Những năm gần đây, đầu tư của nhà nước bước đầu đã có một số thay đổi theo chiều hướng tốt, một số công trình đã phát huy tác dụng làm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật cho bước mới thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá. Tuy nhiên nhìn chung việc sử dụng vốn đầu tư của nhà nước đến nay vẫn còn rất lãng phí và kém hiệu quả. Quan niệm của nhà nước về đầu tư còn đơn giản, chỉ chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản để làm tăng tài sản cố định, chưa quan tâm thích đáng và gắn nó với đầu tư xây dựng cơ sở nguyên liệu, đầu tư vào con người và phát triển khoa học kỹ thuật. Đối với cơ cấu đầu tư cũng còn nhiều bất hợp lý: nhà nước chưa chú ý thích đáng đến đầu tư cho kết cấu hạ tầng; hiệu quả vốn đầu tư thấp do không ít trờng hợp đầu tư sai; cơ chế cấp phát vốn của nhà nước vẫn còn mang tính chất bao cấp, thất thoát, lãng phí nhiều. Kết quả tính toán cho thấy hiệu quả vốn đầu tư hiện nay là rất thấp thể hiện qua sự so sánh giữa tổng số vốn đầu tư và giá trị tài sản cố định tăng thêm như sau: thời kì 1986 - 1990 cứ bỏ ra 100 đồng vốn đầu tư thì chỉ thu được khoảng 50 đồng giá trị tài sản tăng thêm, năm 1991 là 51, 5 đồng và năm 1992 là 48, 2 đồng, tỷ lệ thất thoát lên đến 30%. Sở dĩ có sự thất thoát lớn nh thế là do cơ chế cấp phát, thanh toán đến giao nhận thầu, nghiệm thu, quyết toán công trình có nhiều cơ quan quản lý nhng lại thiếu sự quy định trách nhiệm cụ thể, không cơ quan nào chịu trách nhiệm từ đầu đến cuối về số vốn đầu tư của nhà nước.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Nhà Nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành, chưa khai thác và động viên có hiệu quả mọi nguồn lực có sẵn trong nước. Tuy nhà nước ta đã cố gắng tích cực tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài phù hợp với khả năng tiếp thu, quản lý và sử dụng công nghệ, nhân lực nhưng không có chính sách kiểm tra giám sát chặt chẽ nên vẫn còn nhiều lãng phí, kém hiệu quả. Nhà nước chưa thúc đẩy nhanh chóng quá trình đổi mới thiết bị, công cụ lao động trong các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là các ngành trọng điểm.
Việc lựa chọn mục tiêu các giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế của nhà nước còn nhiều thiếu sót, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, vợt quá khả năng thực hiện.
2.1.2.Thực trạng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với bước đi của quá trình công nghiệp hoá:
Nước ta khi bước vào thời kì đổi mới đã phải tiếp nhận thực trạng của một cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trưng của một nước nông nghiệp lạc hậu. Sau nhiều kế hoạch phát triển kinh tế lần lượt các mô hình cơ cấu kinh tế được hình thành, song cho đến cuối những năm 80 nền kinh tế về cơ bản vẫn là cơ cấu kinh tế cũ lạc hậu và kém hiêu quả mà việc cấu trúc lại không phải là đơn giản. Qua hơn 10 năm đổi mới cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển biến đáng khích lệ: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22, 7% năm 1990 tăng lên 30, 1% năm 1995 ;tỷ trọng ngành dịch vụ từ 38, 6% năm 1990 tăng lên 42, 4% năm 1995. Nước ta đã chuyển hẳn sang một thời kì mới thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để đến năm 2000 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Tuy vậy nhưng về cơ cấu ngành kinh tế, nhà nước chưa thúc đẩy nhanh các vùng tập chung chuyên canh, chậm đưa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp; công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản xuất khẩu chưa phát triển; công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cơ bản thiết yếu còn ít oỉ nhỏ bé. Ngành cơ khí chưa hướng vào sản xuất công cụ thiết bị phục vụ sản xuất nông lâm ngư nghiệp, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản. v. v.
