập bình quan đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân.
2. Kết hợp kế hoạch hoá theo ngành với kế hoạch hoá theo địa phương và vùng lãnh thổ
Trong thời gian tới quy hoạch hay chiến lược phát triển ngày cầc được xây dựng theo định hướng mới, trước hết phải tính đến xu hướng phát triển cung cầu trên thị trường thế giới, phải khắc phục khuynh hướng “tự cung, tự cấp” khép kín. Tuy nhiên quy hoạh phát triển ngành chỉ mang tính hướng dẫn và tham khảo, không phải là cơ sở hay phân bố vốn đầu tư theo mệnh lệnh để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng theo hai cách: ưu tiên đầu tư của Nhà nước giành chính sách ưu đãi ở mức cao hơn đối với khu vực kém phát triển để thu hút đầu tư tư nhân vào các vùng đó. Việc phân cấp kế hoạch hoá trung ương và địa phương cần được xác định hợp lý và rõ ràng. Nhà nước trung ương chỉ tập trung thực hiện những mục tiêu có tính hệ thống, cân đối, mà các cấp chính quyền địa phương không thể thực hiện được. Việc phân cấp luôn phải đi kèm với những biện pháp kiểm tra giám sát thích hợp, vì thế việc giao theo quyền hạn cho các cấp chính quyền, địa phương trong kế hoạch hoá, đặc biệt là kế hoạch sử dụng ngững khoản chi tiêu từ ngân sách cấp trên luôn luôn đi kèm với sự giám sát chặt chẽ hơn theo nguyên tắc quyền hạn càng lớn, trách nhiệm càng cao.
3. Đổi mới toàn diện kế hoạch hoá phát triền
Để cho kế hoạch thực sự trở thành công cụ cơ bản cho việc định hướng thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả bền vững, thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác kế hoach hoá phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện trên các mặt chủ yếu sau: Trước hết phải coi trọng công tác dự báo, nhất là dự báo trung hạn và ngắn hạn về kế hoạch- xã hội và xu thế phát triển trong và ngoài nước để có cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các chiến lược phát triển, cũng như trong công tác điều hành tầm vĩ mô, chú ý lại các quy hoạch phát triển tổng thể nền kinh tế quy hoạch và các vùng kinh tế trọng điểm đã được thông qua cho phù hợp với yêu cầu mới, xu thế phát triển và hội nhập kinh tế trong vùng và các nước. Tổ chức xây dựng các chương trình, dự án phát triển có hiệu quả để có thể khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, nhân lực. Cần cải tiến nội dung xây dựng kế hoạch hàng năm một cách thiết thực, giảm những khâu trung gian, giữ vững cân đối chủ yếu nhất là cân đối giá trị. Góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo ra môi trường kinh tế ổn định và kích thích tất cả các thành phần kinh tế phát triển với mục tiên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh
Chương III:
phương hướng đổi mới kế hoạch hoá
ở Việt Nam hiện nay
Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội có nhiệm hoạch định đường hướng phát triển cơ bản của đất nước trong khoảng thời gian 10 năm tăng trưởng kinh tế, việc xác định các mục tiêu định tính trên các lĩnh vực như: Tăng trưởng kinh tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, vùng lãnh thổ, xu hướng biến đổi chất lượng cuộc sống của dân cư trên các vùng của đất nước, xu hướng biến động khả năng cạnh tranh của quốc gia trong khu vưc và trên thế giới, trình đội phát triển khoa học và công nghệ của đất nước, khả năng đảm bảo an ninh quốc, xác định các quan điểm và nguyên tắc cơ bản, nhằm thúc đẩy đất nước phát triển theo các định hướng nói trên. Theo chu kỳ sau 5 năm kế hoạch sẽ được xem xét, sửa đổi và điều chỉnh cho phù hợp. Như vậy mối thời kỳ đại hội Đảng sẽ là một lần thông qua chiến lược mới hoặc điều chỉnh chiến lược.
Việc xây dựng chiến lược phát triển cần do hội đồng nghiên cứu chiến lược thực hiện do sự lãnh đạo của Đảng Một năm trước khi thông qua dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước phải được côn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0217.doc