MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I : VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Khái niệm NHTW
2. Chức năng, nhiệm vụ của NHTW trong nền kinh tế thị trường
2.1. NHNN là Ngân hàng phát hành
2.2. Ngân hàng của Chính Phủ
2.3. Ngân hàng của các Ngân hàng
2.4. NHTW và việc thực hiện chính sách tiền tệ
CHƯƠNG II: NHNN VIỆT NAM TRONG SỰ CHUYỂN ĐỔI TỪ NỀN KINH TẾ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC.
1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu trong nền kinh tế chuyển tiếp.
2. Vai trò của khu vực Ngân hàng.
3. Việt Nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống Ngân hàng
CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỦNG CỐ VÀ HỖ TRỢ VAI TRÒ CỦA NHTW TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1. Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của NHTW.
2. Một số giải pháp khắc phục
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5872 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g không thể bắt các ngân hàng phải đi vay. Hơn nữa các nghiệp vụ thị trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại hơn là đảo ngược những thay đổi trong chính sách chiết khấu, việc can thiệp vào thị trường mở sẽ được ưa chuộng hơn kỹ thuật tái chiết khấu vì nó mềm dẻo hơn.
Đối với các nghiệp vụ tái chiết khấu, chính các NHTW đóng vai trò bị động, do phải đáp ứng nhu cầu hàng ngày của NHTW. Trong hệ thống thị trường mở, NHTW đóng vai trò chủ động bởi vì chính NHTW yêu cầu vốn khả dụng cho thị trường tiền tệ. Phương thức thị trường mở không chỉ cung cấp vốn khả dụng cho các NHTM trên thị trường tiền tệ mà còn rút vốn khả dụng ra khỏi thị trường tiền tệ. Điều đó giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng ngân hàng và lãi suất trên thị trường.
Cũng cần phải nói thêm rằng, tuy hai công cụ trên đều có những mặt ưu nhược điểm riêng nhưng chúng đều có mục đích là đảm bảo tái cấp vốn của NHTW cho NHTM.
Ngoài hai công cụ trên, NHTW còn sử dụng công cụ là quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Rd)
+ Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tối thiểu giữa dự trữ tiền mặt với các khoản ký gửi mà NHTW yêu cầu NHTM phải duy trì.
Khoản dự trữ bắt buộc là khoản tiền dự trữ cần thiết để NHTM có thể ứng phó với những luồng tiền mặt rút ra bất ngờ.
Nếu một khoản dự trữ bất buộc đang có hiệu lực, các NHTM có thể giữ lượng tiền mặt cao hơn dự trữ tiền mặt theo yêu cầu nhưng không được giữ ít hơn. Nếu lượng tiền mặt của họ giảm xuống xuống thấp hơn lượng bắt buộc, họ phải vay tiền mặt ngay, thường là vay của NHTW để khôi phục lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Khi NHTW quy định một khoản dự trữ bắt buộc cao hơn tỷ lệ dự trữ mà các ngân hàng thận trọng phải duy trì trong bất kỳ tình hình nào thì hậu quả của nó là giảm bớt việc tạo ra những khoản ký gửi của các ngân hàng, làm giảm giá trị của thừa số tiền và giảm lượng cung tiền đối với bất kỳ cơ số tiền bất định nào.
Một khoản dự trữ bắt buộc có tác dụng như một khoản thuế đánh vào các ngân hàng bằng cách bắt buộc họ phải duy trì một khoản dự trữ cao hơn trong tổng số các khoản có dưới dạng dự trữ ngân hàng và một tỷ lệ thấp hơn của các khoản cho vay có lãi suất cao.
Hệ thống dự trữ bắt buộc tạo nên một mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do NHTM thực hiện (bằng việc làm xuất hiện tiền gửi) và nhu câù tái cấp vốn tại NHTW. Hệ thống này rất mềm dẻo vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng ngân hàng, NHTW có thể điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đặc biệt, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể điều hoà vốn khả dụng ngân hàng khi có nguồn thu ngoại tệ lớn. Hệ thống này có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng bởi vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong toàn hệ thống.
Ba công cụ kể trên đây có tác dụng tổng quát là kiểm soát khối lượng cho vay của ngân hàng, mức lãi suất và khối lượng tiền tệ nói chung. Nhưng ngân hàng trung gian còn thoải mái ở chỗ cho ai vay tuỳ sự xét đoán của mình, điều đó có nghĩa là ba công cụ nên chưa ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng mà ngân hàng trung gian cấp cho khách hàng. Nếu NHTW không áp dụng chính sách kiểm soát tín dụng, ngân hàng trung gian sẽ chỉ hướng vào những nơi có thể thu được lợi nhuận cao ít chú trọng tới những ngành có hoạt động lợi ích xã hội nhiều hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng sẽ giới hạn mức tối đa cấp cho những ngành hoạt động nào được xem như ưu tiên, cần yểm trợ tín dụng mạnh hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng gồm hai nội dung chính là hạn mức tài sản và quản lý lãi suất.
chương II
ngân hàng nhà nước Việt Nam trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính hữu hiệu trong nền kinh tế chuyển tiếp
Qua qua trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường là hết sức khó khăn và phức tạp. Kinh tế trong giai đoạn chuyển tiếp có khu vực kinh tế tư nhân nhỏ nhưng phát triển rất nhanh và nhanh chóng và khu vực kinh tế Nhà nước ngày càng co lại. Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp kinh tế tư nhân không xuất hiện ngay lập tức mà dần theo thời gian và khu vực kinh tế Nhà nước cũng không hề có biểu hiện mất ngay.
Với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng được một hệ thống tài chính vững chắc, lấy thị trường làm có sở để đảm bảo cho các thành phần kinh tế hoạt độngtốt là một việc làm hết sức cần thiết.
Trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường các nhà ra quyết định phải đối mặt với những mâu thuẫn giữa các mục tiêu đã đề ra; mặc dù sự chuyển đổi hướng tới nền kinh tế thị trường hàm ý rằng Chính phủ cần phải rút khỏi vị trí thống trị của mình trong nền kinh tế nhưng mặt khác cũng cần phải có hoạt động của Chính phủ để giải quyết những nhiệm vụ mới suất hiện. Một trong số những nhiệm vụ đó là xây dựng một hệ thống tài chính vững chắc hữu hiệu, lấy thị trường làm cơ sở, thực thi một chính sách tiền tệ có hiệu quả.
Những nền kinh tế này thiếu hầu hết những tổ chức quan trọng của kinh tế thị trường, thị trường cạnh tranh cho các nhân tố, các hàng hoá và dịch vụ, một hệ thống tài chính cạnh tranh và được đầu tư vốn đầy đủ, một cơ cấu pháp luật và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho hệ thống tài chính.
Trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hệ thống tài chính đều ở trạng thái tồi tệ. Tài chính hầu như chỉ đóng vai trò ghi chép, lưu giữ thụ động, trong khi việc phân bố các nguồn lực do chính kế hoạch tập trung kiểm soát
Các quyết định tín dụng đều đã được lên kế hoạch trước. Hệ thống ngân hàng bị suy kiệt vì nguồn vốn thấp, một số lượng lớn các khoản nợ không hoạt động của các quốc doanh, các khoản cho vay gián tiếp tập trung theo khu vực địa lý và khu vực ngành, ngân hàng tiết kiệm có mạng lưới chi nhánh nhỏ bé. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng hầu như không có lãi, được Nhà nước bù lỗ. Các nhà quản lý lại có rất ít kinh nghiệm trong việc đánh giá các đơn xin vay, trong việc tính toán và giải quyết các rủi ro. Thị trường cổ phần và thị trường trái phiếu thì hoặc là không tồn tại hoặc là rất nhỏ bé và không linh hoạt trong việc chuyển đổi ra tiền mặt hoặc trên có sở trao đổi và các doanh nghiệp đã tạo nên một mạng lưới rộng rái tín dụng giữa các hãng vỡi nhau.
Những khó khăn trên đây đặt ra những yêu cầu rất lớn đối với hệ thống tài chính.
