Đề tài Vai trò của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trong quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ nghĩa Mác-Lênin, tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Aí Quốc

đợc giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận nh “ngời

đi đờng đang khát mà cò nớc uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi

cuốn những ngời yêu nớc Việt Nam đi theo con đờng cách mạng

vô sản, làm dấy lên phong cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp

cả nớc, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lợng chính trị

độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng

lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, ý thức giác ngộ chính trị của công

nhân ngáy càng cao. Những nhóm cộng sản bí mật đã bắt đầu xuất

hiện trong các xí nghiệp công nghiệp ở các thành phố lớn đòi hỏi phải

có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.

 

pdf14 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/02/2022 | Lượt xem: 402 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trong quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hành hoá của chính quốc. Chính sách “khai hoá văn minh”, “khai hoá và cải tạo theo kiểu phương Tây” của bọn thực dân Pháp được Hồ Chí Minh vạch rõ: “Khi người ta là một nhà khai hoá thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là văn minh nhất” và nếu dân bản xứ không nhịn nhục chịu đựng mà đứng dậy đấu trnh thì các nhà khai hoá sẽ đưa quân đội, súng liên thanh và tàu chiến đến. Trên tất cả mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hoá tư tưởng chúng đều tìm mọi cách kìm hãm sự phát triển của dân tộc ta. 1. Tình hình chính trị Thực dân Pháp ra sức thi hành chính sách “chia để trị”; chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, bên cạnh đó là một hệ thống chính quyền tay sai bù nhìn người Việt: chúng lập ra những đội quân thuộc địa người ngoại quốc và những đội lính cơ giới người Việt, những toà án Tây và toà án Nam, nhiều nhà tù để đàn áp 3các cuộc nổi dậy. Chúng thi hành chính sách cai trị chuyên chế, thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc tôn giáo.làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào đấu tranh của nhân dân đều bị chúng đàn áp dã man. 2. Tình hình kinh tế Trong thời kỳ này thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào để bóc lột nhân dân ta, thu lợi nhuận tối đa, thẳng tay cướp đoạt và bần cùng hoá nông dân, chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên, nắm các mạch máu kinh tế ở Việt Nam, nắm độc quyền trong công nghiệp khai lhoáng và công nghiệp chế rượu, kìm hãm công nghiệp nặng, hạn chế công nghiệp nhẹ, độc chiếm thị trường Việt Nam, tăng cường cho vay nặng lãi; đồng hoá lãnh thổ kinh tế Việt Nam vào trong toàn bộ lãnh thổ của đế quốc Pháp và biến Việt Nam thành khâu khăng khít trong sợi dây chuyền của kinh tế thế giới Tư bản chủ nghĩa. Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, quá trình tập trung hoá ruộng đất diễn ra với quy mô lớn và tốc độ nhanh hơn trước. Chúng đã trắng trợn cướp đoạt ruộng đất của nông dân để lập ra các đồn điền trồng cao su, cà phê,và bắt dân ta lao động không công cho chúng hoặc thuê với giá rất rẻ mạt. Không những thế, thực dân Pháp còn tạo điều kiện để bọn địa chủ tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Ngoài ra bọn chúng còn đặt ra nhiều thứ thuế vô lý bắt nhân dân phải đóng. Bọn thực dân và địa chủ đã kìm hãm nông nghiệp Việt Nam trong vòng lạc hậu để làm lợi cho chúng: thực dân Pháp chưa bao giờ đặt vấn đề kĩ nghệ hoá nông nghiệp ở Việt Nam nên công cụ lao động sản xuất rất thô sơ. Thiên tai xảy ra liên miên, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Chúng còn duy trì lối bóc lột phong kiến, kết hợp với lối cướp bóc của đế quốc (đây là đặc điểm của phương pháp bóc lột thuộc địa), làm nông dân phá sản, kìm hãm sản xuất. Vì muốn biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp ế thừa của Pháp, nên chúng đã ra sức kìm hãm sự phát triển của công nghiệp nước ta. Do sự kìm hãm đó nên công nghiệp Việt Nam rất nhỏ bé,què quặt. Điều đó thể hiện rõ rệt ở chỗ trong hoạt động công nghiệp, thực dân Pháp chỉ chú trọng vào việc khai thác mỏ mà không hề quan tâm đến những ngành nghề khác. Không chỉ trên lĩnh vực công nghiệp mà trên tất cả mọi phương diện kinh tế, thực dân Pháp đều tìm mọi cách đưa nước ta vào trong quỹ đạo phát triển của Chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực dân và biến chuyển theo quá trình ấy. 3. Tình hình văn hoá - xã hội 4 Từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch, vong bản, tự ti, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng. Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn: mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội Việt Nam phong kiến cũ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến không mất đi, mà vẫn tiếp tục tồn tại, tuy không còn hoàn toàn giống như trước. Bên cạch mâu thuẫn này, xuất hiện mâu thuẫn mới bao trùm lên tát cả, đó là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc thực dân Pháp. Mâu thuẫn này ngày càng mở rộng và gay gắt hơn. Hai mâu thuẫn đó quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược vừa là mâu thuẫn cơ bản đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam ￿ một xã hội thuộc địa của Pháp. Vì vậy, nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn kiền với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đò là yêu cầu của Cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quyết. Phần II Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài gian khổ ác liệt, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường bất khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng. ở khắp nơi trong nước, nhân dân ta đã tham gia đấu tranh dưới ngọn cờ cảu các sĩ phu yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Từ những phong trào tự phát đến những phong trào có tổ chức, lãnh đạo, các phong trào diễn ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy rằng các phong trào đều bị đàn áp dã man nên đã bị thất bại nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa đó đã để lại tiếng vang lớn, gây cho địch nỗi hoang mang lo sợ. 1. Phong trào Cần Vương 5Sau khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam với hoà ước 1884, cuộc đầu tranh của nhân dân Việt Nam chống xâm lược đã chuyển qua một giai đoạn mới. Mở đầu là cuộc tấn công trại lính Pháp mằn cạnh kinh thành Huế, dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa nhà vua yêu nước trẻ tuổi Hàm Nghi. Bị thất bại, Tôn Thát Thuyết đã phò vua Hàm Nghi lánh vào vùng rừng núi, thảo chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu văn thân cùng toàn dân tiếp tục chiến đấu. Từ đó phong trào Cần Vương đã phát triển trong nhiều địa phương ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, cho đến những năm cuối của thế kỷ XIX. Trong phong trào Cần Vương, các thủ lĩnh sĩ phu văn thân, liên kết với các thổ hào địa phương, đã tập hợp đông đảo quần chúng nông dân trong vùng, dùng vũ khí thô sơ nổi dậy chống lại cuộc bình định của thực dân Pháp. Các sĩ phu muốn khôi phục một vương triều phong kiến có chủ quyền, các thổ hào muốn dành lại những thế lực bị tước đoạt, nông dân chống lại sự bóc lột thuế má và cướp đoạt ruộng đất, tất cả gắn bó lại trên danh nghĩa của một phong trào yêu nước chống xâm lược mang tính chất truyền thống. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương đẫ thất bại vì rời rạc, lẻ tẻ, thiếu sự chỉ huy thống nhất. 2. Phong trào dân tộc - dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu nước. 2.1 Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam và những ảnh hưởng của tác động bên ngoài. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, trước những chính sách cai trị của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội truền thống Vệt Nam biến đổi. Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ yếu là trong các công trường và hầm mỏ) hình thành. ở đô thị xuất hiện một tầng lớp công thương và tiểu tư sản thành thị. Tầng lớp sĩ phu nho học bên cạch đọc các kinh sách nho giáo, các nho sĩ này cũng đã đọc ngững cuốn sách mới của các tác giả châu Âu và Trung Quốc. Vì vậy phong trào cải cách chính trị ￿ văn hoá ở Trung Quốc, cùng với những tư tưởng cách mạng Pháp được dịch qua chữ Hán đã tác động vào Việt Nam. Giới sĩ phu lúc này thấy được thế suy tàn của các chế độ phong kiến châu á và sự cần thiết phải cải cách xã hội. 2.2. Trào lưu dân tộc chủ nghĩa Những nhận thức chính trị đó đã làm nảy sinh một khuynh hướng chính trị mới: trào lưu dân tộc chủ nghĩa. Trào lưu chính trị này kế tục phong trào Cần Vương yêu nước chống Pháp nhưng đồng thời đã mang nhiều nét mới khác trước. Tầng lớp khởi xướng trào lưu này là những sĩ phu yêu nước tiến bộ. Lòng yêu nước của họ không còn bám giữ vào 6những tư tưởng “trung quân” mà đã chuyển sang ý thức về một chủ nghĩa quốc gia ￿ dân tộc, vì lợi ích chung của nhiều triệu đồng bào trong cả nứơc. Những sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam lúc bấy giờ cho rằng, muốn đánh đuổi thực dân Pháp, không thể chỉ hạn chế trong những hình thức khởi nghĩa vũ trang như trước đây, mà còn phải kết hợp cả với nhiều biện pháp mới về chính trị, ngoại giao, tiến hánh một phong trào cải cách xã hội sâu rộng trong đông đảo quần chúng nhân dân. Hai gương mặt nổi bật cho trào lưu dân tộc dân chủ là các nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh Phan Bội Châu là một sĩ phu sớm có lòng yêu nước, chủ trương vận động quâng chúng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngaòi, tổ chức bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, xây dựng nền chế độ chính trị dựa vào dân. Ông đã lập hội Duy Tân, vượt biển sang Nhật mưu cầu ngoại viên, tổ chức phong trào Đông Du đưa các thanh thiếu niên Việt Nam sang học ở Nhật để chuẩn bị lực lượng chống Pháp và dùng văn thơ yêu nước để thức tỉnh quốc dân . Cuộc vận động Đông du chỉ diễn ra được mấy năm và đã bị thực dân Pháp bóp chết . Những du học sinh Việt Nam bị trục xuất ra khỏi Nhật và cả cụ Phan cũng phải rời khỏi đất nước này.Sau cách mạng Tân Hợi, ông lưu lạc ở Trung Quốc, lại lập ra tổ chức Việt Nam Quang Phục hội, chuẩn bị đưa quân về nước khỏi nghĩa, nhưng cũng không tránh khỏi bị thât bại.Phan Bội Châu là một người anh hùng đầy nhiệt huyết nhưng không gặp thời thế. Phan Châu Trinh gần đồng thời với Phan Bội Châu, là một sĩ phu ở Quảng Nam đã giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội. Ông đã từng bôn ba ở nhiều nước, sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, chủ trương cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Ông vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát, đòi Pháp phải sửa đổi chính sách cai trị ở thuộc địa. Chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng dan chủ của Phan Châu Trinh, nhiều phong trào cải cách xã hội lúc đó đã nổi lên như việc thành lập nhà trường kiểu mới Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, phong trào Duy Tân. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh thể hiện một tinh thần dân tộc yêu nước sâu sắc, nhưng chủ trương dùng cải cách để cứu nước của ông có phần không hợp thời thế. 2.3. Phong trào đấu tranh của quần chúng công, nông, binh: Các phong trào chính trị của giới sĩ phu đã có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến phong trào đấu tranh của quần chúng công nông binh trong thời kỳ này. ở đây những cuộc đấu tranh so với phong trào của giới sĩ phu thường là thiếu đường lối, tổ chức nhưng lại đông đảo, quyết liệt hơn. Năm 1908, do ảnh hưởng của những tư tưởng cải cách 7của Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân hô hào đời sống mới, một phong trào chống sưu thuế của nông dân đã lan rộng ra ở nhiều tỉnh. Hàng ngàn nông dân nổi dậy biểu tình, bao vây huyện lị đòi giảm sưu thuế. Đáng chú ý là khởi nghĩa của nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, họ đã liên lạc với tổ chức yêu nước của Phan Bội Châu trong một kế hoạch tấn công vào Hà Nội. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời, số lượng còn ít nhưng bước đầu đã tham gia đấu tranh, điển hình có những cuộc bãi công bạo động của công nhân các công trường đường sắt(Yên Bái), học sinh trường Bách Nghệ (Sài Gòn) và một số công nhân tàu biển. Ngoài ra còn có những cuộc bạo động khởi nghĩa chống Pháp của dân tộc ít người. Ngoài tầng lớp sĩ phu và quần chúng công nông, đầu thế kỷ XX còn có một lực lượng xã hộ mới tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp. Đó là các binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Do thực hiện chính sách dùng người Việt để trị người Việt nên qua những cuộc càn quét những binh lính Việt đã thấy được tận mắt nhữnh tội ác của giặc, lòng căm thù giặc được khơi dậy. Hơn nữa do sự đối xử của thực dân Pháp đối với họ là khinh miệt, bạc đãi nên đã dẫn tới việc họ nổi dậy bạo động khởi nghĩa. Những phong trào dân tộc ￿ dân chủ chống Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX do những sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo, được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tham gia, tuy không thành công nhưng đã có tiếng vang lớn. Đó là những bước đi ban đầu để tìm ra một con đường mới, dúng đắn trong cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội. Phần III Qúa trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Từ đầu thế kỷ XX trở đi, song song với sự phát triển của phong trào yêu nước và dân chủ theo kiểu tư sản, phong trào công nhân chống lại chế độ bọc lột của bọn địa chủ và thực dân Pháp đã lần lượt diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi công, biểu tình. Tuy nhiên trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, do nhiều nguyên nhân những phong trào này cuối cùng đều không thành công. Nhưng nguyên nhân cơ bản đó lá những người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu 8nước đúng đắn phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hộ Việt Nam. Cách mạng nước ta đang đướng trước cuộc khủng hoảng về đường lối. 1. Nguyễn Aí Quốc ra đi tìm đường cứu nước Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang trong đêm tối chưa tìm được lối ra, Nguyễn ái Quốc với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc từ tháng 6 năm 1911 đi sang phương Tây, nơi mà Người cho là có tư tưởng tự do, đan chủ và khoa học kỹ thuật phát triển để xem họ làm như thế nào, học