Đề tài Vai trò của quy hoạch xây dựng đô thị trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa bàn thủ đô trong thời kỳ đổi mới

Nghiên cứu khoa học

Lời nói đầu 1

Nội Dung 2

I. Khái niệm về cơ cấu kinh tế- cơ cấu kinh tế đô thị: 2

1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế: 2

1.1 Khái niệm nền kinh tế đô thị – cơ cấu kinh tế đô thị 3

1.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành: 4

1.2.1 Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế 4

1.2.2 Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ 6

2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị 7

2.1 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế 7

2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu khách quan trong quá trình đô thị hoá 8

2.3 Các đặc trưng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 9

2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 11

II. Hệ thống những khái niệm về quy hoạch xây dựng đô thị 13

1. Khái niệm quy hoạch xây dựng đô thị 13

2. Thực tiễn của quy hoạch xây dựng đô thị: 14

3. Các bước của quá trình quy hoạch xây dựng đô thị. 15

4. Quản lý quy hoạch xây dựng đô thị: 17

4.1. Khái niệm quản lý quy hoạch đô thị 17

4.2. Mục tiêu và các yêu cầu của công tác quan lý QHXD đô thị. 18

III. Vai trò của QHXD đô thị tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế : 19

1. QHXD là nền tảng của phát triển kinh tế đô thị. 20

2. QHXD đô thị giải quyết mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực 21

3. QHXD đô thị tập hợp được các nguồn lực xác định thứ tự ưu tiên phát triển hợp lý các ngành trọng điểm. 22

4. Quy hoạch xây dựng đô thị tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu. 24

5. QHXD đô thị thúc đẩy quá trình đô thị hoá. 26

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3226 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của quy hoạch xây dựng đô thị trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa bàn thủ đô trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo ra một trình độ cân đối nhất định trong nền kinh tế làm tiền đề cho sản xuất phát triển mạnh mẽ và ổn định. Trước khi có chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tỉ lệ lao động trong công nghiệp thấp, lao động trong nông nghiệp là chủ yếu còn dịch vụ ở trong các khu đô thị là kém phát triển. Chính vì lẽ đó, chuyển dịch cơ cấu đã xoá bỏ được những mất cân đối đang tồn tại, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp đã giảm hơn so với trước và ngành dịch vụ đang phát triển với tốc độ cao phù hợp và thúc đẩy nhanh đến quá trình đô thị hoá. Nhờ có chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thủ đô, ngành công nghiệp tăng 29,2% (năm 1990) lên 33,01% (năm 1995) và 38,5% (năm 2000) với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm tỉ trọng GDP của Hà nội chiếm trong tổng số cả nước đã tăng từ 5,5% (năm 1990) lên 6,1% (năm 1995) và 7,3% (năm 2000). Như vậy, chuyển dịch cơ cấu đã tạo tiền đề cho sản xuất phát triển mạnh mẽ và ổn định. Sự thay đổi cơ cấu tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp để thực hiện những phương hướng quyết định của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhờ đó có quá trình chuyển dịch cơ cấu, chúng ta đã tích cực tiến hành chuyển giao công nghệ KHKT. Chính nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, năng suất lao động trong đô thị cũng như trong toàn bộ nền KTQD được nâng cao rõ rệt. Sự thay đổi cơ cấu và ứng dụng KHKT trong nền kinh tế có mối quan hệ qua lại với nhau một cách chặt chẽ . Tiến bộ KHKT buộc cơ cấu kinh tế phải có sự thay đổi phù hợp nhưng thay đổi CCKT lại có tác dụng mở đường cho việc thực hiện tiến bộ KHKT. trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chúng ta đã ưu tiên phát triển một số