Như trên đã nêu, xây dựng được một hệ thống tài chính vững chắc là việc làm cần thiết song nó cũng đòi hỏi chúng ta luôn luôn phải thận trọng trong từng bước đi không vội vã và có thể dẫn đến sự đổ bể của cả nền kinh tế. Cần phải nắm vững những di sản để lại từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Không nên áp đặt đột ngột việc kiềm chế tín dụng gắt gao đối với các doanh nghiệp, điều này có thể gây ra sự páh sản hàng loạt các doanh nghiệp. Đối với quá trình tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh, tài chính là - và cần phải là chủ yếu trong việc tạo điều kiện chuyển quyền sở hữu từ Nhà nước sang khu vực tư nhân, đảm bảo cho kết quả của quá trình tư nhân hoá sẽ thay đổi thực sự cách thức hoạt động của các doanh nghiệp. Mặt khác, việc xây dựng hệ thống tài chính còn phụ thuộc vào tình hình tài chính thực tế mỗi nước. Mỗi nước đều có những đặc điểm kinh tế riêng biệt, những thuận lợi và khó khăn khác nhau trong quá trình phát triển do đó vấn đề đặt ra là mỗi nước phải xác định được rõ ràng điểm nào là điểm mạnh, điểm nào là điểm yếu của mình để từ đó xác định đâu là điểm chủ yếu, đâu là điểm thứ yếu trong hệ thống tài chính.
Chúng ta đều thấy rằng con đương dẫn đến sự thành công chính là xây dựng hệ thống tài chính hữu hiệu và vững chắc, song điều này không có nghĩa là tiến hành cải tổ đồng loạt. Ưu tiên tối cao phải giành cho việc cải tổ lại khu vực ngân hàng .
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là nguồn cung cấp vốn cho hoạt động ngắn hạn của Công ty và đưa ra các khoản đầu tư dễ chuyển đổi thành tiền mặt mà ngân hàng có thể lưu giữ chứng từ. Ngân hàng cũng là nguồn cung cấp chính vốn con nguời đã được đào tạo trong việc đánh giá các rủi ro tín dụng và nhờ thế tạo ra nền tảng đảm bảo cho việc phân phối nguồn tài lực một cách có hiệu quả. Việc cung cấp tài chính có hiệu quả sẽ trực tiếp tác động vào việc nâng cao hiệu quả trong sản xuất nói riêng và trong xã hội nói chung.
2. Vai trò của khu vực ngân hàng
Một trong những thử thách với những nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây chính là sự phân quyền trong việc phân bố nguồn tài lực. Lý do hang đầu trong động cơ kinh tế nhằm chuyển đổi sang cơ chế thị trường là sự nhận thức được rằng kế hoạch hoá tập trung không đưa lại sự phân phối vốn có hiệu quả và vì thế mà các nguồn tài nguyên vật chất không được sử dụng có năng suất thấp. Về mặt này bản chất của thị trường là giảm tới mức tối thiểu ảnh hưởng của các nhân tố phi kinh tế tác động leen sự phân phối các nguồn tài nguyên và cũng chính nhờ đó mà cải thiện được hiệu suất đầu tư.
Vấn đề trọng tâm phải quyết định cái gì sẽ thay thế cơ chế kế hoạch hoá làm trung gian giữa những thành phần kinh tế có nguồn tài chính thặng dư và những thành phần kinh tế không có đủ vốn để cung cấp cho công việc đầu tư của mình.
Theo truyền thống, vị trí trung gian này được thống trị bởi khu vực ngân hàng. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau và với các hình thức trung gian ngoài ngân hàng đã buộc ngân hàng phải nâng cao sự thành thạo trong việc đánh giá rủi ro tín dụng và xác định những khoản đầu tư có lợi nhất. Trong quá trình thực hiện điều này các ngân hàng đòi những nguồn tin có giá trị về cả người cho vay và người vay tiền. Trên cơ sở đánh giá các nguồn thông tin đó ngân hàng sẽ quyết định lựa chọn những khoản đầu tư có lơị nhất. Ngay cả ở những nước công nghiệp phát triển, mặc dù có sự phát triển và đa dạng của nhiều tổ chức tài chính song vai trò chủ đạo của khu vực ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận được.
