Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán có tác động tích cực tới sự phát triển của các quốc gia. Thực tế cho thấy thị trường chứng khoán đã thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều nước một cách có hiệu quả thông qua việc góp phần tạo ra vốn khả dụng. Thực vậy, đa số các dự án đầu tư cần phải sử dụng vốn dài hạn thì mới đạt hiệu quả cao trong khi các nhà tiết kiệm lại không muốn mất quyền kiểm soát món tiết kiệm của họ trong thời gian dài. Thị trường chứng khoán hoạt động trôi chảy sẽ cho phép khắc phục được mâu thuẫn này khiến cho các hoạt động đầu tư trên thị trường hấp dẫn, thuận tiện và có lãi suất cao hơn so với gửi tiết kiệm vì người tiết kiệm có thể mua một loại chứng khoán nào đó rồi lại đem bán một cách nhanh chóng ít phí tổn khi cần tiền mặt hoặc để đầu tư vào một loại chứng khoán khác mà họ thích. Việc trao đổi này diễn ra trên thị trường thứ cấp trong khi đó các doanh nghiệp vẫn được sử dụng nguồn vốn dài hạn thường xuyên và ổn định. Như vậy, thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản đầu tư dài hạn phát triển, làm cho các khoản đầu tư sinh lợi nhiều hơn mà thị trường chứng khoán khuyến khích được nhiều vốn hơn vào nền kinh tế góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường chứng khoán cũng hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong nhiều lĩnh vực. Về cơ bản, thị trường chứng khoán bổ sung cho hệ thống ngân hàng trong việc cung cấp vốn vay trung và dài hạn. Hệ thống ngân hàng với chức năng chủ yếu là "tạm ứng" vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng: Nhân tố tiền gửi của dân cư mà học nhân được lên nhiều. Tiền được cho vay qua các hoạt động tín dụng cần được thu về. Tuy vậy bao giờ cũng có phần vốn vay kém hiệu quả không thu hồi được vẫn nằm trong lưu thông, làm cho mức gia tăng tiền tệ cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Điều đó có nghĩa là một lượng tiền tăng thêm không có lượng hàng hoá dịch vụ tăng theo tương ứng ngày càng gây ra lạm phát trong nền kinh tế. Do vậy hệ thống ngân hàng chỉ có thể cấp tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế một cách hạn chế nếu không sẽ dẫn đến tình trạng chuyển hoá vốn quá mức, không những đe doạ an toàn của các ngân hàng mà còn gây nguy cơ lạm phát. Trong bối cảnh đó, thị trường chứng khoán là nơi bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng cho các khoản đầu tư phát triển. Trên thị trường sơ cấp vốn được chuyển trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn thông qua việc phát hành lần đầu các loại chứng khoán. Trên thị trường thứ cấp sau đó, chứng khoán đã phát hành có tác dụng như "gây tiếp sức" để người đầu tư mới tiếp sức cho người đầu tư cũng thông qua việc mua bán lại chứng khoán. Đó là quá trình biến các khoản tiết kiệm ngắn hạn thành nguồn nuôi dưỡng và duy trì các khoản đâù tư dài hạn trên cơ sở tham gia tích cực và tự nguyện của các nhà đầu tư.
31 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 9900 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồn tài chính mới. Nó chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp gộp lại được gọi là thị trường chứng khoán. Hai thị trường này tồn tại quan hệ mật thiết với nhau được ví dụ như hai bánh xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì sẽ chẳng có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ bị khó khăn, khiến cho người đầu tư sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế khả năng huy động vốn trong nền kinh tế.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế tổ chức thị trường chứng khoán không có sự phân biệt đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là, trong một thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Vừa có việc mua bán chứng khoán theo tính chất mua đi bán lại.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường phát hành là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để đảm bảo thị trường chứng khoán trở thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế.
3. Sở giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán chính thức được tổ chức theo hình thức Sở giao dịch chứng khoán.
a. Các hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán.
Hiện nay trên thế giới có 3 hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán.
Thứ nhất: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức theo hình thức "Câu lạc bộ" tự nguyện của các thành viên. Trong hình thức này, các thành viên của sở giao dịch (hội viên) tự tổ chức và tự quản lý sở giao dịch chứng khoán theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các hội viên của Sở giao dịch bầu ra Hội đồng quản trị và Hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.
