Đề tài Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế-Xã hội vùng Đồng bằng Sông Hồng

Lời nói đầu 1

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển 4

kinh tế trang trại 4

I. Khái niệm, đặc trưng và tiêu chí phân loại 4

1. Khái niệm về kinh tế trang trại 5

2. Đặc trưng của kinh tế trang trại 8

3. Phân loại kinh tế trang trại 11

II. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế-xã hội vùng Đồng bằng Sông Hồng 14

1. Phát triển kinh tế trang trại là một tất yếu của quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp- nông thôn 14

2. Tác động của kinh tế trang trại đến sự phát triển của ngành sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng 17

3. Tác động về mặt xã hội và môi trường 21

III. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng 24

1. Nhóm các nhân tố tài nguyên thiên nhiên 24

2. Các nhân tố kinh tế xã hội 26

3. Vai trò của Nhà nước. 30

IV. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở một số nước châu á 31

1. Kinh tế trang trại ở các nước Châu á 31

2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở các nước Châu Á và liên hệ với vùng Đồng bằng Sông Hồng 35

Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng Sông Hồng thời gian qua 39

I. Khái quát những thành tựu đạt được 39

II. Đánh giá tình hình sử dụng các yếu tố nguồn lực 45

1. Đất đai 45

2. Lao động 48

3. Vốn 52

4. Công nghệ kĩ thuật 55

III. Những hạn chế và nguyên nhân 56

1. Hạn chế 56

2. Nguyên nhân 57

Chương III: Phương hướng phát triển kinh tế trang trại 60

vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2010 60

I. Bối cảnh trong nước và quốc tế 60

1. Bối cảnh trong nước 60

2. Bối cảnh quốc tế 61

II. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại 62

1. Quan điểm phát triển 62

2. Dự báo một số chỉ tiêu về kinh tế trang trại đến năm 2010 64

III. Các giải pháp cụ thể 65

1. Các giải pháp về phía nhà nước 65

2. Đối với bản thân các chủ trang trại 80

Kết luận và kiến nghị 82

Danh mục tài liệu tham khảo 84

 

