Đề tài Vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

 Với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước , Bộ Kế hoạch và Đầu tư , các nghành , các địa phương đều phải làm quy hoạch kịp thời , có chất lượng cho phát triển các vùng , nhất là vùng trọng điểm , phát triển các nghành bao gồm cả quốc doanh và ngoài quốc doanh , ở các địa phương. Phải đảm bảo sự ăn khớp giữa quy hoạch : nghành , vùng và thành phần kinh tế , trong đó quy hoạch nghành là quan trọng nhất.

 Phải có sự ăn khớp và thống nhất giữa quy hoạch tổng thể với quy hoạch các nghành , các vùng; giữa quy hoạch phát triển nghành , phát triển vùng với quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị , cũng như quy hoạch dân cư , quy hoạch mạng lưới giao thông vận tải ; giữa quy hoạch xây dựng nhà máy với quy hoạch vùng nhiên liệu.

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Nhà nước. Thứ hai : Do những nhân tố khách quan tác động vào quá trình CNH, HĐH. Mỗi nước tiến hành CNH đều bị các nhân tố khách quan tác động. Trong những nhân tố đó vừa có các nhân tố thuận lợi cũng vừa có các nhân tố khó khăn. Các nhân tố thuận lợi giúp thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, chính Nhà nước đóng vai trò tận dụng các nhân tố này vào quá trình CNH. Đó là trước Việt Nam đã có rất nhiều nước công nghiệp hoá thành công, và cả thất bại, từ đó cho phép rút ra những kinh nghiệm. Ngoài ra các nước thực hiện công nghiệp hoá sau cũng nhận được sự giúp đỡ phần nào của các nước đi trước, như được chuyển giao khoa học công nghệ tiên tiến ở các nước phát triển, được các nước phát triển hỗ trợ vốn giúp cho quá trình công nghiệp hoá. Đây thực chất là lợi thế của các nước đi sau. Bên cạnh đó cũng còn có các khó khăn. Một là công nghiệp hoá cần một lượng vốn lớn, nhưng các nước phát triển lại nắm giữ chủ yếu, các nước đang phát triển nếu cần thì phải vay với điều kiện hà khắc như là vay với lãi suất cao, có các điều kiện có lợi cho nước phát triển. Hai là thị trường vốn đã bị các nước phát triển kiểm soát, các nước đang phát triển muốn có được không được dễ dàng. Ba là thị trường, nhất là đối với các thị trường quốc tế đã bị các nước phát triển lũng đoạn, sản phẩm của các nước đang phát triển muốn thâm nhập được cũng không dễ dàng. Mặt khác, hiện nay kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, tạo ra những cơ hội và thách thức cho nước ta. Như vậy, vai trò của Nhà nước hiện nay cân thiệp vào quá trình CNH, HĐH để tăng cường những thuận lợi, giảm thiểu các khó khăn là tất yếu. Thứ ba, do điều kiện trong và ngoài nước tác động : Nước ta là một trong số những quốc gia nghèo trên thế giới. Hơn nữa lại bị chiến tranh tàn phá. Ước tính bom đạn mà Mỹ ném xuống nước ta lớn hơn tổng số bom đạn mà thế giới sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Vì vậy nên trong thời gian khá lâu nhưng vẫn gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế. Hơn nữa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất lạc hậu, nguồn lực về mọi mặt vì thế rất yếu kém cũng là trở ngại cho công nghiệp hoá. Trên thế giới hiện nay đang có xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới vì vậy để bắt kịp với kinh tế thế giới thì đòi hỏi phải sử dụng mọi nguồn lực sẵn có trong nước và nước ngoài giúp để tiến hành CNH. Vì vậy, vai trò quản lý của Nhà nước là tất yếu trong quá trình CNH, HĐH. Thứ tư, do mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với CNH, HĐH : Để tận dụng mọi nguồn lực cho CNH, Đảng ta đã xác định nền kinh tế là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhưng bên cạnh mặt tốt của nền kinh tế thị trường : nạn thất nghiệp, nạn ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội…Chính