ngành trọng điểm trên địa bàn thủ đô như điện năng, cơ khí, hoá chất, điện nguyên tử, và tự động hoá đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển vượt bậc. Thay đổi cơ cấu kinh tế là sự phân công mới lao động xã hội không chỉ ở giác độ ngành kinh tế mà cả ở giác độ lãnh thổ. Chính nhờ sự thay đổi cơ cấu kinh tế này đã làm cho dân cư đô thị ngày càng tăng , diện tích đô thị ngày càng được mở rộng. Hiện nay, dân cư Hà Nội chiếm 1,3 triệu người bằng 8,1% dân số đô thị toàn quốc. Chính quá trình đô thị hoá đã xoá bỏ sự khác biệt rất lớn trong thành phần kinh tế đô thị về trình độ văn hoá đời sống nhân dân đảm bảo quốc phòng an ninh được vững chắc. Thay đổi cơ cấu kinh tế đã tạo tiền đề và nền tảng ban đầu cho quá trình đầu tư nước ngoài vào các khu đô thị. Nhờ có chuyển dịch cơ cấu mà tốc độ thu hút vốn đầu tư của chúng ta đã tăng lên rõ rệt do đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu, ngẫu nhiên. Trong quá trình đô thị hoá, nhờ có chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đô thị Việt nam ngày càng được phát triển hơn đặc biệt là ở Hà nội. Nguồn vốn được đầu tư có hiệu quả và sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và các thành phần kinh tế là hợp lý và đồng bộ. 2.3 Các đặc trưng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt nam hiện tại đang là một trong những nước nghèo trên thế giới. Mặc dù trong những năm gần đây, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Song, so với thế giới và khu vực , chúng ta còn phải tiếp tục phấn đấu nhiều hơn nữa. Một trong những giải pháp quan trọng là phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng cho phù hợp, đặc biệt là điều chỉnh cơ cấu kinh tế đô thị ở thủ đô. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình có tính quy luật phổ biến. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của sự phát triển, quá trình này cũng có những đặc điểm riêng đòi hỏi phải được các chủ thể nhận thức đúng đắn và phù hợp. ở nước ta hiện nay, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị mang đầy đủ những đặc điểm của chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tuy rằng trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. mặc dù có nhiều cố gắng như tỉ trọng công nghiệp có tăng song chưa đạt mức mong muốn. Hiện nay, các trang thiết bị kỹ thuật còn thấp, cơ sở vật chất của các doanh nghiệp còn thiếu và phần lớn phụ thuộc vào thế hệ cũ, trang bị chắp vá, lao động thủ công và bán cơ giới còn khá phổ biến nên năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay, nền kinh tế Việt nam nói chung và nền kinh tế đô thị nói riêng đang bước sang một giai đoạn mới về chất, giai đoạn mà sự phát triển theo chiều rộng, đòi hởi nền kinh tế và từng nhóm ngành phải chuyển hướng sang tìm kiếm và khai thác các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Đặc biệt phát triển ngành : điện, xi măng, dịch vụ, công nghệ thông tin, tạo ra sự tăng tốc của công nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó cần phải có yếu tố mới trong quá trình CDKT (thị trường tài chính, luật thu hút đầu tư, tiếp thị công nghệ mới ). Vì vậy, khi tham gia hội nhập chúng ta vấp phải một số khó khăn: thiếu vốn, trình độ công nghiệp thấp kém, lao động có trình độ thấpDo đó cần phải có giải pháp đồng bộ. Việt nam đi vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong thời điểm thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn về kinh tế và chính trị. Lực lượng lao động ngày càng có tính quốc tế hoá cao và sự tác động của khoa học công nghệ mới đã tạo ra công cụ thật sự hữu hiệu, internet, thương mại điện tử đặc điểm này đời hỏi kinh tế phát triển theo hướng mở. Quán triệt đặc điểm này là yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và có hiệu quả . 