tập họ rồi trở về giúp đồng bào mình cởi bỏ xiềng xích nô lệ. Trên con đường bôn ba khắp năm châu, bốn bể, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp Đòng thời Người tìm mọi cách tham dự tất cả các cuộc mít tinh, hội họp do Đảng xã hội Pháp ￿ một đảng duy nhất trong số các đảng ở Pháp đấu tranh bảo vệ các dân tộc thuộc địa. Đến cuối năm 1918, một biến chuyển quan trọng đã diễn ra trong cuộc đời của Nguyễn ái Quốc: Người tham gia Đảng xã hội Pháp. Người là người Việt Nam đầu tiên tham gia một đảng chính trị của “mẫu quốc”. Trong quá trình tham gia hoạt động Đảng và nghien cứu về cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, Nguyễn ái Quốc đã tập hợp được nhiều bài học quý về lực lượng cách mạng, về tổ chức, về tinh thần, ý chí cách mạng và đặc biệt là bài học về con đường cách mạng. Người vạch rõ:” Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi,tiếng là công hoà và dân chủ, nhưng kỳ thực trong thì nó tước lực công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. ”Chúng ta dã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đén nơi nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho đan chúng số nhiềuThế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thì dân chúng mới được hạnh phúc”. Giữa tháng giêng năm 1919, Pa-ri long trọng tổ chức hội nghị hoà bình. Giới cầm quyền các cường quốc thắng trận muốn “tổng kết” chiến tranh càng nhanh càng tốt, hay nói cách khác muốn giàu lên baừng cách bóc lột các nước bại trận. Nguyễn ái Quốc đã gửi đén hội nghị một bản tài liệu có tên là “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi chính phủ Pháp công nhận các quyền tự do dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đó không được hội nghị quan tâm đến. Từ thực tế đó người ra một kết luận quan trọng : tự do bình đẳng bác áinhững chữ tốt đẹp đó chẳng qua chỉ là màn khói để giai cấp tư sản che đậy những tội ác của chúng. Những bản tuyên ngôn mà bọn đế quốc tung ra bừa bãi trong những năm chiến tranh để làm bia đỡ đạn cho chúng hoá ra chỉ là một trò bịp bợm. Chẳng bao giờ cầu 9xin được công lý ở bọn đế quốc. Vậy thì lối thoát ở đâu ? Chỉ ở trong đấu tranh, đấu tranh một mất, một còn. Để giải phóng mình nhân dân các dân tộc thuộc địa phải lât đổ ách thông trị của bọn áp bức. Cách mang là trận đánh quyết liệt, nhờ nó mà thành luỹ thực dân tưởng như bất khả xâm phạm cũng có thể bị hạ. “Bản yêu sách” đã trở thành một tuyên ngôn chính trị báo hiệu sự mở đầu của giai đoạn mới trong việc phát triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Trong những ngày đang hoạt động sôi nổi lựa chọn con đường cách mạng của Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ và thắng lợi, làm chấn động toàn cầu. Sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng đối với phong trào giải phóng dan tộc của các nước thuộc địa trên thế giới. Nhờ có Cách mạng thámh Mười Nga, phong tràogiải phóng dân tộc ở các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản đế quốc phương Tây đã có sự gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn ái Quốc đã hướng đến con đường Cách mạng tháng Mười và chú tâm tìm hiểu tư tưởng đường lối của cuộc cách mạng đó. Và bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn Sơ khảo lần thứ nhất những kuận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin đăng trên báo “Nhân đạo”. Đay là tác phẩm đầu tiên của Lê-nin mà Nguyễn ái Quốc được làm quen. Người đọc đi đọc lại một số câu, cố gắng hiểu sâu hơn nữa bản chất những tư tưởng của Lê-nin và Người rưng rưng nước mắt, hân hoan vô cùng. Người nói to lên như đang đướng trước quần chúng đông đảo:” Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Bản đề cương đó đã chỉ rõ cho Người “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khấc là con đường cách mạng vô sản”. Từ đây, Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lê-nin, con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của Người. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam. Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lênin, tìm ra con đường đúng đán giải phóng dân tộc. 2. Con đường "cách mệnh” Nguyễn ái Quốc. Sau khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã tham gia hoạt đọng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích 10 cực vận đọng phong trào cách mạng thuọcc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác ￿ Lenin vè Việt Nam qua các báo ‘Ngươig cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân” và sau này là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”(1925) của Người. Tháng 12 năm 1924, Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên. Và đặc biệt là đầu năm 1927, tác phẩm “Đường cách mệnh” được Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản. Tác phẩm này là sự tiếp theo một cách lô- gíc cuốn “Bản án