doc87 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2113 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế-Xã hội vùng Đồng bằng Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hoá ở các vùng đồng bằng. Loại hộ công nhân làm thuê ở các đồn điền, doanh nghiệp tư bản trước đây nay do thay đổi cơ chế quản lý kinh doanh, trở thành các chủ nông dân nhận khoán thầu đất đai và có cả vật tư kĩ thuật thì trở thành đơn vị trang trại sản xuất nông lâm sản hàng hoá. Số lượng trang trại ở các nước đang phát triển hiệnnay chưa nhiều và tỉ trọng trong số hộ nông dân chưa cao nhưng đang có xu thế phát triển cùng với nhịp độ phát triển công nghiệp hoá, và ngày càng thể hiện vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. 2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại ở các nước Châu á và liên hệ với vùng Đồng bằng Sông Hồng 2.1. Một số nhận xét về quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại các nước Châu á Từ khi bắt đầu công nghiệp hoá, kinh tế trang trại ở các nước Châu á đã hình thành và phát triển và đến khi đạt trình độ công nghiệp hoá cao, kinh tế trang trại vẫn tồn tại, và đóng vai trò chủ lực trong nền công nghiệp sản xuất nông sản hàng hoá, giống như ở các nước công nghiệp phát triển Âu Mĩ. Thực tế đã chứng minh kinh tế trang trại là loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, là lực lượng xung kích sản xuất nông sản hàng hoá. Đặc điểm của kinh tế trang trại các nước Châu á là quy mô nhỏ bé, phổ biến quy mô bình quân trên dưới 1 ha chỉ bằng 1/20- 1/10 của các nước Tây Âu và bằng 1/200- 1/100 của các nước Bắc Mĩ. Nhưng các trang trại quy mô nhỏ Châu á vẫn còn những tính chất cơ bản của kinh tế trang trại, như đảm bảo tỉ suất hàng hoá cao, khối lượng nông sản nhiều (khi các trang trại sản xuất chuyên môn hoá từng mặt hàng ở vùng tập trung) vẫn dung nạp được các trình độ khoa học công nghệ nông nghiệp từ các trang trại nhỏ trên dưới 1 ha đã có cơ giới liên hoàn, đồng bộ các khâu sản xuất lúa, và nhiều cây khác... Tất nhiên, quy mô đất đai của các trang trại lớn hay nhỏ không phải là điều kiện quyết định năng lực sản xuất nông sản hàng hoá và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Kinh tế trang trại ở các nước Châu á đến nay vẫn có nhiều quy mô cực nhỏ (dưới 0,5 ha), nhỏ (trên dưới 1 ha), vừa (3 - 5 ha) và lớn (8 - 10ha), cơ cấu quy mô khác nhau nay tiếp tục tồn tại lâu dài. Tiêu chí phân biệt kinh tế trang trại với kinh tế tiểu nông chủ yếu là dựa vào tiêu chí sản xuất hàng hoá tỉ suất cao, khối lượng và giá trị sản lượng nhiều, không phải dựa vào quy mô lớn, vốn đầu tư nhiều, số lượng lao động sử dụng nhiều... Kinh tế trang trại ở Châu á có hai loại hình phổ biến: trang trại sản xuất theo phương thức gia đình và trang trại sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Trang trại gia đình là loại trang trại phổ biến nhất ở các nước Châu á cũng như ở các nước Âu Mĩ. Còn trang trại tư bản tư nhân chiếm số lượng và tỉ trọng không lớn trong tổng số trang trại, vì sản xuất kinh doanh nông nghiệp trực tiếp, thành phần đầu tư vốn nhiều, dài hạn, thu hồi chậm, lợi nhuận thấp, không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tư bản tư nhân. Kinh tế trang trại ở các nước Châu á phát triển ở tất cả các vùng kinh tế: đồi núi, đồng bằng, ven biển, nhưng ở mỗi nước có bước đi cụ thể riêng, tuỳ thuộc vào đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội. ở Nhật Bản đồi núi và đồng bằng đan xen nhau, nên kinh tế trang trại phát triển đồng thời ở các vùng trong cả nước. ở Thái Lan, phát triển trang trại trồng lúa và chăn nuôi lợn gà, xuất khẩu tập trung ở đồng bằng trung tâm, trang