2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Xác định và thực hiện các phương hướng và biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý Nhà nước về kinh tế về kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải nghiên cứu và phân tích kỹ các nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của thị trường trong nước và quốc tế khẳng định ngay rằng phát triển ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành. Bởi lẽ, phát triển là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường xuất phát từ quan hệ cung cầu, hàng hoá trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của mình. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường KHCN đều tác dộng mạnh mẽ đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự điều tiết của nhà nước: Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trườngcho các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhà nước nắm bắt tình hình của từng thời kỳ, đề ra cơ sở kinh tế tác động một cách đồng bộ đến thị trường. Các nguồn lực và lợi thế so sánh tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững và hiệu quả. Trước hết, việc xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực trên địa bàn thủ đô và trên cả nước. Tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, ngành nước, lâm sản ) và các điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết) phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp, du lịch Tuy vậy, việc khai thác các điều kiện đó để phục vụ cho quản lý và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Do đó, sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên không chỉ có ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu. Dân số, lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, sự tác động của các nhân tố này nên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới là cơ sở quan trọng để phát triển các nhành công nghệ kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản xuất lao động trong các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Đây là một thuận lợi rất lớn đối với thủ đô. Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước nên kết cấu dân cư hợp lý, trình độ dân trí cao có điều kiện để tiếp thu nhiều cái mới. Thứ hai, quy mô dân số và kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Hà Nội có quy mô dân số lớn, mật độ cao và thu nhập ổn định, đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng. Thứ ba, sự phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống, phong tục của địa phương. Vị trí địa lý kinh tế của thủ đô rất thuận lợi khi định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đó là một yếu tố quan trọng để xây dựng một nền kinh tế mới, tăng cường mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Tiến bộ khoa học công nghệ không những tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh trình độ phát triển của một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự chuyển hoá một số ngành công nghiệp non trẻ, công nghiệp tiên tiến, có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai. Tiến bộ khoa học công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao chi phí sản xuất hạ , có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu thay thế nhập khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Như vậy, trong nền kinh tế đô thị có rất nhiều yếu tố tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chúng có phát huy được hêt những lợi thế hay không còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là quy hoạch xây dựng đô thị. II. Hệ thống những khái niệm về quy hoạch xây dựng đô thị 1. Khái niệm quy hoạch xây dựng đô thị Chúng ta đã biết rằng, trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam, các đô thị đã hình thành và phát triển. Cùng với những hình thái xã