Nhà nước chưa chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp vẫn còn ở mức cao, tỷ suất hàng hoá nông lâm sản thấp, tỷ trọng hàng suất khẩu nhỏ bé manh mún.
Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng GDP còn quá thấp. Công nghiệp chế biến nông lâm hải sản và công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng để xuất khẩu phát triển chậm.
2.2. Phát triển công nghệ
2.2.1.Phát triển công nghệ sản xuất
Đất nước ta đang chuyển hẳn sang hoạt động theo cơ chế thị trường với nền kinh tế mở, phải cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chúng ta đã thấy được chính sách và cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp của nhà nước đã kìm hãm việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất ở nước ta như thế nào. Chính vì vậy mà những chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế mới ban hành nhằm kích thích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ đã nhanh chóng tìm được sự hưởng ứng và đón nhận, đem lại kết quả ban đầu đáng khích lệ. Những chính sách và cơ chế mới ban hành cuả nhà nước trong thời gian qua nhằm tạo quyền chủ động cho các đơn vị sản xuất trong việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất đã có tác dụng giúp nhiều cơ sở sản xuất đứng vững được trong cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trờng, bước đầu làm ăn có hiệu quả. Ví dụ như nghị quyết số 217-HĐBT ngày 14/11/98 về các chính sách đổi mới kế hoạch hoá và hạch toán kinh doanh đối với các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (ban hành theo nghị định số 50-HDBT ngày 22/3/1998) đã có những tác động tích cực, làm các doanh nghiệp nhà nước độc lập hơn tự chủ hơn trong sản xuất và tiêu thụ. Luật đầu tư nước ngoài vào việt nam ; luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào việt nam và một loạt các thông tư quyết định cụ thể khác của nhà nước đã tạo điều kiện ban đầu thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước nhanh chóng đôỉ mới công nghệ sản xuất. Những quy định trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước đã:
- Tạo ra nhu cầu bức thiết cho các doanh nghiệp phải đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ.
- Tạo quyền chủ động cho chủ thể sử dụng (các doanh nghiệp ) quyết định lựa chọn mua bán công nghệ kể cả việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng nước ngoài.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh chủ động sử dụng có hiệu quả hơn những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
- Mở ra những hình thức mới không những tiếp cận mà còn thu hút đợc công nghệ tiên tiến của thế giới.
Báo cáo tại hội thảo kinh tế việt nam, bộ trưởng bộ khoa học công nghệ và môi trường Đặng Hữu đã đánh giá: ”xem xét lại trong 363 dự án với tổng số vốn gồm 2, 7 tỷ USD và các hợp đồng chuyển giao công nghệ khác thấy rằng nhiều công nghệ mới được đưa vào việt nam đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ chung của sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm”.
Đồng thời bên cạnh những mặt tích cực những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước với việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ phục vụ công nghiệp hoá cũng còn có những mặt hạn chế tồn tại. Đó là:
-Thiếu sự định hướng rõ rệt trong đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Hiện nay, nhà nước vẫn chưa xác định được chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia làm cơ sở định hướng cho các hoạt động khoa học công nghệ và hoạch định chính sách công nghệ. Do thiếu định hướng hoạt động và chính sách công nghệ, cụ thể hoá định hướng thành các quy định quản lý nên phải thừa nhận rằng hiện tại các hoạt động để phát triển công nghệ đang diễn ra một cách tự phát, thiếu sự quy hoạch và phối hợp tổng thể cả trong ngành lẫn ở địa phương.
-Thiếu sự an tâm tin tưởng từ phía người đầu tư cho phát triển công nghệ đối với tính ổn định nhất quán của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự tin tưởng an tâm từ phía người đầu tư trong và ngoài nước là một yêu cầu rất quan trọng khi hợp tác. Những đổi mới trong những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế thời gian qua vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu này. Nhiều văn bản của đảng nhà nước, quốc hội đều nhận xét về môi trường kinh tế hiên nay là “ chính sách quản lý vĩ mô có nhiều sơ hở và thiếu sót, kỉ luật phép nước không ngiêm”. Nhà nước cần đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế nhằm tạo ra niềm tin cho các hoạt động đầu tư phát triển khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá.