ở nước ta trước đây thì sao ? do hậu quả của lạm phát kéo dài, bắt nguồn từ những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân, thực trạng hoạt động tiền tệ, tín dụng trong những năm 80 hết sức rối ren. Tiền mặt phát ra rất lớn năm sau cao hơn năm trước với khối lượng lớn hơn nhiều lần nhưng vẫn không đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chức năng trung tâm tiền mặt của ngân hàng bị thu hẹp. Tiền mặt quay ngoài vòng kiểm soát của ngân hàng với tất cả tác động tiêu cực của nó đến đời sôngs kinh tế - xã hội. Trong tín dụng, nhất là tín dụng ngắn hạn, dư nợ tăng rất nhanh và dần thoát khỏi nguồn vốn huy động. Tốc độ tăng tín dụng vượt xa tốc độ phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Các chi nhánh ngân hàng cơ sở chỉ biết cho vay, ỷ lại hoàn toàn vào vốn của NHTW bù đắp. Thiệt hại duy nhất thuộc về NHNN người đại diện cho Chính phủ quản lý nguồn vốn đó. Hơn nữa, chức năng quản lý Nhà nước, chức năng hướng dẫn thanh toán trong nền kinh tế quốc dân của NHNN không thực hiện được. Mối liên hệ hữu cơ giữa tiền mặt và tiền gửi bị phá vỡ. Phạm vi thanh toán qua tài khoản ở ngân hàng bị thu hẹp. Thanh toán bằng tiền mặt ngày càng mở rộng.
Tình hình trên bắt nguồn từ tổ chức hoạt động của hệ thống ngân hàng. Từ khi ra đời, NHNN là ngân hàng phát hành, đồng thời vừa là ngân hàng trực tiếp cho vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân, vừa là tổ chức quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng, thanh toán.
Do hoạt động của nền kinh tế quốc dân trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, không thừa nhận thị trường nên không có thị trường t1. Hoạt động ngân hàng tương đối đơn giản, không đòi hỏi sự năng động, linh hoạt trong hạch toán kinh doanh vì ngân hàng thực chất như là cơ quan cấp phát tài chính thứ hai, sau ngân sách cấp phát vốn cho xí nghiệp.
Quản lý nhà nước trong hệ thống ngân hàng một cấp không thoát khỏi việc tuân thủ một cách máy móc những quy định, những chỉ thị, mệnh lệnh của ngân hàng cấp trên về tiền tệ , tín dụng, thanh toán.
Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng không ý thức đầy đủ về trách nhiệm đối với nguồn vốn huy động chỉ biết cho vay theo chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên, càng xin được vốn nhiều càng cho vay rộng rãi, trong khi đó dịch vụ ngân hàng lại yếu kém. Thái độ phục vụ khách hàng, phong cách giao dịch của nhân viên ngân hàng còn nhiều khâu phiền hà, cửa quyền thiếu văn minh, lịch sử cần thiết ...
Nói chung, có thể thấy rằng những điều kiện cần có để tiến hành hoạt động kinh doanh ngân hàng, đến lúc này là chưa có. Và đây cũng chính là sự cần thiết phải chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Từ thực trạng này, vấn đề đặt ra là phải tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng.
3. Việt nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng.
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đang đẩy mạnh từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế tiền tệ có sự quản lý của Nhà nước, từng bước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Việt Nam mới đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp (thời kỳ quá độ), trong giai đoạn tới để thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nưóc đã vạch ra, một trong những nhiệm vụ đầu tiên phải được xem xét chính là hoàn thiện và phát triển lĩnh vực ngân hàng, tiền tệ.
Tiền tệ và ngân hàng đóng vai trò như là người mở đầu, người nâng đỡ, người điều chỉnh, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất, từ hình thái thô sơ nhất đến hình thái phức tạp, hiện đại và tinh vi nhất. Hình thái tiền tệ phản ánh trình độ phát triển kinh tế, là thước đo lịch sử, là vật kết tinh của xã hội và là động cơ cực mạnh cuốn hút và khơi dậy mọi tiềm ẩn kinh tế, xã hội.