hội phát triển từ thấp đến cao, các đô thị cũng phát triển tương xứng với nó. Đô thị có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, nó là động lực phát triển của vùng cũng như của cả nước. Từ khi đô thị mới phát triển, con người dù không chủ định nhưng đều chọn một không gian cư chú thích hợp tạo ra một sự cân đối hài hoà để phục vụ cho sản xuất và đời sống của mìnhĐô thị là một thực thể sống động và luôn phát triển, điều khiển sự phát triển đó không đơn giản. Làm sao để cho đô thị phát triển hợp lý, tạo ra hiệu quả kinh tế đô thị cao? Để điều khiển được sự phát triển đô thị, ta cần có quy hoạch để chỉ đạo. Có rất nhiều cách tiếp cận về QHXD đô thị khác nhau, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng: QHXD đô thị là sự sắp xếp, tổ chức, bố trí không gian lãnh thổ dưạ trên những tiền đề sẵn có theo thứ tự ưu tiên, hợp lý. QHXD do nhà nước tổ chức nhằm phát triển kinh tế xã hội của đô thị và bảo vệ môi trường trong đó đảm bảo sự cân bằng nhu cầu sử dụng trong tương lại, giải quyết mối quan hệ giữa nhu cầu con người, tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, QHXD đô thị thường mang màu sắc chính trị. Đối với mỗi giai đoạn, mỗi thể chế chính trị khác nhau , các đô thị được quy hoạch theo ý đồ của các nhà làm quy hoạch là khác nhau. Từ đó tạo ra một không gian khác nhau để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đô thị. Nhưng cùng với thời gian và sự phát triển kinh tế và cũng là xuất phát tù nhu cầu phát triển kinh tế xã hội mà QHXD đô thị phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện. Hiện nay, phát triển đô thị là vấn đề trọng tâm, nó quyết định sự đi lên của đất nước và càng khẳng định cần phải có quy hoạch. QHXD đô thị căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế xã hội của đô thi. Và để đạt được hiệu quả mà quy hoạch mong muốn , vấn đề đặt ra là quy hoạch phải luôn có sự điều chỉnh cập nhập cho phù hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn. 2. Thực tiễn của quy hoạch xây dựng đô thị: Như định nghĩa về QHXD đô thị , mục tiêu của QHXD đô thị nói chung là nhằm phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường đồng thời cân bằng nhu cầu sử dụng giữa hiện tại và tương lai. Như vậy, QHXD đô thị nhằm định hướng chiến lược phát triển những vấn đề chung nhất của đô thị như phát triển dân số, nguồn nhân lực, khu ở, khu nghỉ ngơi, khu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thương mại, cơ sở hạ tầng sao cho chúng phát triển ổ định, cân đối giữa các ngành, các thành phần kinh tế tạo điều kiện phát triển toàn điện đô thị. Trước tiên, QHXD phục vụ đời sống của con người. QHXD đô thị nhằm phát triển đô thị, nó quyết định sự đi lên của đô thị. QHXD dựa trên những những tiền đề của đô thị, đó là vai trò của đô thị trong hệ thống đô thị, nhu cầu của con người, dân số đô thị, các nguồn lực tự nhiên xã hội, cơ sở hạ tầng của đô thị. Từ đó, bố trí không gian một các hợp lý nhằm phục vụ nhu cầu của con người, làm cho con người có nơi làm việc, nơi nghỉ ngơi, giải trí tốt nhất, đi lại thuận tiện nhất. Bằng cách bố trí các công trình nhà, công trình công cộng hợp lý thoả mãn mọi nhu cầu hoạt động của con người. Ngoài ra, nó còn tạo môi trường sống trong sạch, an toàn, tạo điều kiện hiện đại hoá cuộc sống của người dân đô thị, phục vụ cho con người phát triển toàn diện. Sau nữa, QHXD nhằm phát triển kinh tế đô thị. QHXD định hướng tổ chức sản xuất trong đô thị. Trong đô thị có nhiều khu chức năng khác nhau: khu nghỉ ngơi, khu sản xuất. Trong đó, việc bố trí khu sản xuất là đặc biệt quan trọng. Khu sản xuất phải đảm bảo kết cấu hợp lý. Nhu cầu giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thương mại phải được giải quyết một cách tối ưu để có được hiệu quả tốt nhất. Tính hiệu quả đó dựa trên cơ sở những nguồn lực, những điều kiện sẵn có về kinh tế xã hội của đô thị, quy hoạch phát huy được tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực đó. Như vậy, quy hoạch đô thị từ việc nhằm tổ chức khu sản xuất đã góp phần tạo ra một cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lý. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện nay. 3. Các bước của quá trình quy hoạch xây dựng đô thị. Chúng ta đă biết các mục tiêu của QHXD đô thị, mục tiêu đó là khoa học và đúng đắn. Song, để đạt được mục tiêu đó phải là gì? QHXD đô thị được xây dựng là một quá trình bao gồm các công việc cần thiết hay nói cách khác, nó phải thực hiện theo các bước nhất định. Vậy để QHXD đô thị thực sự đạt được hiệu quả, khi tiếp hành lập QHXĐ đô thị phải trải qua các bước: Bước đầu tiên và quan trọng trong quá trình QHXD đô thị là bước thu thập thông tin. Nó quan trọng bởi khi cần giải quyết một vấn đề gì, trong bất cứ một lĩnh vực nào đều cần phải xuất phát từ thông tin. Đặc biệt, trong QHXD lại càng trở lên quan trọng. Vấn đề trong QHXD cần giải quyết có thể là vấn đề đang bất cập cần phải giải quyết hoặc là giải quyết một vấn đề nảy sinh. Để giải quyết vấn đề đó cần phải thu thập thông tin trên mọi khía cạnh. Đó là thực trạng của vấn đề, sự cần thiết phải giải quyết cũng là yêu cầu cụ thể đạt ra để giải quyết nó. Việc tổng hợp, thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng nói chung những thông tin đó đều xuất phát từ yêu cầu của con người đối với cuộc sống và phát triển kinh tế, xã hội. Việc đưa ra thông tin chính xác là quan trọng, đó là điều kiện tiên quyết quyết định tới sự thành công của quy hoạch. Sau khi các nhà quy hoạch thu thập thông tin và tổng hợp những thông tin đó, bước tiếp theo là tìm ra mục tiêu. Mục tiêu đưa ra để giải quyết vấn đề, nhưng những mục tiêu đó cũng có sự ưu tiên, lựa chọn dựa trên tính bức thiết của vấn đề. Việc đưa ra mục tiêu cũng cần có sự lựa chọn căn cứ vào điều kiện thực tế của kinh tế, xã hội. Mục tiêu trong quy hoạch không những giải quyết vấn đề trước mắt đưa ra mà cần phải tính toán đến tính lâu dài trong tương lai. Việc xác định mục tiêu phù hợp là là có ý nghĩa quan trọng, mục tiêu không vụn vặt cũng không quá xa dời thực tế Quy hoạch có hoạch định chiến lược không gian kinh tế được hay không là do mục tiêu đặt ra như thế nào. Mục tiêu trong giải quyết vấn đề đưa ra phải được đặt trong mục tiêu chung của quy hoạch là tạo ra sự cân đối hài hoà trong kết cấu tổ chức không gian đô thị. Nếu thực hiện được mục tiêu này, đó sẽ là cơ sở để định hướng đầu tư đối với các ngành, các lĩnh vực kinh tế trong đô thị. Đồng thời mục tiêu nàycũng là cơ sở để lựa chọn các phương án đưa ra sau này. Nhưng mục tiêu đưa ra này cần phải được thông qua các cấp có thẩm quyền, các nhà chuyên môn. Sau khi các mục tiêu đã được thông qua, nhà quy hoạch phải đưa ra các phương án nhằm giải quyết các vấn đề hướng tới mục tiêu đó. Nhưng ta cần lựa chọn một phương án tối ưu trong số các phương án được lập. Một phương án được đánh giá là tối ưu dựa vào rất nhiều chỉ tiêu khác nhau. Các chỉ tiêu này lại phụ thuộc vào các phương án quy hoạch. Tuỳ theo từng phương án quy hoạch đã lựa chọn thích hợp trước đó sẽ tương ứng với nó là một hệ quy chiếu mà ta làm cơ sở để lựa chọn phương án đưa ra Từ trước đến nay chúng ta phải sử dụng phương án quy hoạch kết cấu mà hệ quy chiếu của nó là kết cấu phải phù hợp. Phướng pháp này coi trọng sự cân bằng trong kết cấu khu ở, nghỉ ngơi, sản xuất Nếu phương án đưa ra có kết cấu phù hợp, quy hoạch được xem là thành côngTrong thời kỳ công nghiệp hoá, để hướng tới phát triển kinh tế, chúng ta nên tính đến tính hiệu quả năng suất của phương án quy hoạch tức là quan tâm đến tính hiệu quả kinh tế và tính khả thi của phương án. Khi dùng tiêu chí