-Thiếu sự khuyến khích phát triển dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng để đảm bảo tiếp nhận và khai thác có hiệu quả công nghệ mới phục vụ công nghiệp hoá. Sự yếu kém về hàng hoá dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng ở nước ta đang là một trong những cản trở lớn nhất trong chuyển giao công nghệ. Nó đã và đang để tuột nhiều dự án đầu tư, mặc dù đã có những ưu đãi đặc biệt so với thông lệ chung của quốc tế
2.2.2.Phát triển đội ngũ cán bộ khoa học
Các chính sách cơ chế của nhà nước chưa tạo ra động lực kích thích đối với cán bộ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Sự phát triển khoa học và công nghệ vừa là mục tiêu vừa là phương tiện của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Con người là yếu tố quan trọng của sự phát triển ấy bởi vì con người là yếu tố chủ động, năng động của sự phát triển ấy. Thế nhưng hiện tại lao động làm việc trong lĩnh vực này đang thiếu sự khuyến khích, kích thích cần thiết. Nhận xét về các chính sách đối với cán bộ khoa học công nghệ, nghị quyết 26 của bộ chính trị vừa qua đã chỉ rõ “ chính sách, chế độ đãi ngộ trong khoa học còn nhiều điều bất hợp lý. Tiền lương mang nặng tính chất bình quân chủ nghĩa. Lao động chất xám nói chung rẻ hơn lao động giản đơn. Điều kiện tối thiểu để làm việc và sinh hoạt của cán bộ khoa học chưa được đảm bảo “. Hiện nay, với yêu cầu của công nghiệp hoá thì chất lượng, trình độ kĩ thuật và tay nghề của lao động nước ta còn quá thấp. Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục đào tạo có hệ thống cơ bản chỉ chiếm 11% trong tổng số lao động toàn xã hội. Mặt bằng dân chí thấp, lao động trí tuệ, lao động chân tay có trình độ đại học sau đại học còn ít. Nhìn tổng thể mà xét thì về mặt lượng thì nguồn lao động của nước ta là lớn nhưng về mặt chất thì chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì vậy phải có những giải pháp nhằm nâng cao trình độ lao động phát triển cán bộ khoa học kỹ thuật để tạo ra một sự biến đổi về chất lực lượng lao động nước ta.
2.3. Phát triển nguồn vốn
2.3.1.Thực trạng huy động vốn của nhà nước
Nước ta cũng như bất kỳ một nước nào trên thế giới muốn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá thì cần phải có vốn. Từ năm 1992 trở lại, nhờ thực hiện chính sách tài chính thắt chặt, nhà nước đã chấm dứt được tình trạng phát hành tiền cho tiêu dùng của ngân sách, số thu không những đã bù đắp số chi thờng xuyên mà còn dành ra một phần để tích luỹ đầu tư cho công nghiệp hoá hiên đại hoá. Nhưng nếu chỉ dùng số tiền tích luỹ đó thì sẽ không đủ để phát triển kinh tế. Do đó nhà nước đã có những biện pháp để huy động vốn trong và ngoài nước. Việc huy động vốn trong nước bằng các hình thứcg tín phiếu, trái phiếu tuy có phát triển song số vốn huy động được còn rất hạn chế và chủ yếu vẫn là nguồn vốn ngắn hạn ( chiếm 90% doanh số phát hành ). Hình thức huy động vốn còn đơn điệu. Hình thức tín phiếu kho bạc với thời hạn dài ( 3 năm ) hầu như chưa nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của dân cư, và chủ yếu là dùng biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp phải mua. Tuy nhà nước đã thiết lập được hệ thống ngân hàng hai cấp: ngân hàng nhà nước quan lý nhà nước về tiền tệ tín dụng và ngân hàng ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ trên nguyên