MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUY LUẬT TRÁ TRỊ VÀ CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN 2
1. 1. Quy luật giá trị và các vấn đề có liên quan 2
1.1.1. khái niệm giá trị hàng hoá 2
1.1.2. Quy luật giá trị – quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. 2
1.1.3. Mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng hoá. 2
1.1.4. Các quy luật có liên quan và mối quan hệ của chúng với quy luật giá trị. 4
1.2. Vai trò của quy luật giá trị. 7
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ 9
PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
2. 1. Khái niệm và đặc trưng của nền kinh tế thị trường 9
2. 1. 1. Quá trình lưu thông vận chuyển được thực hiện chủ yếu bằng 9
phương thức mua bán với phạm vi ngày càng mở rộng, từ quốc gia tới khu vực và quốc tế.
2. 1. 2. Người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao đổi trên thương trường. 10
2.1.3. Hoạt động mua bán phải được thực hiện thường xuyên ổn địmh trên cơ 10
sở một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua bán diển ra thuận lợi an toàn. 10
2.1.4. Nền kinh tế hiện đại bao gồm những doanh nhân biết thống nhất
mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị – xã hội nhân văn 10
2.1.5. Có sự quản lý của nhà nước. 11
2. 2. Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN về bản chất và cấu trúc. 11
2. 2. 1. Mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 14
2. 2. 2. Vai trò của quy luật giá trị trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. 14
2. 2. 3. Thực trạng quá trình hội nhạp kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua và triển vọng những năm tới. 19
2.3. Một số vấn đề sản xuất hàng hoá và quy luật giá trị trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở việt nam. 24
2. 3. 1. Chuyển sản xuất nông nghiệp sang kinh tế hàng hoá là yêu cầu to lớn của phương thức sản xuất hàng hoá ở một nước tiến lên từ nền sản xuất nhỏ. 24
2. 3. 2. Gắn chặt quá trình sản xuất hàng hoá XHCN với 3 quá trình cách mạng XHCN là quy luật hình thành và phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta. 26
2. 3. 3. Gắn với phân công hộp tác nhà nước XHCN là đặc điểm thời đại và là điệu kiện phát triển nhanh chóng sản xuất hàng hoá XHCN ở nước ta. 27
2. 3. 4. Phát huy tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế phi XHCN. 28
2. 3. 5. Cần nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực. 29
2. 3. 6. Cần nâng cao vai trò quản lý của nhà nước. 29
2. 3. 7. Một số giải pháp giải quyết mâu thuẫn nãy sinh giữa việc phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường với sự phân hoá giàu nghèo dưới tác dụng của quy luật giá trị. 29
2. 4. Bài học kinh nghiệm từ Trung quốc 25 năm cải cách và phát triển thành tựu và triển vọng 35
2. 4. 1. Những thành tựu chủ yếu đạt được trong 25 năm qua về kinh tế do áp dụng quy luật trị một cách có hiệu quả. 35
2. 4. 2 Triển vọng của tình hình Trung Quốc trong những thập niên đầu của thế
kỷ mới. 37
KẾT LUẬN. 39
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2439 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của quy luật giá trị đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải của nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân\, nghành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong dó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hoá, chuyên môn hoá lực lượng sản xuất cũng được phát triển.
b/ Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Việc chuyển từ chế độ tầp trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự hạch toán, không bị ràng buộc quá đáng bởi các chỉ tiêu ssản xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì. Mặt khác, cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA, WTO; mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão táp của qúa trình hội nhập quốc tế ập đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nươc, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa các cá nhân trong nước với cá nhân trong nước, giữa cá nhân trong nước với cá nhân nứoc ngoài (cũng có thể coi đây là hệ quả tất yếu của sự phát triển của lực lượng sản xuất)
c/ Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình một con đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doánhao cho tạo nên sự sản xuất hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau,các con đường đó luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh năng dộng sẽ làm cho sản phẩm hàng hoá đa dạng về mẫu mã, nhiều về số lượng, cao về chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lơi ích cho người tiêu dùng. Sự năng động còn thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Bởi vì, việc phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để ssản xuất ra nhiều hàng hoá thu lợi nhuận(lơi nhuận siêu ngạch, lơi nhuận độc quyền) hay nang cao trình độ ssản xuất trong một ngành, một lĩnh vực nhất định.