Thứ hai: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần có các cổ đông là các công ty thành viên. Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay. Sở giao dịch chứng khoán tổ chức dưới hình thức này được hoạt động theo luật công ty cổ phần, phải nộp thuế cho nhà nước và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn do chính phủ lập ra. Cơ quan chuyên môn này là cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán là Hội đồng quản trị do các công ty chứng khoán thành viên bầu ra và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán do Hội đồng quản trị đề cử.
Thứ ba: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của nhà nước. Đây là hình thức phổ biến ở hầu hết các nước Châu á. Cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành cũng tương tự như hình thức trên nhưng trong thành phần Hội đồng quản trị có một số thành viên do uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám sát điều hành. Sở giao dịch chứng khoán quốc gia bổ nhiệm.
b. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán
Uỷ ban chứng khoán quốc gia là cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán do chính phủ thành lập. Uỷ ban chứng khoán quốc gia có nhiệm vụ xác định loại doanh nghiệp nào được phép phát hành chứng khoán và loại chứng khoán nào được mua bán. Uỷ ban này cấp giấy phép và kiểm tra hoạt động của các công ty môi giới và thực hiện các công việc quản lý nhà nước khác.
Hội đồng quản trị và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán. Tất cả các quyết định đều được Hội đồng quản trị đưa ra. Hội đồng này bao gồm các công ty chứng khoán thành viên của sở giao dịch chứng khoán, các thành viên liên doanh thậm chí có một số không phải là thành viên của sở giao dịch chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào. Hội đồng quản trị có quyền quyết định nhưng thành viên nào được phép buôn bán tại sở giao dịch, những loại chứng khoán nào đủ tiêu chuẩn được phép niêm yết tại phòng giao dịch. Hội đồng này có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc niêm yết một chứng khoán nào đó. Hội đồng quản trị có quyền kiểm tra quá trình kinh doanh của các thành viên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch chứng khoán nữa.
c. Thành viên sở giao dịch chứng khoán.
Thành viên sở giao dịch chứng khoán có thể là các cá nhân hoặc các công ty chứng khoán. Để trở thành thành viên của sở giao dịch chứng khoán trước hết công ty phải được công ty có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động. Phải có số vốn tối thiểu theo quy định, có chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra công ty còn phải thoả mãn các yêu cầu của từng sở giao dịch chứng khoán cụ thể. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của nhiều sở giao dịch chứng khoán khác nhau nhưng không được là thành viên của thị trường chứng khoán phi tập trung và ngược lại công ty chứng khoán có thể thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ khác nhau trên thị trường chứng khoán.
d. Giám sát thị trường chứng khoán.
Để đảm bảo cho các giao dịch được công bằng đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, sở giao dịch chứng khoán có một bộ phận chuyên theo dõi giám sát các giao dịch chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu của các bộ phận giám sát là kiểm tra theo dõi và ngăn chặn kịp thời các hoạt động tiêu cực như gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch lòng vòng, giao dịch có dàn xếp trước.
4. Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán.
a. Nguyên tắc trung gian mua bán chứng khoán.
Hoạt động mua bán chứng khoán không phải trực tiếp diễn ra giữa những người muốn mua và bán, chứng khoán thực hiện mà do các nhà trung gian môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian căn bản cho tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán là chứng khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Vì những nhà đầu tư không thể xét đoán một cách nhanh chóng và chính xác giá trị thực sự của từng loại chứng khoán và cũng không dự đoán được chính xác xu hướng biến động của nó. Vì vậy nếu người môi giới có thái độ không khách quan trong hoạt động trung gian sẽ gây thiệt haị cho các nhà đầu tư.
Xét về tính chất kinh doanh, môi giới chứng khoán có 2 loại: Môi giới chứng khoán và thương gia chứng khoán.
Môi giới chứng khoán chỉ thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng và ăn hoa hồng.
Thương gia chứng khoán còn gọi là người kinh doanh chứng khoán.