Tầm quan trọng của ngân hàng và tiền tệ trong sự phát triển kinh tế là không thể phủ nhận. Vị trí của đồng tiền và vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng đối với việc ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế tiền tệ , mọi hoạt động kinh tế đều liên quan đến hoạt động tài chính, tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống ngân hàng ;ngân hàng được coi là một bộ phận của kết cấu hạ tầng. Do đó ngân hàng được tổ chức thành một hệ thống nhất, điều tiết lưu thông hàng hoá và dịch vụ trên phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tín dụng trên phạm vi toàn xã hội.
Như vậy chúng ta có thể thấy được ý nghĩa quan trọng của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là đối với Việt nam, một đất nước mà từ trước cho đến nay, ngoài ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng như Công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng thì các hình thức tài chính phi ngân hàng còn chưa phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng đã bắt đầu thực sự tiến hành với mốc đánh dấu là Nghị định số 53/HĐBT ngày 16/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ về việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt nam. hệ thống ngân hàng Việt nam được phân định thành hai cấp là Ngân hàng Nhà nước Việt nam với chức năng quản lý Nhà nước đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng, ngân hàng chuyên doanh hoạt động như những ngân hàng thương mại theo chế độ hạch toán kinh tế.
Cùng với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế, để tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng, ngày 23/5/19909 Hội đồng Nhà nước (nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã thông qua Pháp lệnh ngân hàng. Hợp tác xã tín dụng Công ty tài chính. Việc ban hành hai pháp lệnh Ngân hàng nói trên đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới một cách toán diện các hoạt động tài chính, t1, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc đổi mới hệ thống Ngân hàng việt nam. Đặc điểm, gần đây ngày 26/12/1997 chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký lệnh công bố luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam (gồm 7 chương, 63 điều) và luật các tổ chức tín dụng (gồm 11 chương, 131 điều). Điều này đảm bảo cho tính đồng bộ của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, hoạt động của hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng còn được sự hỗ trợ rất đắc lực của hàng loạt các luật, các Nghị định như luật Công ty, luật phá sản, luật đất đai ....
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, và với sự nỗ lực của bản thân ngành, trong thời gian qua hệ thống Ngân hàng Việt nam đã đạt được nhiều thành tích đáng kể. Đó là bước đầu xây dựng được hệ thống ngân hàng thích ứng với cơ chế tiền tệ, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cụ thể là những năm 1980 - 1986 nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủgn hoảng nặng nề mà đặc trưng nổi bật là lạm phát phi mã, tốc độ phát triển kinh tế giảm sút, mất cân đối cả đối nội và đối ngoại. Bước ngoặt đầutiên của hoạt động ngân hàng từ năm 1988, khi các chính sách và biện pháp cải tổ mạnh mẽ đã được ngành ngân hàng thực hiện : nâng lãi suất huy động lên mức cao (12%/tháng đầu năm 1989) để thu hút khối lượng tiền mặt rất lớn đang nằm đọng trong lưu thông, xoá bỏ cơ bản chế độ tỷ giá, áp dụng tỷ giá thả nổi có điều tiết linh hoạt, đi đôi với điều chỉnh dần lãi suất xuống theo kết quả kìm chế lạm phát, kích thích xuất khẩu, hướng nhập khẩu vào các mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước. Mặt khác, từ sau khi có Pháp lệnh ngân hàng, ngành ngân hàng đã từng bước áp dụng các công cụ quản lý vĩ mô gián tiếp thay thế cho các công cụ kiêmr soát trực tiếp trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Đặc biệt, NHNN đã áp dụng một loạt biện pháp nhằm thắt chặt lượng tiền cung ứng và kết quả là tốc độ lạm phát phi mã trước đó 410,9% năm 1988 xuống còn 67,4% năm 1991, 17,4% năm 1992 và 5,2% năm 1993. Năm 1994, nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 1993 (8,8%) nhưng mức lạm phát đã cao hơn dự kiến (14,4%) ; mức lạm phát năm 1995 là 12,7% năm 1996 là 4,5% và gần 4% năm 1997.