trại trồng sắn xuất khẩu vùng đồi núi và trang trại nuôi tôm xuất khẩu ở vùng ven biển. Malaysia, Indonesia thì tập trung phát triển kinh tế trang trại ở vùng đồi núi trước là vùng sản xuất cao su, cọ dầu, hồ tiêu, ca cao, là những nông sản xuất khẩu có giá trị còn ở đồng bằng thì trồng lúa, kinh tế trang trại phát triển chậm phát triển hơn vì ở đây quỹ đất hạn chế, sản lượng hàng hoá ít. 2.2. Bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng - Trước hết cần xoá bỏ ngay quan niệm về kinh tế trang trại là phải sản xuất trên những diện tích đất đai rộng lớn nhất là khi mà ở vùng Đồng bằng Sông Hồng, điều kiện này không dễ đáp ứng. Chúng ta nên nhận định trang trại từ tính chất sản xuất hàng hoá của nó. - Phải nhanh chóng nâng cao trình độ cơ giới hoá trong các trang trại để sản xuất không bị lạc hậu. - Trong giai đoạn đầu, cơ cấu sản xuất của các trang trại còn hỗn tạp để tận dụng mọi năng lực sản xuất hiện có, nhưng sau dần chuyển sang cơ cấu mang tính chuyên canh và một loại nông, lâm, hải sản nhất định. Về lâu dài, sẽ kết hợp các hoạt động sản xuất nông nghiệp và hoạt động phi nông nghiệp (như dịch vụ chẳng hạn) để nâng cao hiệu quả sản xuất của trang trại. - Mô hình trang trại gia đình đang và sẽ là loại hình trang trại phổ biến và thích hợp. Nó bao gồm trang trại gia đình tiểu chủ vừa sử dụng lao động gia đình vừa thuê thêm lao động thời vụ và thường xuyên với số lượng khác nhau, được nhà nước chủ trương khuyến khích. Chính loại lao động tiểu chủ là lực lượng lao động có nhiều tiềm năng sản xuất nông sản hàng hóa hiện nay. Mô hình này có nhiều ưu điểm nổi bật: + Có khả năng dung nạp những trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau + Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau + Có khả năng dung nạp các cấp độ công nghệ khác nhau + Có khả năng liên kết các loại hình kinh tế khác nhau: kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác, kinh tế nhà nước. Các chính sách phát triển kinh tế trang trại của nhà nước sẽ phải tạo điều kiện thuận lợi để các hộ gia đình nông dân có thể sản xuất theo mô hình này. - Xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng, từ yêu cầu đặt ra của công nghiệp hoá, chúng ta có thể vận dụng một cách sáng tạo những bài học của các nước bạn, phát triển trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm, sản xuất thóc gạo hàng hoá ở những nơi có điều kiện xuất khẩu, trang trại trồng cây con cần ít đất, trồng hoa, cây cảnh, nuôi cá cảnh, trăn rắn, baba... có thể đạt hiệu quả kinh tế cao. -Về vấn đề phân hoá thu nhập: có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế trang trại là “lối làm ăn của người giàu”, bởi những nông dân nghèo thì khó mà có đủ vốn để làm trang trại, đồng thời cho rằng không nên khuyến khích loại hình trang trại tư bản tư nhân vì nó có thể dẫn đến sự tư bản hoá sản xuất nông nghiệp. Đúng là nhờ kinh tế trang trại, một bộ phận dân cư đã có mức thu nhập cao hơn hẳn và cũng làm phân hoá giàu nghèo, nhưng thực tế là nó không làm cho những người nghèo nghèo đi và cũng không làm tăng số người nghèo, trái lại còn giải quyết việc làm cho một phần đáng kể lực lượng lao dộng nữa. Hơn thế, nông nghiệp Việt Nam còn quá lạc hậu, thu nhập của người nông dân Việt Nam thấp so với thu nhập của nông dân các nước trong khu vực và trên thế giới, vì thế để đuổi kịp họ về trình độ sản xuất, về mức sống dân cư, về khả năng cạnh tranh của nông sản, thì kinh tế trang trại là sự lựa chọn số một, sự lựa chọn đúng đắn và hiệu quả. Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng Sông Hồng thời gian qua I. Khái quát những thành tựu đạt được Do trước đây chưa có sự thống nhất về tiêu chí xác định kinh tế trang trại nên các địa phương, các cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan nghiên cứu thống kê số lượng các trang trại theo hệ thống tiêu chí riêng, tính định lượng còn thấp, nên số liệu thống kê trước và nay chênh lệch nhau đáng kể. Tuy nhiên, có thể đánh giá sự phát triển của kinh tế trang trại bằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại. Sau nghị quyết 03/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại cũng như một số chính sách khác của Nhà nước, số lượng trang trại đã tăng lên đáng kể (xem biểu 2). Tính đến 01/10/2001, theo tiêu chí mới, cả nước có 60.758 trang trại, tăng 4.960 trang trại so với năm 2000, tăng 15.386 trang trại so với năm 1999, trong đó Đồng bằng Sông Hồng có khoảng 1.829 trang trại, so với năm 1999 tăng 21,77% (theo tiêu chí mới), trong đó các địa phương có số lượng trang trại nhiều nhất là Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình. Tốc độ phát triển bình quân của số trang trại trong thời kì 1999 – 2001 là 10,35%/năm, bằng 0,61 tốc độ phát triển bình quân chung của cả nước (17%) nhưng với một vùng không có nhiều đất đai thì đây là một thành tích đáng khích lệ. Trong sự tăng trưởng ấy, nhóm trang trại chăn nuôi và nhóm trang trại nuôi trồng thuỷ sản có tốc độ phát triển cao nhất, chứng tỏ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn một cách tích cực. Điều này cũng nói lên hướng sản xuất theo thị trường của kinh tế trang trại. Biểu 2: Tình hình phát triển số lượng trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng Loại trang trại 1999 2001 Tốc độ phát triển bình quân/năm 1999 - 2001 Tỉ lệ của vùng Đồng bằng Sông Hồng so cả nước (%) Tổng số trang trại 1.502 1.829 10.35 3.01 -Số trang trại trồng cây hàng năm 112 183 27.80 0.84 -Số trang trại trồng cây lâu năm 285 288 0.52 1.73 -Số trang trại chăn nuôi 80 153 38.3 8.68 -Số trang trại lâm nghiệp 189 41 -53.5 2.52 -Số trang trại nuôi trồng thuỷ sản 568 1.028 35.54 6.06 -Số trang trại kinh doanh tổng hợp 268 136 -28.75 6.78 Nguồn: Số liệu thống kê và kết quả điều tra nông thôn nông nghiệp – thuỷ sản năm 2001. Tổng diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 15.808 ha, chiếm 1,07% diện tích của toàn vùng, và bằng 1,84% diện tích đất nông nghiệp. Bình quân mỗi trang trại khoảng 8,64 ha, cao hơn mức trung bình chung của cả nước (6,09 ha) và cao hơn nhiều so với mức bình quân của các nước Châu á. Biểu 3: Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2001 của trang trại Đơn vị: triệu đồng Tỉnh, thành phố Số t.t Tổng thu Giá trị hàng hoá và dịch vụ bán ra Tỉ suất giá trị hàng hóa(%) Giá trị hàng hoá và dvụ bình quân 1 t.T Thu nhập Thu nhập bình quân 1 t.t Cả nước 60757 5.306.992 4.965.894 92,6 81.7 1.905.849 31.4 ĐB SH 1829 260.393 246.084 94,5 134.5 85.782 46.9 Hà Nội 139 28.755 27.699 199.3 10.264 73.8 Hải Phòng 344 81.677 79.372 230.7 26.185 76.1 Vĩnh Phúc 124 6.984 6.374 51.4 3.414 27.5 Hà Tây 181 26.123 24.173 133.6 6.642 36.7 Bắc Ninh 33 5.040 4.351 131.8 1.333 40.4 Hải Dương 171 12.894 11.992 70.1 5.165 30.2 Hưng Yên 59 12.290 10.879 184.4 2.310 39.2 Hà Nam 39 3.580 3.322 85.2 1.685 43.2 Nam Định 344 50.714 49.437 143.7 18.903 55 Thái Bình 101 19.016 16.178 160.2 4.780 47.3 Ninh Bình 294 13.320 12.307 41.9 5.101 17.4 Đông Bắc 2987 149.741 128.008 75,5 42.8 79.986 26.8 Tây Bắc 134 8.418 6.924 82,2 51.7 3.872 27.9 BTB 3026 186.671 166.382 89,1 55 76.785 25.4 D.Hải NTB 2910 388.499 376.856 97 129.5 125.241 43.1 Tây Nguyên 6029 465.347 426.432 91,6 70.7 143.099 23.7 ĐNB 12700 1.249.836 1.191.153 95,3 93.8 461.253 36.3 ĐB SCL 31142 2.652.087 2.242.055 92,3 72 929.831 