vì vậy, cần có Nhà nước can thiệp để giảm bớt các tác hại trên. Thứ năm, mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH và quá trình CNH : CNH là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì việc quản lý cũng cần phát triển theo. Ngược lại khi quản lý điều hành tốt thì nền kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn và lực lượng sản xuất phát triển, rút ngắn quá trình CNH. Do vậy, vai trò quản lý của Nhà nước không những là tất yếu mà còn là “đòn bẩy” để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá. Nội dung vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH 2.1.Xác định chiến lược CNH, HĐH Để hiểu được nội dung này trước tiên ta cần hiểu xác định chiến lược là gì ? Chiến lược là kế hoạch, chính sách hoạt động trong dài hạn việc xác định chiến lược là việc xác định kế hoạch hoạt động trong dài hạn dựa trên lý luận và thực tiễn. Vì vậy, việc xác định chiến lược CNH, HĐH cũng cần được dựa trên lý luận và thực tiễn. Nó có vai trò rất lớn trong quá trình CNH, HĐH. Do là kế hoạch trong dài hạn nên đây là kim chỉ nam cho quá trình CNH, HĐH, là cơ sở để thực hiện, là cơ sở để huy động các nguồn lực cho CNH. Với vai trò như vậy, thì yêu cầu của việc xác định chiến lược cũng cần dự trên căn cứ khoa học, trên thực tế khách quan hay nói cách khác chiến lược được xây dựng cần hợp lý, đúng đắn, có xét đến các điều kiện bên trong và bên ngoài. Thực chất của việc xây dựng chiến lược là xây dnựg các chính sách về kinh tế xã hội. Đó là các chính sách xác định cơ sở cho nền kinh tế như :Chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách xây dựng cơ sở hạ hầng, chính sách huy động và sử dụng vốn, chính sách phát triển khoa học công nghệ…Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách xây dựng cơ cấu nền kinh tế phù hợp cho CNH, HĐH về : cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu về các thành phần kinh tế. Việc xây dựng chiến lược CNH tạo cơ sở ban đầu cho việc thực hiện CNH, HĐH. 2.2. Tạo những điều kiện cơ bản để thực hiện CNH, HĐH. Khi đã có chiến lược CNH đúng đắn rồi thì việc xác định từng bước, từng phần để thực hiện chiến lược đó là việc rất quan trọng. Thực chất của việc tạo các điều kiện cơ bản để thực hiện CNH, HĐH là việc xây dựng các chính sách cho CNH, HĐH. Chính sách của một quốc gia có vai trò rất quan trọng giúp cho các thành viên trong quốc gia đó căn cứ theo chính sách mà hoạt động vì vậy xây dựng chính sách cần có các yêu cầu sau. - Chính sách đó phải hiệu quả : nếu không thì việc thi hành chính sách sẽ gây những mặt trái đối với toàn xã hội rất khó khắc phụ hậu quả. - Chính sách phải đồng bộ nếu không sẽ tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng, tạo ra chồng chéo đối lập nhau giữa các chính sách khiến cho việc thực hiện rất khó khăn. - Chính sách đó cũng cần phù hợp với điều kiện thực tế trong và ngoài nước. Có như vậy thì khi lập một chính sách thì nó mới không “bị chết” có nghĩa là lập ra chính sách đó chỉ có trên giấy tờ chứ không áp dụng được vào thực tế. Hơn nữa xây dựng chính sách cũng cần phù hợp với các luật lệ quốc tế, tình hình quốc tế. Các chính sách đó bao gồm : Chính sách phát triển nguồn nhân lực, chính sách huy động và sử dụng vốn, chính sách phát triển khoa học công nghệ, chính sách kinh tế đối ngoại… Việc xây dựng các chính sách là cơ sở cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.3. Tổ chức thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá . Xác định được chiến lược công nghiệp hoá chỉ là phần mở đầu trên giấy tờ. Còn việc tổ chức thực hiện công nghiệp hoá là việc đưa chiến lược thành hiện thực. Vì vậy việc tổ chức thực hiện công nghiệp hoá đóng vai trò hết sức quan trọng