Nói chung các công ty môi giới chứng khoán tại các thị trường chứng khoán đều đồng thời thực hiện 2 nghiệp vụ là người môi giới vừa là người kinh doanh nhưng tại thị trường chứng khoán New York, London từ lâu người ta đã phân biệt 2 loại môi giới này và có luật lệ không chỉ hoạt động của thương gia chứng khoán.
b. Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán.
Giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán do các nhà môi giới đưa ra. Mỗi nhà môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại từng thời điểm tuỳ theo sự xét đoán, kinh nghiệm và kỹ thuật dựa trên lượng cung cầu loại chứng khoán đó trên thị trường.
c. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán.
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Thông tin về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành, số lượng chứng khoán và giá cả của từng loại chứng khoán đều được thông báo công khai trên thị trường. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng mua bán và giá cả thống nhất lập tức được thông báo ngay. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán.
Tất cả các nguyên tắc trên đều được thể hiện bằng văn bản pháp quy từ luật đến qui chế, điều lệ của mỗi thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ quyền lợi của người mua chứng khoán và của các thành viên trên thị trường chứng khoán.
5. Giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Các chứng khoán được giao dịch trên thị trường theo lô chẵn hoặc lô lẻ. Trên sàn giao dịch, có nhiều loại lệnh khác nhau được nhà đầu tư sử dụng tùy theo mục đích của từng người. Để mua hay bán chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ đưa ra các lệnh thuê các công ty môi giới chứng khoán thực hiện hộ.
* Lệnh thị trường: Đây là loại lệnh thông dụng nhất. Các công ty môi giới căn cứ vào giá thị trường hiện tại của loại chứng khoán mà nhà đầu tư yêu cầu thực hiện để tiến hành giao dịch, xong họ cũng phải xem xét để mua hoặc bán sao cho có lợi nhất cho khách hàng của họ, các khách hàng biết chắc lệnh sẽ được thực hiện nhưng không biết chắc giá cả là bao nhiêu.
* Lệnh giới hạn: Lệnh này thường được đưa ra bởi các nhà đầu tư có hiểu biết chút ít về thị trường chứng khoán và kinh tế. Trong lệnh có giới hạn về giá bán thấp nhất và giá mua cao nhất mà công ty môi giới trên sàn giao dịch được phép thực hiện. Đối với lệnh mua thì giá mua thường thấp hơn giá thị trường hiện đại còn lệnh bán có giá thường cao hơn giá thị trường. Do vậy lệnh giới hạn thường không được thực hiện ngay mà được thực hiện trong một thời gian nhất định cho đến khi hết thời hạn và huỷ bỏ. Trong khi chưa bị huỷ bỏ mà lệnh chưa được thực hiện thì nhà đầu tư vẫn có thể tăng giảm giá giơí hạn (giá mua, giá bán).
* Lệnh ngừng: Đây là lệnh đặc biệt mà các nhà đầu tư dùng để bảo vệ thu nhập của họ tránh thua lỗ khi có sự tăng giảm giá cả. Lệnh ngừng bán có giá đặt ra cao hơn giá thị trường hiện tại còn lệnh ngừng mua có giá đặt ra thấp hơn thị trường hiện tại.
Các lệnh trên khi đấu giá sẽ được ưu tiên theo thứ tự.
- Ưu tiên về giá: Giá đặt mua cao nhất và giá đặt bán thấp nhất được ưu tiên.
- Ưu tiên về thời gian: Trong cùng một mức giá lệnh nào được đưa ra trước sẽ được ưu tiên.
- Ưu tiên về số lượng: Khi có nhiều lệnh cùng thoả mãn hai điều kiện trên, lệnh nào có số lượng chứng khoán nhiều hơn sẽ được ưu tiên.
Trên thị trường chứng khoán phi tập trung, hoạt động mua bán chứng khoán cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh cho công ty chứng khoán đang quản lý tài sản của anh ta yêu cầu giao dịch hộ. Thông qua hệ thống viễn thông công ty môi giới sẽ liên lạc với tất cả các nhà tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá chào bán thấp nhất của loại chứng khoán này sau đó công ty này thông báo lại cho khách hàng biết và nếu khách hàng chấp nhận, công ty sẽ thực hiện lệnh và giao dịch của khách hàng được thực hiện.
III. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
Thị trường chứng khoán đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế các nước trên thế giới. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất định sẽ cần tới thị trường chứng khoán để hỗ trợ cho quá trình phát triển.