d/ Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận. Sự đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa. Do tốc độ phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc hậu; do sự phân bố tài nguyên khác nhau nên nước này có điều kiện sản xuất cía này, nước kia có điều kiện sản xuất cái kiavà tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự chuyên môn hoá, hiệp tác hoá sản xuất để có chi phí sản xuất thaaps và tuân theo sự điều tiết của quy luật giá trị, chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá cả thấp, và do đó thắng trên thương trường.
e/ Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Xã hội hoá kinh tế và hội nhập kinh tế đã hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý về nghành cũng như trên địa bàn lãnh thổ, giải quyết mối quan hệ về lơi ích phát triển giữa toàn cục với bộ phận, đầu tư có trọng điểm ở từng thời kỳ và gắn với thị trường thế giới. Các thành phần kinh tế được động viên tham gia kinh tế đối ngoại theo sự quy định và phân công hợp lý, lấy sản xuất làm khâu trọng tâm. Tất cả các tác động tích cực trên được thể hiện rất rõ trong thực tế:Một là:thể hiện ở sự gia tăng đội ngũ giáo sư, tiến sĩ, đội ngũ kỹ sư, công nhân lao động lành nghề. Số lao động có trình độ đại học, cao đẳng ngày càng gia tăng. Việc các nghiên cứu sinh Việt Nam đoạt các giải cao ở nước ngoài và các cuộc thi quốc tế ngày càng nhiều. Máy móc trang thiết bị cũng ngày càng được nâng cao về chất lượng. Chủ trương đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong sinh viên đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuât đã dẫn tới sự trao đổi quốc tế về lao động. Thực tế nước ta: Những năm 80 trở về trước, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu lao động lành nghề sang Liên Xô cũ và Đông Âu, đến nay vẫn còn khoảng 300 ngàn lao động ở lại. Hiện nay, thị trường xuất khẩu lao động đã mở rộng sang các nước khác: Hàn Quốc và một số nươc châu á. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn sẽ là nước thừa lao động nên sẽ là một thị trường xuất khẩu sức lao động trong khu vực. Thị trường nhập khẩu lao động Việt Nam ở Lào, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan Li Bi, trong đó thị trường Đài Loan vẫn đang cần khá nhiều lao động nữ cho các công việc nội trợ gia đình, chăm sóc người già và trẻ em. Ngành lao động đang tập trung nghiên cứu phát triển thị trường Nga và các nước Đông Âu, khu vực Đông Nam á, Thái Bình Dương, Trung Đông và châu Phi, từng bước tiếp cận thị trường Mỹ và Bắc Mỹ. Chính phủ đang rất coi trọng việc duy trì và đẩy mạnh công tác xuất khẩu sức lao động. Quản lý việc xuất khẩu sức lao động được giao cho cục quản lý lao động với nước ngoài thuộc Bộ lao động thương binh-xã hội. Năm 2000, cả nước có 159 doanh nghiệp được cấp phép tuyển lao động xuất khẩu, trong đó có 81 doanh nghiệp Trung Ương, 62 doanh nghiệp địa phương, 13 doang nghiệp đoàn thể và 3 doanh nghiệp tư nhân. Đã đưa được 31. 468 người đi lao động nước ngoài. Kế hoạch đến năm 2005 sẽ có 50 vạn lao động ở nước ngoài và đến năm 2010 là 1 triệu lao động ở nước ngoài. Đây là cơ hội cho người lao động Việt Nam.
Tuy nhiên, thị trường tiếp nhận lao động ở nước ngoài đã có những thay đổi cơ bản đòi hỏi ngày càng cao hơn về chất lượng lao động: đó là trình độ nghề, ngoại ngữ, ý thức kỷ luật, tôn trọng pháp luật…Vì vậy cục quản lý lao động với nước ngoài bước đầu đã quy hoạch 24 trường đào tạo công nhân kỹ thuật của nhà nước, 20 trường và các trung tâm đào tạo của các doanh nghiệp được đoà tạo xuất khẩu với điều kiện chỉ được phép thực hiện khi có các hợp đồng cung ứng lao động với nước ngoài.