29.9 Nguồn: Thống kê các ngành sản xuất năm 2001, NXB Thống kê. (Cột thứ năm là tính toán của tác giả). Số trang trại của vùng Đồng bằng Sông Hồng chỉ chiếm 3,01% tổng số trang trại của cả nước nhưng hiệu quả lại cao hơn. Tổng thu nhập của trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ chi phí vật chất, trừ tiền công thuê lao động và trừ các chi phí khác. Như vậy phần thu nhập của trang trại bao hàm : tiền công của chủ trang trại (tiền công quản lý và tiền công lao động trực tiếp), tiền công của các thành viên và tiền lãi ròng của các trang trại. Đây là một chỉ tiêu phù hợp, vừa phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh vừa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của trang trại. Xem biểu 1 có thể thấy rằng thu nhập bình quân 1 trang trại của vùng Đồng bằng Sông Hồng là cao nhất cả nước (46,9 triệu đồng/trang trại/năm, cao hơn mức trung bình chung 1,49 lần và bỏ xa những vùng khác (trừ duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ) từ 17-23 triệu/trang trại). Thu nhập bình quân của một lao động trong trang trại đạt khá: 5,86 triệu đồng/năm, trong khi đó thu nhập trung bình của một người dân nông thôn là 1,17 triệu đồng/năm, tức là thu nhập của lao động trang trại cao hơn 5 lần. Tổng thu của 1.829 trang trại năm 2001 là 260.393 triệu đồng, chiếm 4,85% tổng thu cả nước từ kinh tế trang trại (trong khi diện tích trang trại của vùng chỉ bằng 3,01% diện tích trang trại cả nước), trong đó giá trị hàng hoá và dịch vụ bán ra là 246.048 triệu đồng, đạt mức tỉ suất giá trị hàng hoá là 94,5%, cao hơn mức trung bình của cả nước 1,02 lần và chỉ đứng sau vùng Đông Nam Bộ (95,3%). Nhờ thu nhập trang trại tương đối cao nên chi tiêu cho đời sống vật chất và tinh thần của trang trại tương đối cao so với nông dân trong vùng. Cơ cấu trang trại được thể hiện trong biểu 4. Biểu 4: Cơ cấu trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng năm 2001 Loại trang trại Số lượng (T.T) Tỉ trọng (%) Tổng số 1.829 100,0 -Số trang trại trồng cây hàng năm 183 10,0 -Số trang trại trồng cây lâu năm 288 15,7 -Số trang trại chăn nuôi 153 8,4 -Số trang trại lâm nghiệp 41 2,2 -Số trang trại nuôi trồng thuỷ sản 1.028 56,2 -Số trang trại kinh doanh tổng hợp 136 7,4 Nguồn: Số liệu thống kê và kết quả điều tra nông thôn nông nghiệp - thuỷ sản năm 2001. Các trang trại chăn nuôi phát triển mạnh mẽ và là một thế mạnh của vùng tuy nhiên số lượng không phải là lớn nhất, trong đó chăn nuôi gia súc nhỏ và gia cầm chiếm ưu thế vì các loại này không đòi hỏi đất nhiều, thậm chí bắt đầu xuất hiện hình thức các hộ nông dân chăn nuôi gia công theo mô hình kinh tế trang trại. Trang trại trại chăn nuôi đã hình thành ở tất cả các ngành sản xuất sản phẩm chăn nuôi hàng hoá: thịt lợn, thịt gia cầm, thịt trâu bò, một số mặt hàng đặc sản... Trang trại chăn nuôi thường có quy mô vừa và nhỏ, chẳng hạn, với gà: 1000 - 5000 con; lợn: 50 - 100 con; 300 - 500 con; các trang trại chăn nuôi đặc sản, sử dụng từ 500 - 1000 m2 nhưng đầu tư nhiều vốn và chất xám tạo thu nhập cao. Đây là một ngành chăn nuôi chú trọng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm và có rất nhiều tiềm năng phát triển. Trong cơ cấu trang trại năm 2001, có thể nhận dễ dàng nhận thấy ưu thế của các trang trại nuôi trồng thuỷ sản. Sau hai năm mà số lượng trang trại này đã tăng lên gần 2 lần, chiếm tới quá nửa số trang trại của Đồng bằng Sông Hồng trong năm 2001, chứng tỏ sức khai thác mạnh mẽ tiềm năng thuỷ sản của vùng. Trong khi đó số trang trại lâm nghiệp và trang trại kinh doanh tổng hợp lại giảm xuống chứng tỏ các trang trại đã đi theo hướng chuyên sâu và có hiệu quả. Sản phẩm của