Trong thập kỷ vừa qua các thị trường chứng khoán trên thế giới đã phát triển hết sức mạnh mẽ. Tổng giá trị cổ phiếu được yết giá trên các thị trường này tăng từ 4.700 tỷ USD năm 1985 lên 15200 tỷ USD năm 1995. Trong đó giá trị cổ phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán ở các nước đang phát triển tăng nhanh từ 3% năm 1983 lên 17% tổng lượng giao dịch toàn thế giới năm 1995.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán có tác động tích cực tới sự phát triển của các quốc gia. Thực tế cho thấy thị trường chứng khoán đã thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều nước một cách có hiệu quả thông qua việc góp phần tạo ra vốn khả dụng. Thực vậy, đa số các dự án đầu tư cần phải sử dụng vốn dài hạn thì mới đạt hiệu quả cao trong khi các nhà tiết kiệm lại không muốn mất quyền kiểm soát món tiết kiệm của họ trong thời gian dài. Thị trường chứng khoán hoạt động trôi chảy sẽ cho phép khắc phục được mâu thuẫn này khiến cho các hoạt động đầu tư trên thị trường hấp dẫn, thuận tiện và có lãi suất cao hơn so với gửi tiết kiệm vì người tiết kiệm có thể mua một loại chứng khoán nào đó rồi lại đem bán một cách nhanh chóng ít phí tổn khi cần tiền mặt hoặc để đầu tư vào một loại chứng khoán khác mà họ thích. Việc trao đổi này diễn ra trên thị trường thứ cấp trong khi đó các doanh nghiệp vẫn được sử dụng nguồn vốn dài hạn thường xuyên và ổn định. Như vậy, thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản đầu tư dài hạn phát triển, làm cho các khoản đầu tư sinh lợi nhiều hơn mà thị trường chứng khoán khuyến khích được nhiều vốn hơn vào nền kinh tế góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường chứng khoán cũng hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong nhiều lĩnh vực. Về cơ bản, thị trường chứng khoán bổ sung cho hệ thống ngân hàng trong việc cung cấp vốn vay trung và dài hạn. Hệ thống ngân hàng với chức năng chủ yếu là "tạm ứng" vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng: Nhân tố tiền gửi của dân cư mà học nhân được lên nhiều. Tiền được cho vay qua các hoạt động tín dụng cần được thu về. Tuy vậy bao giờ cũng có phần vốn vay kém hiệu quả không thu hồi được vẫn nằm trong lưu thông, làm cho mức gia tăng tiền tệ cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Điều đó có nghĩa là một lượng tiền tăng thêm không có lượng hàng hoá dịch vụ tăng theo tương ứng ngày càng gây ra lạm phát trong nền kinh tế. Do vậy hệ thống ngân hàng chỉ có thể cấp tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế một cách hạn chế nếu không sẽ dẫn đến tình trạng chuyển hoá vốn quá mức, không những đe doạ an toàn của các ngân hàng mà còn gây nguy cơ lạm phát. Trong bối cảnh đó, thị trường chứng khoán là nơi bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng cho các khoản đầu tư phát triển. Trên thị trường sơ cấp vốn được chuyển trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn thông qua việc phát hành lần đầu các loại chứng khoán. Trên thị trường thứ cấp sau đó, chứng khoán đã phát hành có tác dụng như "gây tiếp sức" để người đầu tư mới tiếp sức cho người đầu tư cũng thông qua việc mua bán lại chứng khoán. Đó là quá trình biến các khoản tiết kiệm ngắn hạn thành nguồn nuôi dưỡng và duy trì các khoản đâù tư dài hạn trên cơ sở tham gia tích cực và tự nguyện của các nhà đầu tư.
Như vậy thị trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong việc cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn góp phần làm giảm áp lực lạm phát, sự phân tích ở trên đã chỉ ra rằng thị trường chứng khoán có vai trò tích cực và không thể thiếu trong nền kinh tế.
PHẦN II: SỰ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẠI VIỆT NAM.
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM.