Những năm đầu của quá trình đổi mới ngân hàng, nền kinh tế nước ta phải đối phó với những khó khăn gay gắt. Với những chính sách đổi mới của Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là khống chế khối lượng tiền cung ứng, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá ... đã góp phần thúc đẩy sự cải thiện nền kinh tế theo hướng phục hồi và phát triển. ngành Ngân hàng cũng góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu tín dụng Ngân hàng đã tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh trong khi bảo đảm có chọn lọc việc duy trì những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1991 là 90% và ngoài quốc doanh là 10% thì đến năm 1994, tỷ trọng đó là 65%, năm 1995 là 58,5% và 41,5%. Trước đây, Ngân hàng Trung ương hoạt động ngắn hạn là chủ yếu. Để phục vụ tốt hơn cho quá trình công nghiệp hoá, Ngân hàng đã chú ý mở rộng hoạt động trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay ngắn hạn từ 85% và trung dài hạn 15% (năm 1991) thì đến năm 1994 đã thay đổi 67% và 33%. Năm 1995 so với năm 1994, dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 24,6%.
Cơ cấu tín dụng ngân hàng qua các năm Trích từ : Sách “ Ngân Hàng Việt Nam quá trình xấy dựng và phát triển“ - NXB Cính Trị Quốc Gia - 1996 Trang
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Ngắn hạn
Trung & dài hạn
1991
1992
1993
1994
1995
90,0
88,0
72,0
65,0
58,0
10,0
12,0
28,0
35,0
41,0
85,0
84,0
77,0
67,0
75,0
15,0
16,0
23,0
33,0
25,0
Sự tăng trưởng tín dụng và các định hướng của nền kinh tế quốc dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ cấu kinh tế.
Hơn nữa, cùng với việc mở rộng cho vay đến tất cả các thành phần kinh tế, hệ thống ngân hàng đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển khu vực nông nghiệp và nông thôn, quan tâm đến cho vay khuyến khích xuất khẩu, cho vay ứng dụng tiến bộ khoa học và áp dụng công nghệ mới. Nhiều công cụ và hình thức huy động vốn đa dạng được đưa vào áp dụng trong hệ thống ngân hàng : kỳ phiếu của NHTM, tiết kiệm xây dựng nhà ở... Nhờ đó, vốn hoạt động của các ngân hàng đã tăng liên tục với tỷ lệ khá cao : năm 1991 tăng 68%, năm 1992 tăng 19%, năm 1993 tăng 14%, 1994 tăng 59% và năm 1995 tăng 32%. Nguồn vốn trong nước được tăng trưởng cùng với nguồn vốn từ nước ngoài là điều kiện cơ bản, đã góp phần tích cực tăng đầu tư, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Có thể nói, những thành quả bước đầu đạt được trong công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng ở Việt nam đã góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế trong đó không thể thiếu vai trò đặc biệt quan trọng của NHTW Thống đốc ngân hàng Nhà nước giờ đây đã có quyền kiểm soát tăng trưởng tiền tệ để thực hiện được các chỉ tiêu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế lành mạnh. NHNN đã chủ động hơn trong việc lựa chọn các biện pháp, chính sách can thiệp vào nền kinh tế để nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Trên thế giới, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có mục tiêu của chính sách tiền tệ khác nhau. ở Việt nam, chính sách tiền tệ có mục tiêu đã được xác định là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát từ đầu thập kỷ 90 đến nay, lạm phát đã giảm thấp và được kiềm chế, chỉ còn 14,3% năm 1994, 12,7% năm 1995 và 4,5% trong năm 1996, và gần 4% năm 1997. Trong khi đó, nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định : 8,8% năm 1994 và 9,5% năm 1995 và 9,5% năm 1996.
22,7
19,6
3,6
4,5
12,7
14,4
27,8
22,6
Thành công đó của Việt nam trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, đã được dư luận quốc tế đánh giá cao. Trong số các nguyên nhân của thành tựu, nổi lên là việc điều hành có hiệu quả lãi suất và tỷ giá trong nền kinh tế.
Lãi suất là công cụ có vị trí quan trọng số một trong hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia. Về bản chất, lãi suất là giá cả mua bán vốn, có tác dụng điều hoà cung cầu vốn, thúc đẩy tăng tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
ở Việt nam, cho đến hết năm 1996, lãi suất vẫn chưa trở thành giá cả mua bán vốn trong nền kinh tế nên các ngân hàng thương mại thừa hàng nghìn tỷ đồng vốn trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp vẫn rất lớn. Tuy nhiên nhìn lại, năm 1996, đã đánh dấu mốc lịch sử trong cuộc cách mạng về lãi suất của hệ thống ngân hàng Việt nam.