chhế độ thực dân Pháp”. “Đường cách mệnh” đã vạch ra con đường cụ thể để giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ ra rằng: để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh, những nhà cách mệnh Việt Nam phải giải quyết ngay hai nhiệm vụ cơ bản: nắm vững học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập đội tiên phong tức là Đảng cách mạng. “Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thf liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng có vững thì phải có chủ nghĩa làm nồng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải tuân theo chủ nghĩa âýy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn. tàu không có bàn chỉ nam”. Nguyễn ái Quốc đã trình bày một cách \sáng tạo những nguyên lý cơ bản của học thuyết Lê- nin áp dụng vào những điều kiện cụ thể của nước Việt Nam thuộc địa. Nguyễn ái Quốc chỉ ra rằng Việt Nam đang đứng ở ngưỡng của cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng này phải là một giai đoạn chuyển tiếp để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này là lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống bọn thực dân và Đảng phải kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa yêu nước. Theo Nguyễn ái Quốc,lực lượng cơ bản của cách mạng Việt Nam sau này là giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Luận điểm quan trọng này được Nguyễn ái Quốc trình bày ngay từ buổi đầu của cuộc cách mạnggiải phóng dân tộc và về sau trở thành luận điểm chủ đạo, luận diểm quyết định trong hoạt động của Nguyễn ái Quốc và các đồng chí của Người. Tác giả “Đường cách mệnh” cũng phát triển hơn nữa tư tưởng của mình và cho rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính không thể tách rời chủ nghĩa Quốc tế vô sản. Vì vậy, nhiệm vụ quốc tế quan trọng nhất 11 của các nhà cách mạng Việt Nam là chăm chú nghiên cứu Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Con đường của cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phải liên minh với giai cấp vô sản cách mạng chính quốc. Thống nhất và gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược. “Cách mạng Việt Nam là bộ phận hợp thành của cách mạng thề giới. Tất cả các nhà cách mạng đều là bạn của nhân dân Việt Nam”. Nói tóm lại, hệ thóng quan điểm và lý luận về con đường cách mạng của Nguyễn ái Quốc là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Lê-nin, nó được truyền vào Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX đã trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam hình thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam. 3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ nghĩa Mác-Lênin, tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Aí Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà cò nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên phong cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, ý thức giác ngộ chính trị của công nhân ngáy càng cao. Những nhóm cộng sản bí mật đã bắt đầu xuất hiện trong các xí nghiệp công nghiệp ở các thành phố lớn đòi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo. Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập: ở Nam Kỳ là An Nam Cộng sản Đảng, ở Bắc Kỳ là Đông Dương Cộng sản Đảng, ở Trung Kỳ là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ngay từ khi thành lập, giữa các tổ chức đó đã xảy ra xích mích, bởi vì, mỗi tổ chức đều có ý muốn đóng vai trò Đảng Cộng sản duy nhất ở trong vước. Những cuộc xung đột nghiêm trọng giữa hai tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã xảy ra. Mối quan hệ giữa các tổ chức Đảng không bình thường lại không có một cương lĩnh hành động thống nhất làm các Đảng mất hết tính chiến đấu và không thể hoạt động có kết quả trong quần chúng. Vì vậy yêu cầu bức thiết của Cách mạng là cần có một Đảng duy nhất lãnh đạo. Nguyễn ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất 12 có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 đã nhất trí thành lập Đảng duy nhất , lấy tên là Đảng Cộng sản Vệt Nam. Các đại biểu tán thành chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng, vạch kế hoạch thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc soạn thảo là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, nhuẫn nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc. Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này. Đảng lấy lý tưởng chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lờn trong lịch sử cách mạng Việt Nam và đó là một kết quả tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh dân tộc và giải phóng giai cấp. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp lý luận Mác-Lênin với phong trào cách mạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_vai_tro_cua_lanh_tu_nguyen_ai_quoc_trong_qua_trinh_th.pdf
Tài liệu liên quan