quyết định sự thành bại của công nghiệp hoá. Thực tế đã cho thấy rằng có nhiều nước đã đưa ra được chiến lược công nghiệp hoá đúng đắn nhưng do tổ chức thực hiện sai lầm đến việc thực hiện mục tiêu bị thất bại. Và thực tế cũng cho thấy việc thực hiện chiến lược không dễ dàng, mà rất phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều cấp, nhiều ngành từ vi mô đến vĩ mô. Thứ nhất, xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước. Bộ máy quản lý Nhà nước không những là cơ quan quản lý nền kinh tế mà còn trực tiếp tổ chức thực hiện công nghiệp hoá. Để xây dựng bộ máy nhà nước tổ chức thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải giải quyết tốt những vấn đề sau Một là, phân công phân nhiệm rõ ràng có hiệu quả các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương. Nhà nước có chức năng quản lý toàn diện các ngành các lĩnh vực trên phạm vi cả nước. Còn đối với từng ngành kinh tế cụ thể có các cơ quan chuyên trách được phân cấp chịu trách nhiệm quản lý theo định hướng của Nhà nước. Chức năng quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương được phân cấp theo thẩm quyền trên phạm vi đơn vị hành chính – lãnh thổ. Phân cấp như vậy là do trung ương không thể quản lý được tất cả mọi thứ trong vai trò là bộ não của bộ máy quản lý. Việc quản lý nền kinh tế là rất phức tạp vì vậy nên cần phân công phân nhiệm rõ ràng tránh gây trồng chéo quyền hạn dẫn đến những rắc rối trong nền kinh tế không nên có. Hai là, bộ máy quản lý – Nhà nước phải được xây dựng kiện toàn từ trung ương đến địa phương. Việc xây dựng bộ máy nhà nước cần được kiện toàn khi đã phân quyền rõ ràng giúp cho bộ máy quản lý hoạt động, không có sự chồng chéo, vai trò giữa các cấp và cung cấp. Hơn nữa kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước giúp cho việc tổ chức thực hiện có cơ sở để thực hiện thành công. Ba là, tổ chức bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước hoạt động có hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sau khi đã phân công, phân nhiệm và kiện toàn bộ máy cần bảo đảm cho bộ máy quản lý có hiệu quả. Khi đã đề ra chiến lược chính sách rồi khi thực hiện có thành công hay không thì phải có bộ máy quản lý hiệu quả. Đây chính là nguyên tắc cơ bản nhất trong tổ chức của bộ máy quản lý kinh tế. Để hiệu quả thì việc xây dựng bộ máy quản lý phải đáp ứng được các yêu cầu sau : - Xây dựng bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn, phù hợp với thực tiễn của nền kinh tế và trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Bộ máy quản lý kinh tế phải phân định rõ chức năng, quyền hạn của các bộ phận, không chồng chéo lên nhau và cần gọn nhẹ tránh cồng kềnh. - Các cán bộ trong bộ máy quản lý kinh tế phải có đủ năng lực, trình độ để nắm bắt được nội dung chiến lược đề ra nhằm thực hiện có hiệu quả. Đáp ứng được các yêu cầu toàn bộ máy quản lý kinh tế sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và phát triển kinh tế xã hội. Thứ hai, xác định vị trí của Nhà nước đối với các chủ thể kinh tế. Việc xác định vị trí của bộ máy quản lý kinh tế với các chủ thể là cần thiết. Do nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần nên tồn tại nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô. Nhà nước chỉ có nhiệm vụ tạo môi trường còn các chủ thể kinh tế có quyền chủ động sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ phát huy được sự năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên để định hướng cho nền kinh tế, có thể nói quyền tự chủ của các chủ thể kinh ế đòi hỏi sự điều tiết nhất quán, đồng bộ. Mặt khác để phát huy tính chủ động sáng tạo của các chủ thể kinh tế cần kết hợp hài hoà nguồn lực của Nhà nước và các chủ thể