Các mức trần lãi suất cho vay tối đa được điều chỉnh
trong năm 1996 Đơn vị : %
Loại lãi suất
1/1/96
15/7/96
1/9/95
1/10/96
1. Cho vay ngắn hạn tối đa
2. Cho vay trung và dài hạn
3. Lãi suất cho vay của NHTMCP nông thôn
4. Lãi suất cho vay của QTDND
1,75
1,7
2,0
2,5
1,60
1,65
1,8
2,2
1,5
1,55
1,7
2,1
1,25
1,35
1,5
1,8
Từ ngày 1/1/1996, NHNN Việt Nam chấm dứt việc quy định cụ thể chi tiết các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay thay bằng việc chỉ quy định trần lãi suất cho vay tối đa, NHNN đã 4 lần quyết định hạ trần lãi suất. Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa lần lượt giảm từ 2,1% / tháng (trước 31/12/1995) xuống còn 1,75% từ 1/1/1996, 1,6% từ 15/7/1996 ; 1,50% từ 1/9/96 và 1,25%/tháng từ 1/10/1996. Phù hợp với thông lệ quốc tế, lãi suất cho vay trung hạn được nâng lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn : 1,55%/tháng từ 1/9/1996 và 1,35% / tháng từ 1/10/1996. Đồng thời khoảng cách giữa lãi suất cho vay bằng nội tệ và lãi suất cho vay bằng ngoại tệ rút ngắn lại, tạo sự bình đẳng hơn nữa giữa nội tệ và ngoại tệ.
Lãi suất cho vay giảm tới mức thấp nhất từ trước đến nay đã thúc đẩy các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Điều đặc biệt là khác hẳn với các đợt điều chỉnh lãi suất trước đây mặc dù 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất mà tình hình kinh tế - xã hội vẫn ổn định, giá cả không có biến động. Điều đó cho thấy người dân đã đặt lòng tin vào hệ thống ngân hàng, sức mua đồng đều được đảm bảo. Tuy nhiên, để cho công cụ lãi suất của Việt nam đóng được vai trò của nó như ở các nước có nền kinh tế tiền tệ thì cần phải làm nhiều việc.
Đó là cần sự linh hoạt trong buôn bán tiền. ở các nước trên thế giới, NHTW chỉ công bố một loại lãi suất tái chiết khấu, còn ở Việt nam, NHTW cần công bố nhiều loại trần lãi suất khác nhau, có tới 4 loại lãi suất cho vay của NHTM Chính phủ nông thôn và lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân (TTDND). Do đó, tính linh hoạt của lãi suất để thúc đẩy cạnh tranh chưa được phát huy đúng ý nghĩa của nó, láiuất cho vay của NHTM Chính phủ nông thôn là 1,5% và của QTDND là 1,8% / tháng đã làm cho nông dân là người phải chịu lãi suất cao nhất trong nền kinh tế gấp 1,2 - 1,5 lần so với mức 1,25 % cho vay ở thành thị. Trong khi thành phần kinh tế này đúng ra phải được ưu tiên hơn cả bởi vì lợi nhuận thấp, lao động chủ yếu là thủ công lại đóng góp khối lượng hàng hoá lớn nhất cho xuất khẩu : gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hàng thủ công, thuỷ hải sản. Điều này có vẻ trái ngược với qui định chênh lệch lãi suất 0,35%. Ngay từ đầu năm cho đến hết năm 1996, NHTW quy định cho các tổ chức tín dụng (TCTD) phải thực hiện bình quân lãi suất đầu ra và đầu vào không được vượt quá 0,35%. Đây được coi là một bước tiến (bỏ quy định cụ thể các mức lãi suất tiền gửi ) nhưng lại có hai bức lùi bởi quy định này làm triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các TCTD, họ không phấn đấu giảm chi phí hoạt động, không tạo điều kiện mạnh dạn đầu tư cho đổi mới công nghệ ...
Bên cạnh đó, c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72207.doc