các trang trại không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong vùng mà đó còn là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, đem lại giá trị hàng hoá cao, dần đạt tới mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp của vùng. Sự gia tăng giá trị sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại trực tiếp tác động đến sự gia tăng giá trị của cả ngành sản xuất nông nghiệp và do đó đóng góp vào tăng trưởng của cả nền kinh tế nói chung. Nhờ trang trại, giá trị sản xuất hàng hoá của ngành nông nghiệp được cải thiện. Năm 2001, giá trị sản xuất của toàn ngành nông – lâm – ngư nghiệp (giá cố định 1994) vùng Đồng bằng Sông Hồng đạt 22.893,33 tỉ đồng, thì phần đóng góp của kinh tế trang trại là 260,393 tỉ (1,13%). Trong bối cảnh nông nghiệp nước ta đang tích cực chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng cho phù hợp với những nhu cầu của thị trường và cải thiện cuộc sống dân cư, thì các sản phẩm của trang trại cũng là một nhân tố tích cực, tuy sự đóng góp chưa nhiều lắm. Nhưng có thể nói rằng, nhờ tính chất sản xuất hàng hoá, các trang trại đã tự chọn lọc hướng đi thích hợp, không kể những trang trại tiến hành sản xuất kinh doanh theo đúng quy hoạch của nhà nước có gắn liền với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu, mà nông nghiệp vung Đồng bằng Sông Hồng đã dần dần có những sự chuyển biến tích cực: tỉ lệ trồng trọt giảm xuống, chăn nuôi tăng dần, năng suất ngày càng cao. Các loại giống có chất lượng cao ngày càng được đưa vào sản xuất đại trà (lúa, ngô, lợn nạc, cây công nghiệp, rau xanh...) Tuy nhiên để có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa thì bản thân hoạt động sản xuất tự phát của các chủ trang trại không làm được, mà cần có quy hoạch lâu dài trên diện rộng, chủ trương và các phương án khả thi của nhà nước. Có thể nói, kinh tế trang trại là bước phát triển mới của kinh tế hộ gắn với mục tiêu sản xuất hàng hoá quy mô lớn, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng nhanh tỉ trọng hàng hoá tạo ra các vùng sản xuất tập trung, làm tiền đề cho công nghiệp chế biến nông lâm sản, đưa công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ vào nông thôn, tăng độ phủ xanh đất trống đồi trọc, cải thiện môi trường sinh thái. II. Đánh giá tình hình sử dụng các yếu tố nguồn lực 1. Đất đai Bởi đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu của trang trại nên kinh tế trang trại trước hết được phát triển ở các vùng trung du, miền núi, ven biển, những nơi mà quỹ đất có khả năng khai phá còn lớn để phát triển kinh tế nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá lớn. Vùng Đồng bằng Sông Hồng là vùng hạn chế về đất sản xuất nông nghiệp do nhu cầu phát triển công nghiệp ngày càng tăng mạnh. Hiện nay, vùng mới sử dụng khoảng gần 90% quỹ đất, phần còn lại vì nhiều lý do mà chưa được đưa vào sử dụng. Qua biểu 2 có thể thấy, cơ cấu sử dụng đất đai trong các trang trại nghiêng hẳn về mảng nuôi trồng thuỷ sản (63%), trong đó Hải Phòng 88%%, Nam Định 96%; đất cho ncác tỉnh có quỹ đất lớn để phát triển kinh tế trang trại là Hải Phòng (4.508 ha), Ninh Bình (2.284 ha), Vĩnh Phúc (1.428 ha), Nam Định (2.377 ha), Hải Dương (1.579 ha). Biểu 5: Đất nông nghiệp, lâm nghiệp, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của trang trại năm 2001 Đơn vị: ha vùng Tổng diện tích đất nn Lâm nghiệp Nuôi trồng thuỷ sản Cả nước 369.567 233.814 69.295 66.458 ĐBSH 15.808 3.209 2.735 10.044 Hà Nội 885 99 146 640 Hải Phòng 4.508 381 169 3.958 Vĩnh Phúc 1.428 469 505 454 Hà Tây 1.715 466 427 822 Bắc Ninh 204 54 0 150 Hải Dương 1.579 545 980 54 Hưng Yên 94 29 0 65 Hà Nam 333 115 