Nhưng hướng trong trao đổi quốc tế sức lao động ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI: ngoài việc mở rộng quan hệ quốc tế để tăng cường xuất khẩu sức lao động, còn phải tiếp tục sử dụng các chuyên gia, giúp nâng cao trình độ cán bộ quản lý, hỗ trợ các nhà khoa học làm chủ công nghệ nhập khẩu và tiếp cận nhanh chóng với khoa học công nghệ tiến bộ trên thế giới. Hai là: Sự phát triển đa dạng của các loại hàng hoá với trên 700 mặt hàng, 100 mặt hàng trao đổi chủ yếu. Kim ngạch xuất khẩu ngày tăng. Năm 1990 là 2004 triệu USD thì đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu đạt 14308 triệu USD, tăng 5,9 lần. Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng nhanh, trong đó kim ngạch xuất khẩu dầu thô tăng từ 2617 nghìn tấn năm 1990 lên 12145 nghìn tấn năm 1999 và là một trong mười mặt hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam. Tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng trong đó kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may tăng nhanh. Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp có xu hướng giảm và trong số đó, gạo và cà phê là hai mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng nhanh. Tỷ trọng các sản phẩm chế tạo, chế biến để xuất khẩu tăng. Trong thời gian gần đây, việc tập trung vào sản xuất, chế biến thuỷ sản đang là mũi nhọn của chúng ta. Ba là: tính cho đến năm 2000, ta đã quan hệ ngoại giao với 160 nước, quan hệ kinh tế với 150 nước. Vốn đầu tư vào nước ta trực tiếp hoặc gián tiếp xét theo một quá trình dài đã tăng lên đáng kể. Ta đã nhận viện trợ từ ngân hàng thế giới, chương trình hỗ trợ phát triển của liên hợp quốc …
Theo bản tin về nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, các chương trình tài trợ trung hạn cho Việt Nam như sau: Ban giám đốc ngân hàng thế giới đã thông qua “chiến lược hỗ trợ quốc gia Việt Nam giai đoạn 2003-2006” với mức vay trung bình 500-800 triệu USD/ năm triển châu á (ADB) đã hoàn thành việc xây dựng dự thảo “chương trình tài trợ của ADB thời kỳ 2003-2005” ADB dự kiến sẽ cho Việt Nam vay từ quỹ phát triển châu á AD;Sau một quá trình thảo luận với các cơ quan hữu quan của Việt Nam, ngân hàng phát F bình quân mỗi năm là 240 triệu USD để thực hiện 13 dự án trong các lĩnh vực giao thông, nông nghiệp, điện, tài chính, giáo dục và y tế.
2. 2. 3. Thực trạng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam những năm qua và triển
Hoạt động của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế luôn là một chủ đề nóng hổi bởi vì trước hết, các doanh nghiệp là nền tảng của nền kinh tế quốc gia và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trực tiếp tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, việc nắm vững các cam kết hội nhập hiện nay của Việt Nam và triển vọng của quá trình trong tương lai có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp, vì nó là cơ sở để các doanh nghiệp định hướng chiến lược phát triển và kế hoạch hoạt động phù hợp với tình hình đan xen giữa các cơ hội và thách thức, đặc biệt là sự cạnh tranh ngày càng tăng từ nhiều phía ngay cả trên thị trường trong nước. Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam thực sợ bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới, được đại hội Đảng bộ lần \/I khởi xướng. Đây là quá trình từng bước tiến hành tự do hoá các hoạt đọng kinh tế, mở cửa thị trường và tham gia vào các tổ chức, thể chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có nghĩa là chúng ta từng bước tháo gỡ những chói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, mử cửa và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nớc ngoài vào làm ăn, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào thuế quan và các rào cản khác để việc trao đỏi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, lao động …giữa Việt Nam và các nước được dễ dàng, phù hợp với quy định của các tổ chức, thể chế kinh tế khu vực và thế giới va Việt Nam tham gia. Đồng thời Việt Nam đã tiến hành đổi mới kinh tế trong nước, mở rộng và phát triển kinh tế thương mại với các nước. Đến nay, Việt Nam đã ký trên 70 hiệp định thương mại song phương, trong đó, đáng chú ý và toàn diện nhất là Hiệp định thương mại Việt –Mỹ ký năm 2001. Việt Nam đã lần lượt tham gia vào nhiều tổ chức, thương mại quốc tế: Bước phát triển có tính đột phá của quá trình này là Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN trong các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin….
Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thứccủa Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á -Thái Bình Dương(APEC)-Khối kinh tế khu vực lớn nhất thế giới, chiếm hơn 80% kim gạch buôn bán, gần 2/3 đầu tư và hơn 50% viện trợ nước ngoài (ODA) của Việt Nam.
Tháng12/1994,Việt Nam gửi đơn xin gia nhập tổ chức Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT), tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và năm 1995 đã chính thức gia nhập WTO – một tổ chức thương mại toàn cầu với 145 thành viên, hiện kiểm soát trên 90% tổng giá trị giao dịch thế giới. Cho đến nay, Việt Nam đã tiến hành nhiều bước theo yêu cầu của WTO, họp 5 phiên với nhóm Xộng tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, hoàn thành giai đoạn diễn giải, minh bạch hoá chế độ thương mại của ta. Việt Nam đã chuyển ban thư ký WTO bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ và bắt đầu tiến hành giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các thành viên WTO.
Đầu năm 2002,Việt Nam cùng các nước ASEAN tiến hành đàm phán với Trung Quốc về thành lập khu vực tư do ASEAN -Trung Quốc.
Đầu tháng 11/2002 vừa qua, các nước ASEAN vàTrung Quốc đã ký hiệp định khung về Hợp tac kinh tế hai bên, trong đó quy định những nguyên tắc cơ bản của khu vực mậu dịch tự do này.
Tháng 12/2002, tại Brunei,các nước ASEAN và CER(úc và Niudilân) đã ký tuyên bố chung thiết lập Đối tác kinh tế gần gủi(CEP) giữa hai bên. Các nhà đàm phán của các nước ASEAN và CER sẽ tiếp tục đàm phán cụ thể hoá các cam kết của đối tác kinh tế gần gũi này trong thời gian tới: Với Nhật Bản, tại hội nghị cấp cao ASEAN –Nhật Bản ở Campuchia đầu tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN và Nhật Bản đã nhất trí thiết lập đối tác kinh tế toàn diện, trong đó bao gồm cả một khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Nhật Bản, dự kiến sẽ được thành lập sớm, co thể là trước cả khu vực mậu dịch tự do ASEAN -Trung Quốc;Với Mỹ, vừa qua tại hội nghị cấp cao ở Mehico(tháng 10/2002) Tổng thống Mỹ đã đưa ra “Sáng kiến vì sự năng động ASEAN” nhằm thắt chặt quan hệ hợp tác giữa Mỹ và ASEAN thông qua việc từng bước ký các hiệp định thương mại tự do song phương với từng nước ASEAN;Bên cạnh việc tham gia liên kết kinh tế song phương như đã nêu trên, trong những năm qua, Việt Nam cũng đồng thời tham gia vào các liên kết kinh tế tiểu vùng như lưu vực Mêkông mở rộng (GMS). Hành lang Đông Tây(WEC). Tam giác phát triển Việt Nam –Lào –Campuchia…
Như vậy Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là một tiến trình từng bước từ thấp đến cao, diễn ra trên cả phương diện đơn phương, song phương và đa phương, lồng ghép các phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực gồm hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… Cho đến nay, các cam kết hội nhập chủ yếu của Việt Nam gồm những nội dung cơ bản sau:
a, Về cắt giảm thuế quan
Trong AFTA: Bắt đài thực hiện giảm thuế quan vào năm 1996; về cơ bản đưa mức thuế xuất suống còn 0-5% vào năm 2005 đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN và đạt được 100% số dòng thuế ở mức 0% vào năm 2015. Trong APEC: về cơ bản thực hiện mức thuế suất suất 0% vào năm 2000. Hiệp định Việt Mỹ: Cắt giảm thuế quan đối với khoảng 400 dòng thuế theo những lộ trình khác nhau. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN –Trung quốc: Theo chương trình thu hoạch sớm thì bắt đầu từ năm 2004, việt Nam sẽ thực hiện cắt giảm thuế quan nhanh đối với mặt hàng cam, quýt của Trung Quốc vào Việt Nam, trong khi đó, tất cả các mặt hàng nông sản Việt Nam xuất sang Trung Quốc nằm trong chương trình từ 1-9 của biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam hiện nay sẽ được hưởng nhân nhượng về thuế quan nhành của Trung Quốc.