tắc đi vay để cho vay. Nhưng, tổng số vốn huy động trong dân cư bằng các hình thức qua kênh ngân sách và ngân hàng như tín phiếu, trái phiếu kho bạc, tiền tiết kiệm … gần đây mới chỉ đạt 8000 tỷ đồng / năm, chiếm khoảng 5% GDP và chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn. Như vậy, nếu so với các nước cùng khu vực đông nam á thì tỷ lệ vốn trong nước để đầu tư cho công nghiệp hoá hiên đại của nước ta còn thấp. Nguyên nhân của tình hình trên là do một số chính sách tài chính tiền tệ hiện nay chưa tạo điều kiện và khuyến khích thoả đáng các doanh nghiệp tự đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh như chính sách thuế, chế độ thu khấu hao. Các hình thức huy động vốn chưa được mở rộng. Người dân chưa thật tin tưởng vào sự ổn định kinh tế, còn sợ lạm phát khủng hoảng. Kế dến là nhà nước chưa có nhiều hình thức huy động vốn linh hoạt, có lãi suất hấp dẫn cũng như chưa tạo ra được môi trường pháp lý môi trường kinh tế và bộ máy nhân sự đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường.
2.3.2.Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc sử dụng và quản lý vốn:
Những năm gần đây, đầu tư của nhà nước bước đầu đã có một số thay đổi theo chiều hướng tốt, một số công trình đã phát huy tác dụng làm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật cho bước mới thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá. Tuy nhiên nhìn chung việc sử dụng vốn đầu tư của nhà nước đến nay vẫn còn rất lãng phí và kém hiệu quả. Quan niệm của nhà nước về đầu tư còn đơn giản, chỉ chú trọng vào đầu tư xây dựng cơ bản để làm tăng tài sản cố định, chưa quan tâm thích đáng và gắn nó với đầu tư xây dựng cơ sở nguyên liệu, đầu tư vào con người và phát triển khoa học kỹ thuật. Đối với cơ cấu đầu tư cũng còn nhiều bất hợp lý: nhà nước chưa chú ý thích đáng đến đầu tư cho kết cấu hạ tầng; hiệu quả vốn đầu tư thấp do không ít trờng hợp đầu tư sai; cơ chế cấp phát vốn của nhà nước vẫn còn mang tính chất bao cấp, thất thoát, lãng phí nhiều. Kết quả tính toán cho thấy hiệu quả vốn đầu tư hiện nay là rất thấp thể hiện qua sự so sánh giữa tổng số vốn đầu tư và giá trị tài sản cố định tăng thêm như sau: thời kì 1986 - 1990 cứ bỏ ra 100 đồng vốn đầu tư thì chỉ thu được khoảng 50 đồng giá trị tài sản tăng thêm, năm 1991 là 51, 5 đồng và năm 1992 là 48, 2 đồng, tỷ lệ thất thoát lên đến 30%. Sở dĩ có sự thất thoát lớn nh thế là do cơ chế cấp phát, thanh toán đến giao nhận thầu, nghiệm thu, quyết toán công trình có nhiều cơ quan quản lý nhng lại thiếu sự quy định trách nhiệm cụ thể, không cơ quan nào chịu trách nhiệm từ đầu đến cuối về số vốn đầu tư của nhà nước.
Tình hình quản lý và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều điều cần phải xem xét lại. Những năm qua vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nước ta tuy tăng nhanh qua các năm, song vẫn còn có sự mất cân đối về cơ cấu đầu tư, việc chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam còn bị hạn chế. Trong quá trình thực hiện luật đầu tư và triển khai các dự án đã và đang xuất hiện những tiêu cực trong việc lợi dụng sơ hở trong cơ chế chính sách cuả nhà nước. Có thực trạng trên là do:
Luật đầu tư của nhà nước dù đã xác định các lĩnh vực ưu tiên phát triển nhưng lại chậm đưa ra danh mục các dự án gọi vốn và còn bị động trong gọi vốn.