1. Do yêu cầu của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy ở tất cả các nước có thị trường chứng khoán, khi nền kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế thị trường đã phát triển ở mức độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức mạnh cho thị trường - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hoá phát triển làm nảy sinh thị trường chứng khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
"Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, chủ yếu mới có hình thức giao lưu vốn giáp tiếp nên chưa huy động và thu hút có hiệu quả tối ưu nguồn vốn còn khá tiềm tàng của đất nước. Do đó, cùng với sự phát triển, hoàn thiện thị trường liên ngân hàng, nâng cao trình độ giao lưu vốn gián tiếp, cần phải thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hình thức giao lưu vốn trực tiếp"* Theo thị trường tài chính tiền tệ số 12: tháng 6/2000
.
Giao lưu vốn trực tiếp là hình thức giao lưu vốn chủ yếu thông qua phương thức thu hút vốn bằng phát hành các phương tiện tín dụng, như trái phiếu, cổ phiếu.
Phương thức giao lưu vốn trực tiếp có nhiều ưu điểm nổi bật hơn phương thức giao lưu vốn gián tiếp. Do vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với việc hoàn thiện tổ chức giao lưu vốn gián tiếp phải đồng thời phát triển mạnh giao lưu vốn trực tiếp nhằm làm phong phú thị trường tiền vốn và đổi mới cơ chế giao lưu vốn theo hướng hiện đại. Chỉ khi nào cả hai hình thức giao lưu vốn trên cùng tồn tại, phát triển và bổ sung cho nhau thì thị trường tiền tệ - tín dụng mới từng bước được cải tiến, thị trường chứng khoán mới xuất hiện và hoạt động có hiệu quả trong một thị trường tiền tệ - tín dụng hoàn chỉnh, nhờ đó mà thu hút được mọi nguồn vốn tiềm tàng trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
2. Do yêu cầu của nhà nước.
Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này được thuận lợi hơn.
Như ở phần trên em đã trình bày, thị trường chứng khoán cũng có tác động tích cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước ta đã có chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường chứng khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh hơn.
Nhu cầu về một thị trường chứng khoán tại Việt Nam ngày càng trở nên bức thiết do những lý do mà em đã nêu trên nên chắc chắn trong tương lai gần Việt Nam sẽ có một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
III. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Thực trạng.
Tại thành phố Hồ Chí Minh hiện đã có 80 doanh nghiệp cổ phần trong đó có 24 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh công thương nghiệp dịch vụ, 22 ngân hàng thương mại và 2 công ty tài chính với số vốn cổ phần lên tới 250 tỷ đồng. Các doanh nghiệp này ngoài việc phát hành cổ phiếu, một số đơn vị (chủ yếu là các ngân hàng và các công ty tài chính) đã phát hành các loại kỳ phiếu trung hạn. Ngoài ra các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển quốc doanh, kho bạc nhà nước cũng đã phát hành các loại kỳ phiếu có mục đích… tất cả các loại kỳ phiếu, cổ phiếu nói trên đều có thể tham gia thị trường chứng khoán, do vậy có thể nói rằng Việt Nam hiện nay đã có thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã hình thành và đi vào hoạt động. Đến ngày 31/8/2000 đã có hai phiên giao dịch. Hiện nay mới chỉ có 2 công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu là công ty điện lạnh (REE) và công ty vật liệu bưu chính viễn thông (SACOM) cho nên hàng hoá cần cho thị trường rất ít.
Nói chung lại, thị trường chứng khoán Việt Nam mới chỉ tồn tại ở mức độ rất sơ khai, chưa thực sự là thị trường chứng khoán với đúng ý nghĩa của khái niệm thị trường chứng khoán đã được mọi người nhìn nhận.
2. Những thuận lợi cho sự hình thành một thị trường chứng khoán thực sự tại Việt Nam.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã có những tiến triển cơ bản tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán. Chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Lạm phát đã giảm từ 67% năm 1992 xuống còn 14,4% năm 1994 và 12,7% năm 1995. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm trở lại đây luôn được duy trì ở mức 9%, nền kinh tế đã bắt đầu ổn định. Thu nhập của dân cư đã tăng và trong nội bộ nền kinh tế đã có tích luỹ.