này, ta sẽ đạt được mục tiêu về kinh tế của quy hoạch nói chung. Vấn đề ở chỗ là lựa chọn được phương án có hiệu quả nhất. Nhưng người lựa chọn phương án dù không mong muốn cũng có tính chủ quan. Vì vậy, để phương án đưa ra giải quyết vấn đề được triệt để, người lựa chọn phương án cần có một kiến thức sâu và toàn diện. Nhưng để xem xét rằng phương án đưa ra là tối ưu và hợp lý, cần phải lấy ý kiến. Điều này đảm bảo tính khách quan cũng như dân chủ trong giải quyết vấn đề. Thực hiện lấy kiến là cần thiết để vấn đề giải quyết theo hướng gần với cuộc sống và sản xuất, phục vụ được nhu cầu của con người. Nếu vấn đề trong đó cần phải xử lý ý kiến để có một phương án hoàn chỉnh. Bước cuối cùng và cũng là bước quan trọng để giải quyết phương án đã lựa chọn có được thực hiện hay không, đó là bước thẩm định để đưa ra quyết định. Bởi vì góc độ nhìn nhận của người xây dựng phương án và người quản lý là khác nhau. Bước thẩm định đảm bảo tính khách quan và hợp lý và đối chiếu với mục tiêu chung phù hợp. Việc thẩm định và đưa ra quy định phê duyệt mang tính chất pháp lý đối với việc thực hiện phương án đã lựa chọn. Các bước của quá trình QHXD đô thị được xây dựng ở trên là để đảm bảo tính hiệu quả và thành công của quy hoạch. Vì vậy, nó cần phải được tuân thủ trong quá trình quy hoạch. 4. Quản lý quy hoạch xây dựng đô thị: 4.1. Khái niệm quản lý quy hoạch đô thị Chúng ta đã biết rằng mục tiêu của QHXD đô thị là đúng đắn đó là nhằm tạo tiền đề ban đầu cho sự phát triển kinh tế đô thị. Song giữa mong muốn đưa ra và thực tế bao giờ cũng có khoảng cách. Do đó vấn đề là cần phải giải quyết khoảng cách đó. Vậy để thực hiện mục tiêu đã đật ra thì công tác QHXD đô thị cần có sự quản lý. Công tác quản lý QHXD đô thị là một tất yếu để quy hoạch phục vụ cuộc sống. Ta có thành công trong quản lý QHXD, mới có thể coi QHXD thành công. Quản lý QHXD là tổng thể các biện pháp, cách thức là chính quyền đô thị vận dụng các công cụ quản lý để tác động vào các hoạt động xây dựng và phát triển đô thị (chủ yếu là phát triển không gian vật thể ) nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Nội dung của công tác quản lý QHXD đô thị bao gồm quản lý công tác lập và xét duyệt QHXD đô thị và quản lý thực thi xây dựng theo quy hoạch. Quản lý QHXD đô thị là công việc của cơ quan nhà nước thuộc các đô thị. Trong xây dựng, các cơ quan nhà nước cần có kế hoạch cụ thể hoá các bước thực hiện cho cấp dưới đảm bảo xây dựng theo quy hoạch và có kế hoạch, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, sức người là của cải xã hội. Nội dung đầu tiên của quản lý QHXD đô thị là quản lý công tác lập và xét duyệt QHXD đô thị. Mục đích của công tác này là nhằm xác lập cơ sở pháp lý và kế hoạch cho việc quản lý phát triển đô thị, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sản phẩm của quy hoạch là các đồ án quy hoạch: như vậy ta phải quản lý để đảm bảo cho các đồ án QHXD đô thị có chất lượng tốt. Muốn vậy, đồ án QHXD đô thị phải do các tổ chức chuyên môn được nhà nước công nhận, phải tuân thủ các tiêu chuẩn quy phạm, quy trình kỹ thuật của nhà nước và các đồ án quy hoạch này. Sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt mới được sử dụng. Đồ án QHXD đô thị là cơ sở pháp lý để quản lý đô thị, tiến hành công tác đầu tư xây dựng, lập kế hoạch cải tạo, xây dựng hàng năm, ngắn hạn và dài hạn thuộc các ngành và địa phương. Các đồ án QHXD đô thị khi đã được phê duyệt cần phải được công khai cho dân cư đô thị biết và thực hiện. Trong quá trình thực hiện các đồ án quy hoạch cần bổ sung, xem xét và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế phát sinh và phát triển đô thị mà trong quy hoạch chưa lường hết được. Công tác này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Một vấn đề cần quản lý là quản lý quá trình