64 154 Nam Định 2.377 72 10 2.295 Thái Bình 581 65 6 510 Ninh Bình 2.284 914 428 942 Nguồn: Báo cáo chuyên đề: Chính sách phát triển kinh tế trang trại và tác động của nó đến việc làm và thu nhập của lao động nông thôn, Viện Quy hoạch và Thiết kê nông nghiệp, 2002. Như vậy diện tích đất của các trang trại lâm nghiệp chiếm tỉ trọng nhỏ, chừng 17,1. Điều này thật dễ hiểu vì Đồng bằng Sông Hồng là vùng đồng bằng vốn ít rừng, chủ yếu chỉ là rừng ở một số miền đồi núi, rừng chắn gió, rừng ngập mặn… Phần diện tích dành cho chăn nuôi cũng không cần nhiều (chừng gần 300 ha) do đặc thù của ngành sản xuất. Tuy vậy vẫn còn một diện tích đáng kể đất chưa được giao, chưa sử dụng. Cho đến năm 2000, cả nước vẫn còn khoảng 30% số hộ làm kinh tế trang trại chưa được giao đất. Diện tích đất chưa sử dụng còn lớn (12%), trong đó có cả phần đất dành cho các hoạt động phi nông nghiệp như xây dựng nhà máy, cơ sở hạ tầng, nhà ở... nhưng dù sao trong điều kiện thiếu đất như hiện nay thì đó là một sự lãng phí đáng kể. Cơ cấu đất rất đa dạng, bao gồm đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất thổ cư, trong đó đất nuôi trồng thuỷ sản chiếm tới 52,3%. Phần đất lâm nghiệp chiếm 14,24% như vậy không phải là nhiều vì các trang trại lâm nghiệp thường đòi hỏi quy mô lớn. Nhìn chung các tỉnh vùng Đồng bằng Sông Hồng thường có xu hướng sản xuất lương thực, thực phẩm, chăn nuôi là chính. Quỹ đất giữa các nhóm chủ trang trại có sự chênh lệch nhau đáng kể. Phần lớn các trang trại chỉ có quy mô dưới 2 ha (51%); từ 2 – 5 ha: 29,6%; từ 5 – 10ha: 6,07%; 10 – 30 ha: 2,3%; Số lượng trang trại có trên 30 ha rất hạn chế (0,54%). Tuy nhiên, như những điều đã luận giải ở chương I, thực tế cho thấy với quy mô như hiện nay, các trang trại vẫn có rất nhiều tiềm năng để tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, giải quyết lao động dôi dư trong vùng. Có thể nói, hiện trạng sử dụng đất vùng Đồng bằng Sông Hồng đã gần ở mức tối đa và hướng khai thác ngày càng hợp lý hơn. Chỉ có điều, sau một thời gian dài khai thác, thâm canh không chú ý “bồi dưỡng” cho nguồn đất, mà ở nhiều nơi đất có hiện tượng bạc màu, bất lợi cho trồng trọt. Hơn nữa, nhu cầu phát triển công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng, làm nhà ở... càng ngày càng làm thu hẹp đi một phần lớn đất đai màu mỡ, làm hạn chế khả năng sản xuất nông nghiệp. Cho nên khai thác theo chiều sâu sẽ là hướng chính trong những năm tới đây. 2. Lao động Phần lớn các trang trại sử dụng lao động của gia đình là chính, một số có thuê thêm lao động thời vụ và lao động thường xuyên, tiên công thoả thuận giữa hai bên. Tiền công thời vụ thường dao động từ 10-15 ngàn đồng/ngày công; còn đối với lao động thường xuyên , khoảng 300000đ/tháng (chung cho cả miền Bắc)(3) Báo cáo tóm tắt Tình hình kinh tế trang trại nước ta những năm vừa qua và tổ chức triển khai nghị quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại”, Bộ Nng nghiệp&Phát triển nông thôn, 2000. Bình quân mỗi trang trại có khoảng 8 lao động gấp 1,33 lần mức trung bình cả nước, trong đó lao động của chủ trang trại bình quân là 2,4 người/trang trại xấp xỉ mức trung bình chung của cả nước (ĐB Sông Cửu Long là 3.1, trung bình cả nước là 2,5), lao động thuê mướn thường xuyên chiếm 29,2%. Các tỉnh có tỉ lệ này cao là Hải Phòng (31,9%), Vĩnh Phúc (35,6%), Hà Nam (51,4%),...; lao động thuê mướn thời vụ quy đổi chiếm 42,32%, bình quân mỗi trang trại khoảng 2,4 người. Như vậy, tổng số lao động tham gia sản xuất của trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng năm 2001 là 15.210 người, còn nhỏ bé so với hơn 8 triệu lao động nông nghiệp trong vùng. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là các mô hình kinh tế trang trại đã thu hút được một phần đáng kể lao động làm thuê, bao gồm lượng lao động thuê mướn thường xuyên (4.442 người) và lao động thời vụ (quy đổi ra là 6.438 người), như vậy trong năm 2001 các trang trại đã giải quyết việc làm cho khoảng 10.880 lao động nông thôn nhàn rỗi. Biểu 4:Tình hình sử dụng lao động của các trang trại Đơn vị: người Tỉnh, vùng Tổng số lđ tham gia sản xuất của trang trại Số LĐ bình quân một trang trại LĐ của hộ chủ trang trại LĐ của hộ chủ bình quân 1 trang trại Cả nước 374.701 6 168.634 2.5 ĐBSH 15.210 8 4.330 2.4 Hà Nội 1.134 8 375 2.7 Hải Phòng 3.488 10 766 2.2 Vĩnh Phúc 978 8 326 2.6 Hà Tây 1.704 9 485 2.7 Bắc Ninh 249 8 84 2.5 Hải Dương 1.469 9 433 2.5 Hưng Yên 411 7 147 2.5 Hà Nam 436 11 106 2.7 Nam Định 2.170 6 752 2.2 Thái Bình 1.414 14 223 2.2 Ninh Bình 1.757 6 633 2.2 Nguồn: Thống kê các ngành sản xuất năm 2001, NXB Thống kê. Biểu 5:Tình hình thuê mướn lao động của các trang trại năm 2001 Đơn vị: người Tỉnh, vùng LĐ thuê mướn thường xuyên LĐ thuê mướn thường xuyên BQ 1 TT LĐ thuê mướn thời vụ quy đổi LĐ thuê mướn thời vụ quy đổi 1TT Cả nước 60.880 1 145.187 2.4 ĐBSH 4.442 2 6.438 3.5 Hà Nội 385 3 374 2.7 Hải Phòng 1.113 3 1.609 4.7 Vĩnh Phúc 348 3 304 2.5 Hà Tây 529 3 690 3.8 Bắc Ninh 37 1 128 3.9 Hải Dương 420 2 616 3.6 Hưng Yên 140 2 124 2.1 Hà Nam 178 5 152 3.9 Nam Định 695 2 723 2.1 Thái Bình 410 4 781 7.7 Ninh Bình 187 1 937 3.2 Nguồn: Thống kê các ngành sản xuất năm 2001, NXB Thống kê. Trình độ của lao động trong các trang trại nhìn chung còn thấp. Lớp học cao nhất cho 1 người ở vùng Đồng bằng Sông Hồng là 3,9; riêng khu vực nông thôn là 3,8 (cao nhất cả nước). Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất kinh doanh hiện đại. Ngoài một số ít lao động chuyên môn làm các công việc như vận hành máy móc thiết bị, còn lại đại bộ phận là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, chỉ có khả năng đảm nhận những công việc đơn giản như làm đất, trồng cây, chăn dắt gia súc, gia cầm... Về trình độ quản lý: 100% các chủ trang trại hiện nay tự quản lý trực tiếp trang trại của mình. Một vài đặc trưng: Có ý chí, quyết tâm làm giàu từ nông nghiệp Có kinh nghiệm, tri thức, năng lực Có hiểu biết về loại cây, con định kinh doanh Nhanhnhạy với các thông tin và công nghệ Xuất xứ của chủ trang trại từ 7 nguồn chính: Nông dân Công chức đương nhiệm Cán bộ xã Công nhân đang làm việc Bộ đội, công an về địa phương Cán bộ, công nhân hưu trí Thành phần khác. Tuy nhiên, đại bộ phận các chủ trang trại xuất phát từ tầng lớp nông dân, mới thoát ra từ sự thụ động của cơ chế bao cấp trong các hợp tác xã kiểu cũ và bước đầu làm chủ kinh tế nông hộ là một điều còn mới mẻ, nên còn nhiều bỡ ngỡ, còn mang dấu ấn nặng nề của kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc,nghiệp vụ và bản lĩnh kinh doanh còn rất bất cập trước yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá, đặt mình trong cơ chế thị trường, trong nhiều trường hợp vẫn chưa quen hẳn với phương thức sản xuất và quản lý hiện đại. Theo điều tra, chỉ có 31,8% số chủ trang trại được đào tạo từ sơ cấp trở lên, số có trình độ đại học chỉ chiếm 5,6%. Điều này không những hạn chế sự sáng tạo mà còn ảnh hưởng đến việc ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất của trang trại. 3. Vốn Vốn bình quân một trang trại của vùng Đồng bằng Sông Hồng khá cao, chủ yếu là vốn tự có. Lượng vốn đầu tư bình quân cho một trang trại năm 2001 là 190,2 triệu đồng, bằng 1,39 lần mức trung bình chung của cả nước, cao thứ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0009.doc
Tài liệu liên quan