Chính sách tài chính chưa rõ ràng trong xác định ưu đãi theo vùng lãnh thổ cũng như chưa đủ sức hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh vào lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Một số năm do bội chi nên nhà nước đã phải dùng cả vốn vay của nước ngoài để tiêu dùng cho ngân sách làm đồng vốn vay không phát huy được hiệu quả. Nhà nước khá chú trọng vay nợ nhưng xem nhẹ hiệu quả sử dụng vốn vay và nghĩa vụ trả nợ. Tính chất bao cấp trong việc vay và sử dụng vốn còn khá phổ biến và nghiêm trọng. Nhà nước chưa có một chiến lược vay nợ, tiếp nhận và sử dụng vốn vay nước ngoài một cách chủ động, có tính đến nhu cầu khả năng hấp thụ và trả nợ của đất nước nên việc vay nợ còn diễn ra rất tuỳ tiện.
Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu đầu tư vẫn còn tồn tại, người dân chưa thật tin tưởng vào đường lối đổi mới của nhà nước. Trong một số chính sách kinh tế tài chính, nhà nước chưa có các biện pháp khuyến khích mạnh mẽ đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực, ngành nghề mũi nhọn cần phát triển nhanh chóng để phục vụ công nghiệp hoá. Trong những năm tới, để quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao Nhà Nước tất yếu phải bảo toàn phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn hơn nữa.
2.4. Quản lý quá trình công nghiệp hoá
2.4. 1.Thực trạng vai trò quản lý của nhà nước
Các biện pháp quản lý quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá chủ yếu nhằm vào những hoạt động điều hành chỉ đạo việc hình thành và triển khai thực hiện chủ trương của nhà nước trong nền kinh tế. Các biện pháp quản lý của nhà nước ta trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Trong nhận thức về công nghiệp hoá đã có những nhìn nhận mới cả về mục tiêu, nội dung, quy mô lẫn biện pháp quản lý. Mục tiêu của công nghiệp hoá hiện đại hoá trong giai đoạn hiện nay là tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ công nghệ, nâng cao trình độ hiện đại hoá trong các ngành công nghiệp và các ngành kinh tế quốc dân.
Chủ trương đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đã được xác định toàn diện thích hợp hơn. Đó là thực hiện công nghiệp hoá toàn diện trong các ngành kinh tế quốc dân, có trọng điểm là công nghiệp, ưu tiên ngành công nghiệp chế biến; có sự kết hợp chặt chẽ giữa trung ương và địa phương trong đó phải ưu tiên cho các vùng trọng điểm. Thực hiện công nghệp hoá hiện đại hoá với sự đầu tư phát triển toàn diện nhưng trong đó chú trọng nhất về công nghệ và tri thức công nghệ.
Biện pháp thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá cũng được nhà nước điều chỉnh trong đó rõ nhất là: thực hiện quy hoạch phát triển toàn diện kinh tế xã hội theo từng cấp, căn cứ vào điều kiện và lợi thế so sánh cụ thể mà xác định quy hoạch xây dựng các công trình theo yêu cầu công nghiệp hoá. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tập chung và sớm dứt điểm để nâng cao hiệu quả đầu tư. công tác đào tạo cán bộ được tăng cường mạnh ở những ngành chuyên môn đang rất thiếu như: công nghệ, marketing quản trị kinh doanh và những lĩnh vực không thể thiếu khi thực hiện công nghiệp hoá.
Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề chưa thống nhất trong biện pháp quản lý thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cụ thể là:
Phương hướng khai thác tiềm năng chưa rõ ràng chính xác. Nhìn chung các địa phương đều đã xây dựng quy hoạch phát triển, trong đó phân tích khá rõ những điều kiện và lợi thế của địa phương mình; nhưng phân tích để làm rõ những lợi thế so sánh trong xu thế phát triển chung của nước ta và thế giới còn có những điểm khác xa nhau.