thực thi quy hoạch. Một đồ án quy hoạch có chất lượng tốt nhưng nếu nó không được quản lý trong thực thi, không đem lại kết quả như mong muốn. Vấn đề quản lý là sao cho việc xây dựng phải tuân theo quy hoạch. Để tránh tình trạng xây dựng tự phát lấn chiếm đất xây dựng không theo quy hoạch cần có sự quản lý của cơ quan quản lý đô thị. Trước hết, để đảm bảo quản lý tốt , các đồ án QHXD đô thị đã được phê duyệt , phải phổ biến cho dân chúng biết và thực hiện. Đồng thời, phải ban hành luật xây dựng làm cơ sở pháp lý để quản lý quy hoạch. Để quản lý QHXD đô thị có hiệu quả thì chính quyền đô thị sử dụng các công cụ quản lý của mình bao gồm các công cụ hành chính, công cụ kinh tế và các văn bản pháp luật, các quy định. Thông qua các công cụ này thì nhà quản lý buộc các chủ thể xây dựng phải chấp hành. 4.2. Mục tiêu và các yêu cầu của công tác quan lý QHXD đô thị. Quản lý QHXD đô thị có nhiều mục tiêu, nhưng nếu xét trên nội dung quản lý QHXD đô thị thì có thể nói rằng quản lý QHXD đô thị có hai mục tiêu chung: Quản lý trước hết trong QHXD đô thị là quản lý quá trình lập và xét duyệt đồ án QHXD đô thị, chúng ta phải quản lý đảm bảo sao cho các đồ án quy hoạch được lập phải dựa theo một quy trình khoa học, quy trình trong công tác quy hoạch. Quy trình này phải tuân theo các bước, các công đoạn trong lập đồ án. Từ bước nghiên cứu đến lập phương án quy hoạch điều đó đảm bảo đồ án quy hoạch gần với thực tiễn là quan trọng, nó phải có chất lượng và tính khả thi dựa trên cơ sở khoa học. Đây là bước quan trọng trong QHXD đô thị. Nếu đạt được mục tiêu này, đây sẽ là cơ sở, là điều kiện đầu tiên để từ đó để QHXD ở giai đoạn sau. Nếu quản lý tốt, sẽ là nền tảng để thực thi mục tiêu của QHXD đô thị. Nhưng nếu chỉ đạt được một đồ án QHXD có chất lượng, quy hoạch chưa thể là thành công. Như vậy mới chỉ là thành công trên phương diện lý thuyết. Vì vậy, chúng ta cần phải quản lý quá trình thực thi QHXD đô thị, để đảm bảo sao cho ý đồ định hướng thể hiện trong đồ án được thực hiện. Có đạt được mục tiêu này, quy hoạch mới thực sự phát huy tác dụng của mình trong việc tạo nền tảng phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng tốt, bố trí không gian phát triển các ngành hợp lý theo định hướng chung mà đồ án đã cụ thể hoá. Muốn đạt được mục tiêu QXHD trên, chúng ta cần có một thể chế pháp luật, quy chuẩn quy định và một bộ máy quản lý hợp lý có hiệu quả. Đó là cơ sở pháp lý và điều kiện để thực hiện việc quản lý QHXD đô thị. Đồng thời, công tác quản lý QHXD cũng được đặt ra theo yêu cầu trong quá trình quản lý QHXD đô thị là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất trong công tác quản lý đô thị nhằm hình thành và phát triển đô thị cũng như phát triển kinh tế đô thị. Quản lý đô thị là một tổ chức từ trên xuống, được phối hợp giữa các cơ quan chức năng và cơ quan chuyên ngành. Việc phối hợp gắn kết giữa các cơ quan khác nhau, sẽ đảm bảo trách nhiệm được phân công, phân cấp rõ ràng chồng chéo. Mặt khác, để quản lý QHXD đô thị cần có một hệ thống văn bản pháp luật, quy định hướng dẫn việc quản lý theo pháp luật và theo quy hoạch. Hơn nữa, trong quy trình quy hoạch, việc sử dụng các công cụ quản lý hành chính, kinh tế cũng như các văn bản pháp luật của cơ quan quản lý phải có sự đồng bộ thống nhất trong cả nước và trong các đô thị để nâng cao tính hiệu lực. Nhưng trong việc thực thi các công cụ đó chúng ta cần có sự linh hoạt. các quy định cần phải thay đổi điều chỉnh phù hợp với các yêu cầu cần quản lý và thực tế xây dựng trong đô thị. Một yêu cầu rất quan trọng là công tác tổ chức trong bộ máy quản lý công tác này là tạo ra một cơ chế có tính pháp lý cao phối hợp được các bộ phận tham gia quản lý. Vì vậy, ta cầ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3662.doc
Tài liệu liên quan