kinh tế. Điều này giúp phát triển nền kinh tế và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Thứ ba, tổ chức kiểm tra giám sát việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. Mục đích của kiểm tra giám sát là để nắm tình hình và kết quả thực hiện một cách có hệ thống, tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, những nguyên nhân về sự thành công và thất bại của việc tổ chức thực hiện công nghiệp hoá. Vì vậy đây là một trong những khâu bảo đảm cho sự thành công của việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là khâu quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước. C. Những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời gian tới. Quan điểm và mục tiêu chung Quan điểm CNH Thứ nhất, phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững, đưa nước ta cơ bản là nước công nghiệp vào năm 2020. Thứ hai, phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh và rút ngắn. Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập, trong điều kiện khoa học công nghệ trên thế giới diễn ra như vũ bão, đặc biệt là trong nền kinh tế tri thức, do đó nước ta có khả năng và cần thiết phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhanh và rút ngắn, nếu không thì sẽ tụt hậu. Để công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhanh và rút ngắn, Việt Nam phải lựa chọn mô hình kiểu mới, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá thích hợp. Đó là mô hình áp dụng kinh tế tri thức trong lựa chọn các ngành, lựa chọn công nghệ để phát triển nhanh và phát triển các lĩnh vực công nghệ cao mà ta có khả năng như : Điện tử, sinh học, phải xuất khẩu và xuất khẩu qua chế biến sâu những mặt hàng mà ta có lợi thế so sánh. Phát triển kinh tế phải đi liền với phát triển văn hoá, đảm bảo công bằng xã hội và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải thực hiện trên cơ sở nâng cao chất lượng của sự phát triển nền kinh tế quốc dân và phải nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp và của các sản phẩm. Mục tiêu chung. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 được Đại hội IX của Đảng thông qua đã xác định mục tiêu tổng quát là :” Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao “. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2001-2005 là :”Tăng trưởng kinh tế nhanh bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cầu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng nền kinh tế đối ngoại…”. Mục tiêu chung tổng quát của cả quá trình là duy trì và đảm bảo được phát triển bền vững. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Phát triển bền vững phải đảm bảo được các đặc tính sau : Tăng trưởng kinh tế ở mức cao, hợp lý, ổn định và có chất lượng cao đối với giai đoạn 2001-2010, để từng bước thu hẹp khoảng cách so với các nước trong khu vực. Cụ thể, GDP năm 2010 gấp ít nhất hai lần năm 2000, như Đại hội IX đã đề ra. Tăng trưởng đạt được ở tất cả các vùng, hay nói cách khác các vùng khác nhau trên toàn quốc đều đạt được tăng trưởng ở mức cao hợp lý, phù hợp với khả năng của từng vùng, tăng trưởng ở vùng này không triệt tiêu hoặc làm giảm tăng trưởng ở vùng khác, có sự phối hợp và bổ sung cho nhau gữa các vùng để phân bổ nguồn lực hợp lý và hiệu quả, nhằm đạt tăng trưởng chung. Tất cả các thành phần kinh tế đều đạt được tăng trưởng ở mức trong phạm vi tiềm năng của nó. Nói cách khác là : tăng trưởng của thành phần kinh tế này không làm hại hoặc hay kìm hãm tăng trưởng của thành phần kinh tế khác. Các thành phần kinh tế đều hỗ trợ và bổ sung cho nhau để đạt được tăng trưởng chung. Lợi ích của tăng trưởng và phát triển phải được phân chia công bằng, hợp lý cho tất cả các nhóm dân cư, cho tất cả các thế