Tiến trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá chưa được nhà nước định ra cụ thể. Về tổng quát, quá trình công nghiệp hoá sẽ được thực hiện trong thời gian từ nay đến năm 2020 nhưng các bước cụ thể chưa được xác định rõ ràng. Do đó trong tiến trình thực hiện các mục tiêu phát triển đã nảy sinh một số vấn đề. Ví dụ như vấn đề thực hiện phát triển công nghiệp chế biến như thế nào và vào lúc nào khi nguồn nguyên liệu chưa được phát triển v. v. giải pháp vay vốn và sử dụng vốn vay chưa thật thuyết phục trong cân nhắc về hậu quả. Nhu cầu vốn cho thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá rất lớn phải có sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhưng nhà nước vẫn chưa tính toán kĩ trong việc thanh toán trả nợ sau này. Việc phát triển hiện nay với sức đè nặng của các món nợ trong 20 - 25 năm nữa.
Phương hướng chỉ đạo nhập công nghệ chưa cụ thể. Nhiều vấn đề trong chủ trương nhập công nghệ không được chỉ đạo dứt khoát và thực hiện thống nhất như: xác định trình độ công nghệ tiên tiến ở mức nào, cơ cấu công nghệ cần nhập ra sao, hiện đại hoá các công nghệ truyền thống như thế nào. Việc kiểm soát nhập công nghệ qua các dự án đầu tư của nớc ngoài cũng không chặt chẽ, diễn ra tình trạng nhập các công nghệ thấp công nghệ loại thải vào nước ta. Chúng ta lại quá thiếu các thông tin về công nghệ. Do vậy khi được nước ngoài giới thiệu về một công nghệ nào đó thì không có điều kiện để so sánh nhận biết được trình độ công nghệ đó tiên tiến mức nào, ưu điểm nhược điểm so với công nghệ cùng loại khác làm nhà nước rất khó khăn trong quá trình quản lý, ảnh hưởng lớn tới quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta.
Chương 3: một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta trong thời gian tới
3.1. Định hướng quá trình công nghiệp hoá
3.1.1.Xác định một cách toàn diện thích hợp hơn quá trình công nghiệp hoá
Để nâng cao vai trò của mình trong việc định hướng cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế, nhà nước cần phải:
Phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế nhất là kinh tế nhà nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Nhà nước phải sớm chủ động nắm bắt sự tác động khách quan của các quy luật trong nền kinh tế thị trường để định hướng đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xây dựng thống nhất chặt chẽ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, định hướng đúng đắn kế hoạch thực hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nhà nước phải nắm vững nhu cầu và khả năng tiến hành công nghiệp hoá, tập trung đúng mức vào những ngành, địa phương, lĩnh vực quan trọng nhất để có thể tạo ra sự tăng trưởng nhanh với hiệu quả kinh tế cao.
3.1.2.Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp với bước đi của công nghiệp hoá hiên đại hoá
Trong những năm trước mắt cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta sẽ được xác định là cơ cấu công nông nghiệp dịch vụ. Phương hướng phát triển của các ngành trong cơ cấu ấy phải đáp ứng được mô hình chiến lược của công nghiệp hoá. Cụ thể là:
-Nhà nước đẩy mạnh khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông lâm ngư nghiệp, thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung, chuyên canh, đa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Kết hợp phát triển nông lâm ngư nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản.
-Phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thoả mãn tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế tối đa nhập khẩu mặt hàng này để tiết kiệm ngoại tệ phục vụ công nghiệp hoá.
-Xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các ngành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
-Nhà nước chú trọng xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Ưu tiên phát triển dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hoá dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Về cơ cấu giữa thị xã thị trấn, thành phố và đô thị thì:
Tuỳ điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã thị trấn đều phải được phát triển trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn để dãn bớt công nghiệp và dân cư, tránh sự tập trung quá mức vào Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Tạo điều kiện cần thiết để thu hút công nghiệp và phát triển đô thị mới lên vùng trung du, tránh sử dụng nhiều diện tích đất lúa
Hạn chế mở rộng quy mô các thành phố lớn. Sớm quy hoạch mạng lưới đô thị lớn, vừa và nhỏ trong toàn quốc phù hợp với phát triển kinh tế xã hội. Phát triển đô thị phải đi đôi với việc xây dựng và quản lý các công trình công cộng ( điện, cấp, thoát nước, cây xanh…).
Coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và văn hoá, giữ gìn bản sắc và truyền thống văn hoá dân tộc với tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị.
3.2. Phát triển khoa học công nghệ
Trước hết cần khẳng định sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ nước ta trong thời gian qua. Những chính sách đúng đắn, những định hướng chiến lược về khoa học công nghệ do nhà nước ban hành đã có tác dụng kích thích các cơ sở sản xuất kinh doanh đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Tuy vậy so với yêu cầu của công cuộc đổi mới kinh tế nói chung và công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nói riêng thì nhà nước cha hỗ trợ được nhiều cho phát triển khoa học công nghệ. Vì thế, nhà nước cần ban hành thay đổi một số chính sách nhằm phát triển mạnh công nghệ theo hướng công nghiệp hoá. Phương hướng chung là: hình thành cơ cấu kỹ thuật nhiều tầng, kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, cải tiến công nghệ truyền thống. Trong những năm trước mắt, coi trọng loại công nghệ có suất đầu tư thấp thu hồi vốn nhanh, tạo thêm việc làm cho người lao động. Cụ thể:
3.2.1.Công nghệ nước ngoài
Nhà nước trong việc hoạch định chính sách phát triển công nghệ phải tạo ra môi trường thuận lợi nhất cho việc nhập khẩu công nghệ, nhằm tăng các nguồn cung công nghệ. Phải chú ý đổi mới và hoàn thiện các quy định về nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ mới vào Việt Nam.
Cố gắng tranh thủ các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước ngoài. Thực hiện giám định ngiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị. Nhà nước cần đặt ra một cách ngiêm túc ngay từ đầu vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa để tránh những hậu quả xấu phải trả giá đắt sau này. Đầu tư nước ngoài bắt buộc phải tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ môi trường, nên bố trí các cụm công nghiệp phân tán ở nhiều địa bàn vừa là một biện pháp tiết kiệm vừa để hạn chế ô nhiễm. Trong quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ phải rất tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời do các nước thải ra, tránh không để cho Việt Nam trở thành “ bãi thải công nghệ “ của các nước phát triển.
Gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi mới và làm chủ công nghệ nhập, sáng tạo công nghệ mới. Ưu tiên nghiên cứu ứng dụng tập trung cho các lĩnh vực công nghệ điện tử và tin học, công nghệ sinh học, hoá học, chế tạo và gia công vật liệu nhất là nguồn nguyên vật liệu trong nước.
3.2.2.Công nghệ và cán bộ khoa học trong nước
Gắn liền với các biện pháp kích thích công nghệ nhập, nhà nước cũng cần tạo ra sự phát triển mạnh mẽ đối với công nghệ sản xuất trong nước. Những văn bản quản lý của nhà nước đối với hoạt động công nghệ phải tạo thành một hệ thống ăn khớp với nhau. Phải có các văn bản chính sách mới cho hợp với bối cảnh hiện tại và bao quát hết mọi khía cạnh của hoạt động phát triển khoa học công nghệ phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Khuyến khích công nghệ nhập và baỏ hộ công nghệ sản xuất trong nước là hai mặt không thể tách rơì của một vấn đề. Đây phải là quan điểm cơ bản của nhà nước trong việc thiết kế đồng bộ chính sách và biện pháp phát triển công nghệ sản xuất. Nhà nước cần sớm ban hành chính sách công nghệ quốc gia trong đó có một nội dung quan trọng là danh mục các công nghệ cần ưu tiên phát triển mà nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 7 vừa qua đã xác định. Đó là công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học hoá nền kinh tế quốc dân, công nghệ sinh học phục vụ nông lâm ngư nghiệp chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trờng sinh thái, công nghệ chế tạo và gia công vật liệu. Nhà nước cần có những biện pháp điều tiết vĩ mô thích hợp cả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50181.doc