b, Về chi phí
Trong AFTA: Đến năm 2006, về cơ bản Việt Nam hoàn toàn xoá bỏ các hạn chế về định lượng đối với hàng hoá nhập khẩu từg các nước ASEAN và tiến tới xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan khác;Bắt đầu từ năm 2002 thực hiện hiệp định đánh giá giá trị hải quan của WTO; Từng bước thực hiện việc đơn giản hoá, thuận lợi hoá và thống nhất các thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu. Trong APEC: Từng bước tiến hành xoá bỏ về cơ bản hàng rào phi thuế quan vào năm 2002. Hiệp định Việt –Mỹ: Việc xoá bỏ các hàng rào phi thuế được thực hiện theo những lộ trình cụ thể đối với trên 200 sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam.
c, về dịch vụ
Việt Nam đã cam kết thực hiện tự do hoá đối với nhiều lĩnh vực dịch vụ theo các lộ trình cụ thể khác nhau, cả trong ASEAN,APEC, Hiệp định Việt -Mỹ. Nhìn chung, Việt Nam sẽ từng bước mở cửa thị trường và dành đối xử, bình đẳng đối với các dịch vụ cũng như các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ.
d, Về đầu tư
Việt Nam cũng đã có những cam kết cả trong khuôn khổ ASEAN, APEC, Hiệp định Việt -Mỹ. Về mở cửa thị trường Việt Nam cho các nhà đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, thực hiện các biện pháp tự do hoá và thuận lợi hoá đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và tiến tới dành cho các nhà đầu tư như nước ngoài quy chế đãi ngộ quốc gia.
e, Về sở hữu trí tuệ
Những cam kết của Việt Nam dựa căn bản trên các nguyên tắc của Hiệp định TRIPS và các công ước của WIPO. theo đó, Việt nam Sẽ phải tôn trọng và thực hiện bảo hộ các quyền và bản quyền tác giả, bằng phát minh sáng chế, thương hiệu, thiết kế, kiểu dáng công nghiệp, giống vật nuôi cây trồng…
f, Về công khai hoá
Việt Nam phải công khai hoá các chính sách, luật lệ, quy định về chế độ thương mại, thủ tục hành chính có liên quan và bảo đảm cho mọi người có thể tiếp cận một cách có thuận lợi và dễ dàng các thông tin đó. Những gì Việt Nam đã cam kết và thực hiện trong những năm qua được kiểm nghiệm là đúng, cơ bản phù hợp với xu thế và điều kiện thực tế Việt Nam, do vậy đã đóng góp quan trọng vào những thành tựu kinh tế –xã hội to lớn của đất nước. Trước sự gia tăng của xu thế toàn cầu hoá trong những năm tới, tiến trình hội nhập của kinh tế quốc tế của Việt Nam sẽ tiếp tục có những phát triển mới cả về bề rộng lẫn bề sâu. Trong ASEAN, quá trình tự do hoá sẽ được thúc đẩy lên mức cao hơn và rộng hơn về phạm vi và lĩnh vực, nhằm biến ASEAN không chỉ thành một khu vực mậu dịch tự do mà còn là một thị trường chung, một cộng đồng kinh tế tương lai. ASEAN cũng sẽ phát triển mạnh hơn các mối liên kết kinh tế với các đối tác ngoài khu vực để hình thành những khối liên kết kinh tế lớn hơn như các khu vực mậu dịch tự do ASEAN –Trung Quốc, ASEAN –Nhật Bản như đã được các lãnh đạo các nước này nhất trí. Có thể trong tương lai, sẽ hìng thành và phát triển các liên kết kinh tế sâu giữa ASEAN-Mỹ, ASEAN-CER, ASEAN-ấn Độ, ASEAN-EU, ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-NAFTA, ASEAN-MERCOSUR…không loại khả năng sẽ hìng thành một khu vực mậu dịch tự do thống nhất cho toàn bộ khu vực đông á.