hệ. Phát triển kinh tế phải đảm bảo được sự hài hoà giữa các mặt: kinh tế, xã hội, chính trị, môi sinh, văn hoá và tinh thần. Phát triển bền vững phải là quá trình ngày càng tạo ra và mở rộng thêm nhiều cơ hội để từng cá nhân trong xã hội lựa chọn cho phát triển nhân cách và cuộc sống, đảm bảo cuộc sống của nhân dân ngày càng được cải thiện trên tất cả các mặt trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Mục tiêu chung tổng quát của công nghiệp hoá - hiện đại hoá được cụ thể hoá cho giai đoạn 2001-2005 là : Phấn đấu đạt mức tăng trưởng tương đối cao và ổn định từ 7-10% đồng thời nhấn mạnh đến chất lượng tăng trưởng. Chính sách kinh tế vĩ mô cần đảm bảo đáp ứng yêu cầu về vốn, công nghệ, thị trường cho quá trình tăng trưởng đó. Tăng trưởng phải đi kèm với thay đổi đáng kể trong cơ cấu lao động xã hội, tăng trưởng phải đi kèm với thu hút và sử dụng tối đa nguồn lao động của đất nước, tăng trưởng phải đi cùng với năng cao chất lượng và tính ổn định của việc làm mới được tạo ra . Tăng trưởng phải đi kèm với năng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam nói riêng. Tăng trưởng với hiệu quả cao trong đầu tư, giữ các chỉ tiêu và ổn định nền kinh tế vĩ mô ở mức độ an toàn. Tăng trưởng kinh tế phải đi kèm với mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho các tầng lớp dân cư, mở rộng và nâng cao hơn chất lượng giáo dục. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá không phải là mục tiêu cuối cùng của các nỗ lực phát triển mà là công cụ để thực hiện mục tiêu duy trì và đảm bảo phát triển bền vững. Do đó, việc thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá tự thân nó chưa đủ khả năng đảm bảo phát triển bền vững. Điều này ở mức độ quan trọng phụ thuộc vào hệ thống chính sách và phương thức thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Nội dung, giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH,HĐH. Các giải pháp CNH,HĐH. 1.1. Coi trọng công tác quy hoạch và nâng cao chất lượng các quy hoạch. Quy hoạch là công cụ cực kỳ quan trọng , nó định hướng dài hạn và đảm bảo sự đồng bộ trong sự phát triển dài hạn . Mọi cấp , mọi nghành phải làm quy hoạch và vấn đề then chốt là phải nâng cao chất lượng quy hoạch. Với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước , Bộ Kế hoạch và Đầu tư , các nghành , các địa phương đều phải làm quy hoạch kịp thời , có chất lượng cho phát triển các vùng , nhất là vùng trọng điểm , phát triển các nghành bao gồm cả quốc doanh và ngoài quốc doanh , ở các địa phương. Phải đảm bảo sự ăn khớp giữa quy hoạch : nghành , vùng và thành phần kinh tế , trong đó quy hoạch nghành là quan trọng nhất. Phải có sự ăn khớp và thống nhất giữa quy hoạch tổng thể với quy hoạch các nghành , các vùng; giữa quy hoạch phát triển nghành , phát triển vùng với quy hoạch xây dựng và quy hoạch đô thị , cũng như quy hoạch dân cư , quy hoạch mạng lưới giao thông vận tải ; giữa quy hoạch xây dựng nhà máy với quy hoạch vùng nhiên liệu. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể , quy hoạch nghành và quy hoạch địa phương , các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển cho doanh nghiệp mình. Để nâng cao chất lượng quy hoạch , cần đổi mới phương pháp và tổ chức làm quy hoạch. Về phương pháp , làm quy hoạch phải trên cơ sở nghiên cứu thị trường và trên cơ sở phát triển công tác dự báo, thông qua đánh giá tác động của thị trường, của dân số đánh giá được xu thế tiến bộ khoa học - công nghệ và sự tác động của nó tới sự phát triển của kinh tế - xã hội , của nghành, vùng và doanh nghiệp. Về tổ chức làm quy hoạch, đây là trách nhiệm của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức, nhiều người trong đó có một cơ quan chủ trì và phối hợp. 1.