Song hành với tiến trình hội nhập khu vực đó,Việt Nam sẽ tích cực chuẩn bị và đàm phán gia nhập WTO (mục tiêu là cố gắng trước khi kết thúc Vòng Đô-ha vào 2005). Ngoài ra Việt Nam cũng thúc đẩy các liên kết kinh tế song phương trên cở sở các hiệp định mậu dịch tự do song phương với các nước, đồng thời tiếp tục tăng cường liên kết kinh tế vùng. Tiến trình hội nhập kinh tế đa diện, đa lộ trình như vậy sẽ tạo ra các doanh nghiệp những cơ hội, thuận lợi đan xen với những thách thức, rủi ro cần được nhận dạng rõ để chủ động nhận dạng và đối phó.
* Các cơ hội thuận lợi chủ yếu là:
Thứ nhất: Có thể tiếp cận được với những thi trường rộng lớn hơn với những ưu đãi thương mại (giảm thuế quan và phi thuế,quy chế MNF, NT, GSP) để tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và cung ứng được nguồn nguyên nhiên liệu, thiết bị với giá cạnh tranh;Thứ hai: cơ hội tiếp thu công nghệ mới, phương thức quản lí tiên tiến để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh;Thứ ba, cơ hội cho việc phát triển quan hệ đối tác với nước ngoài;Thứ tư, khả năng tiếp cận tốt hơn các nguồn tài chính, tín dụng đa dạng cả trong lẩn ngoài nước để tăng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; thứ năm: thông qua cọ xát, cạnh tranh, học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm, tri thức, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ nhân lực; Thứ sáu: nhìn chung các doanh nghiệp được hưởng nhiều lợi ích quan trọng từ quá trình tự do hoá và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng hơn.
* Các thách thức, rủi ro chính bao gồm:
Thứ nhất: Nguy cơ phá sản hoặc chuyển đổi sản xuất kinh doanh do năng lực canh tranh kém. Nhiều doanh nghiệp của Việt Nam phải đối mặt với thách thức nghiêm trọng này, bởi vì phảỉ cạnh tranh trong điều kiện hết sức khó khăn, cả từ phía bản thân các doanh nghiệp ( quy mô nhỏ, thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, quản lý kém, hàng hoá sản phẩm thiếu sức cạnh tranh…) lẫn từ phía nhà nước ( môi trường chính sách vĩ mô, hệ thống luật pháp, việc thực thi và năng lực của đội ngũ cán bộ có nhiều bất cập);
Thứ hai: Phải chịu nhiều phí tổn hơn về giao dịch, tư vấn tiếp thị, quảng cáo, đào tạo…
Thứ ba: Có nhiều rủi do khi hoạt động trên thị trường nước ngoài, nhất là trong điều kiện không hiểu rõ chính sách, luật lệ, thủ tục, và cách thức làm ăn tại thị trường đó và các đối tác nước ngoài (khả năng bị lừa đảo, xử sự bất lợi trong các vụ tranh chấp…
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết và tất yếu để phát triển trong một thế giới toàn cầu hoá. Đây là một quá trình đan xen của những cơ hội và cách thức. Các doanh nghiệp cần nhận thức rõ về qúa trình này, nắm bắt kỹ các cam kết và lộ trình hội nhập để chuẩn bị vào cuộc một cách chủ động.
2. 3. Một số vấn đề về sản xuất hàng hoá và quy luật giá trị trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
2.3.1. Chuyển sản xuất nông nghiệp sang kinh tế hàng hoá là yêu cầu to lớn của phát triển sản xuất hàng hoá ở một nước tiến lên từ nền sản xuất nhỏ
Đặc điểm lớn nhất của nuớc ta là nền kinh tế dang vận động từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; xét về phương diện sản xuất hàng hoá thì đó chính là quá trình vận động từ sản xuất hàng hoá giản đơn lên sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Quá trình đã làm cho những mâu thuẫn vốn có của sản xuất hàng hoá trở lên gay gắt. sự thống trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã làm tăng trưởng hết sức nhanh chóng nhiều nhu cầu không chỉ nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân mà cả nhu cầu cho xây dựng. ở miền nam, do ảnh hưởng của thực dân mới còn tồn tại, nhu cầu của một số thành phố, khu công nghiệp rất lớn và phức tạp, nhưng tăng lên nhanh chóng trong lực lượng sản xuất, quan hệ cung cầu mất cân đối, đặc biệt là cân đối về năng lượng, nguyên liẹu, công cụ lao động là những thành tố cơ bản của nền kinh tế những mất cân đối nay làm tăng mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá, hàng hoá đã thiếu lại còn xấu và đắt llại không tập trung vào kế hoạch lưu thông càng làm mâu thuẩn giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá từng nơi, từng lúc rất phức tạp, đây chính là nguyên nhân cơ bản về biến động giá cả và thị trường.