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Cạnh tranh vừa là sức ép, vừa là động lực thúc đẩy phát triển và đổi mới . Sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn yếu kém để hội nhập với thế giới.Khi tham gia AFTA và WTO, tất yếu khách quan phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Trước hết, phân loại các mặt hàng thành 3 loại, căn cứ vào khả năng cạnh tranh . Một là, các mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao. Hai là các mặt hàng có điều kiện trở thành mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao nếu có sự hỗ trợ của Nhà nước và cố gắng của doanh nghiệp. Ba là , các mặt hàng không có khả năng cạnh tranh. Căn cứ vào sự phân loại đó để có chính sách thúc đẩy phát triển thích hợp. Hai là, áp dụng các biện pháp toàn diện và đồng bộ để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đối với quốc gia, cần nâng cao chất lượng của sự phát triển, tức là có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở tiến bộ khoa học - công nghệ và sự phát triển của kinh tế tri thức, cũng như tăng cường quản lý .Cần hình thành những nghành chủ lực và những nghành mũi nhọn trong xuất khẩu. Nên chú ý phát triển các nghành công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệp và xuất khẩu như những nghành sản xuất nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng. Cần có chính sách bảo hộ có lựa chọn, thực hiện hỗ trợ đầu vàothay cho hỗ trợ đầu ra. Nhà nước cần xây dựng và thực hiện Luật Cạnh tranh và chống độc quyền. Đối với doanh nghiệp: Doanh nghiệp là khâu quyết đinh khả năng cạnh tranh . Vì vậy, cần áp dụng các biện pháp toàn diện và có hiệu quả để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và từng mặt hàng, trong đó cần chú ý các biện pháp: Giảm chi phí đầu vào và hạ giá thành sản phẩm ; Nâng cao chất lượng sản phẩm và chủng loại sản phẩm theo yêu cầu của thị trường ; Xây dựng thương hiệu cho mọi sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu. Các biện pháp trên chỉ có thể đạt được khi sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp, đặc biệt là khi doanh nghiệp coi trọng đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ không có nghĩa là phải áp dụng công nghệ hiện đại cần nhiều vốn, mà là lựa chọn công nghệ thích hợp, đảm bảo sự thích hợp với thị trường, với vốn và khả năng của doanh nghiệp. 1.3. Đổi mới đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Để đáp ứng nhu cầu của CNH,HĐH, phải đổi mới căn bản và đồng bộ việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.Đây là lĩnh vực rộng lớn , phức tạp, nhưng trong những năm trước mắt, cần chú ý một số biện pháp sau: Thứ nhất, điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng: Đi đôi với việc tiếp tục duy trì quy mô tốc độ, nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học, cần tăng quy mô, tốc độ và nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Nhân lực qua đào tạo nghề của nước ta hiện nay còn rất thấp(14%), cần phấn đấu nâng tỷ lệ lao động qua dạy nghề đạt 18,6% vào năm 2005 và 26% vào năm 2010. Cơ cấu nghành nghề đào tạo phải đáp ứng và phù hợp sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH,HĐH. Nâng cao chất lượng đào tạo ở tất cả các hệ đào tạo gồm: dạy nghề, đại học và sau đại học. Thứ hai, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý, sử dụng nguồn nhân lực: Cần có chính sách luân chuyển cán bộ, chính sách thu hút nhân tài, áp dụng chính sách nghĩa vụ lao động ở vùng sâu, vùng xa trong một thời gian nhất định đối với người lao động, nhằm điều chỉnh lại phân bố lao động hợp lý hơn . Cải cách căn bản tiền lương để tiền lương thực sự là hàng hoá sức lao động , tiền lương là thu nhập chủ yếu của người lao động. Thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động không kể họ làm việc ở khu vực quốc doanh hay ngoài quốc doanh. Giảm việc thực chế độ biên chế suốt đời, thực hiện phổ biến việc kí kết hợp đồng lao động đối với các loại lao động. Thứ ba, tăng cường quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1.4. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất. Tiến bộ khoa học - công nghệ là nội dung căn bản của CNH,HĐH. Phải áp dụng các giải pháp chủ yếu sau để thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, quản lý và đời sống xã hội: Một mặt, phải phát huy vai trò của Nhà nước, mặt khác, cần đặc biệt coi trọng vai trò của doanh nghiệp với thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ. Nhà nước đóng vai trò định hướng tiến bộ khoa học - công nghệ cho các nghành, chú trọng một số hướng công nghệ trọng điểm, mũi nhọn ; tăng vốn đầu tư cho khoa hoc - công nghệ và xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý đối với khoa học - công nghệ . Doanh nghiệp là khâu quyết định việc đổi mới công nghệ. Cần xuất phát từ nhu cầu của thị trường Từ nhu cầu đổi mới chủng loại , chất lượng sản phẩm, cũng như nhu cầu về tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm và căn cứ vào khả năng huy động vốn từ mọi nguồn, khả năng khai thác sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp để lựa chọn hình thức, mức độ đổi mới công nghệ thích hợp. Các doanh nghiệp cần nâng mức đầu tư cho khoa học - công nghệ và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư , phấn đấu để mức đầu tư có thể đạt 2-3% so với doanh thu. Huy động và sử dụng tốt năng lực và nguồn lực cán bộ khoa học - công nghệ của đất nước vào nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, đặc biệt là nâng cao vai trò của các trường đại học. Phát triển công nghệ cao là khâu đột phá để đảy nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ và CNH,HĐH nhanh, rút ngắn. Nhà nước ưu tiên đầu tư nhân tài vật lực và khuyến khích các ngành, các doanh nghiệp phát triển và ứng dụng công nghệ cao, ví dụ công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… Phát triển thị trường khoa học - công nghệ. 1.5. Tổ chức lại và phát triển hệ thống các khu công nghiệp tập trung và các khu công nghiệp vừa và nhỏ, các cụm công nghiệp(KCNTT, KCNV&N, CCN). KCNTT, KCNV&N, CNN là những trung tâm và đầu tầu thu hút và tạo động lực phát triển công nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp trong giai đoạn tới . Chúng cần được kết nối với nhau, đảm bảo tính hệ thống trong phạm vi toàn quốc và địa phương, có quan hệ với nhau về kinh tế - kĩ thuật và hỗ trợ nhau trong quá trình phát triển. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục rà soát và điều chỉnh lại các quy hoạch về phát triển các KCNTT, KCNV&N, CCN, hạn chế việc mở thêm các khu công nghiệp tập trung, hỗ trợ việc hình thành, phát triển các CCN, các KCNV&N ở các tỉnh. Đa dạng hoá cách thức gọi vốn, đầu tư vốn và xây dựng cơ sở hạ tầng, các KCNTT, các KCNV&N, các CCN. Trước mắt, cần xây dựng mô hình quản lý nhà nước và thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đối với KCNTT, KCNV&N, CCN. 1.6. Tiếp tục tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước( DNNN ), tăng cường quản lý khu vực. Tổ chức lại hệ thống DNNN nhằm tạo ra một môi trường năng động, có hiệu quả, có tính cạnh tranh cao. Các DNNN vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong thập kỷ tới, nhưng sẽ mất dần và sẽ mất hẳn sự độc quyền của DNNN trong một số lĩnh vực, tuy nhiên vẫn còn độc quyền của Nhà nước. Số lượng các DNNN sẽ tiếp tục g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35648.doc
Tài liệu liên quan