Đặc điểm đòi hỏi phải công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa để phát triển sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa để đáp ứng nhu cầu lớn về hàng hoá trước hết là cầu về sản lượng. Việc biến sản xuất nông nghiệp từ nền sản xuất tự cấp tự túc thành nền sản xuất hàng hoá trở thành quá trình kinh tế tất yếu của quá trình vận động từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có nông nghiệp hàng hoá, nhưng đó không phải là những cơ sở sản xuất hàng hoá giản đơn với quy mô nhỏ và kỹ thuật thủ công. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có quy mô sản xuất hàng hoá lớn với kỹ thuật ngày càng tiến bộ. Phải liên kết các cơ sở sản xuất thành một hệ thống, thành ngành kỹ thuật thống nhất trong cả nước theo một quy hoạch và kế hoạch chung. Pháy triẻn kinh tế trên địa bàn huyện và liên kết kinh tế là phương hướng đúng đắn để phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp hàng hoá trước hết phải đẩy mạnh trồng trọt và chăn nuôi. Song vấn đề chính của phát triển kinh tế ở trong nông nghiệp lại là phát triển công nghiệp khai thác và chế biến;chính công nghiệp chế biến gắn với nông nghiệp mới khắc phục được những hạn chế của nông phẩm tạo cho nó những tính chất mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn tính đa dạng, phong phú của nhu cầu và do vậy đóng vai trò quyết định biến nông phẩm thành nông phẩm hàng hoá. Chính sách giá cả nông phẩm đóng vai trò thúc đẩy quá trình chuyển từ nông nghiệp tự túc thành nông nghiệp hàng hoá. Chính sách giá cả đang cho phép nhà nước nắm được phần lớn nông sản (cả nông sản chế biến)để tổ chức lưu thông một cách có kế hoạch trên cả nước.
Hiện nay ở nứớc ta, việc đẩy mạnh kinh tế nông nghiệp hàng hoá ở các tỉnh miền bắc còn chưa coi trọng đúng mức từ khaau tổ chức sản xuất đến khâu lưu thông, nên hàng hoá nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu:nhà nước phải điều hàng hoá nông sản từ miền nam ra nhằm giảm bớt căng thẳng cung cầu. Điều này đã làm cho giá cả nông sản tăng lên, không mang lại hiệu quả kinh tế cao. cần giải quyết từng chính sách kinh tế để khai thác đến mức cao nhất nông sản hàng hoá ở địa phương để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và hổ trợ cho nhu cầu cả nước mới có hiệu quả kinh tế xã hội cao. Kinh té hàng hoá trong nông nghiệp ở các tỉnh miền nam nhất là các tỉnh Đồng bằng sông cửu long tương đối phát triển; song đó vẩn là nông nghiệp hàng hoá cá thể; cần được cải tạo và tổ chức lại sản xuất theo quy hoạch chung nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Trong việc tổ chức lại kinh tế nông nghiệp thành nông nghiệp hàng hoá, cần kế hoạch hoá chặt chẽ việc gắn công nghiệp chế biến với nông nghiệp
2. 3. 2. Gắn chặt quá trình sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa với ba quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa là quy luật hình thành và phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta.
Nước ta đang trong buổi đầu của thời kỳ quá độ, sản xuất hàng hoá nước ta đang phát triẻn trong sự vận động tổng hợp của ba quá trình cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá đồng thời chịu sự chi phối của ba quá trình cách mạng đó. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta vẩn tồn tại 3 thành phần kinh tế chủ yếu gắn liền với 3 loại hình sản xuất hàng hoá: sản xuất hàng hoá giản đơn những người sản xuất cá thể trong nông nghiệp và thủ công nghiệp, sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa thích ứng với kinh tế tư bản chủ nghĩa, sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa gắn với thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Kinh tế xã hội chủ nghĩa nhờ nắm mạnh các mạch máu kinh tế chủ yếu nên chiếm địa vị thống trị trong nền kinh tế và tro
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quy luật trá trị.DOC