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, chính sách một giá tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận tiện giữa các khu vực trong nước. Lãi suất tín dụng và lãi suất tiết kiệm đã được ấn định trên cơ sở tương quan giữa cung và cầu vốn trên thị trường. Quy luật cung cầu và quy luật giá trị đang phát huy những tác động tích cực tới nền kinh tế.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Số doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút nhiều vốn trong nước cũng như vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng nhanh. Sự ra đời của các cổ phiếu, trái phiếu do các công ty cổ phần, các doanh nghiệp nhà nước, phát hành tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán ra đời.
Thêm vào đó, nền kinh tế thị trường cũng đang làm tiến triển dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng sẽ được công nhận vì nó đáp ứng được nhu cầu của người đầu tư vốn. Người sử dụng vốn và cả của nhà nước.
Các yếu tố trên đây tạo thuận lợi cho sự ra đời của thị trường chứng khoán và khẳng định là thị trường chứng khoán sẽ được công nhận vì nó đáp ứng được nhu cầu của người đầu tư vốn, người sử dụng vốn và cả của nhà nước.
3. Chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Ai có thể tham gia thị trường chứng khoán.
Mọi người dân trong cả nước đều có thể tham gia mua, bán chứng khoán qua sáu công ty chứng khoán theo nguyên tắc: Giao dịch chứng khoán là qua trung gian như: Công ty CKCP Bảo Việt (Hà Nội); Công ty chứng khoán Thăng Long (HN); Công ty CKCP Sài Gòn; Công ty CKCP Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu (TPHCM); Công ty CKCP Bình Dương; Công ty TNHHCK Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Các công ty chứng khoán có vốn điều lệ từ 6 tỷ đồng đến 55 tỷ đồng chuyên môi giới chứng khoán tự doanh bảo lãnh, phát hành, quản lý danh mục đầu tư lưu ký. Chỉ đại diện các công ty chứng khoán mới được giao dịch trực tiếp trên hệ thống máy tính, khách hàng muốn làm quen và thông thạo tình hình thị trường chứng khoán cần lựa chọn, tìm cho mình một công ty chứng khoán cung cấp thông tin, tư vấn và làm môi giới mua bán CP.
Ai cũng có thể tham gia phiên giao dịch với số tiền tối thiểu 10.000đ. Hiện nay mệnh giá CP phát hành thấp nhất là 100.000đ nhưng phiên giao dịch đầu tiên có thể do công ty phát hành CP với mệnh giá 100000đ nhằm tạo điều kiện cho người ít tiền cũng có thể mua được.
Để tham gia thị trường chứng khoán người mua cần đăng ký mở tài khoản tiền mặt tại ngân hàng được chỉ định thanh toán chứng khoán và một tài khoản chứng khoán cũng tại ngân hàng này. Người bán cũng vậy, thị trường giao dịch chứng khoán sẽ mở cửa từ 8h sáng đến 15h chiều các ngày thứ 2,4,6 hàng tuần. Khi phiên giao dịch được mở (thí dụ vào 8h sáng ngày 20/7) người mua cầm sổ tài khoản đến các công ty chứng khoán hoặc văn phòng đại diện công ty bán chứng khoán. Khách hàng có thể ra lệnh mua bán trước phiên giao dịch và được thông tin liên tục qua Internet, điện thoại, Fax… về kết quả mua bán trong phiên giao dịch về giá CP của mình bán ra, giá các loại CP ở từng thời điểm.
4. Hàng hoá ở thị trường chứng khoán.
Câu hỏi đưa ra hàng hoá ở thị trường chứng khoán Việt Nam là gì?
Đó là CP và trái phiếu, đó là hai loại chứng khoán cơ bản, cổ phiếu là chứng khoán vốn (người đầu tư là chủ sở hữu), trái phiếu là chứng khoán nợ (người đầu tư là chủ nợ), giá trái phiếu thường ít biến động hơn so với giá cổ phiếu do tiền lãi thu được từ trái phiếu là cố định, còn cổ phiếu có thể tăng giảm tùy thuộc lợi nhuận của doanh nghiệp. Biên độ giá chứng khoán không vượt quá +5% (Với CP) là 1,8% với trái phiếu người đầu tư vào chứng khoán không phải trả một khoản thuế nào.
Nhà đầu tư (người mua) bằng lòng với lợi nhuận thấp nhưng ổn định thường chọn trái phiếu làm đối tượng đầu tư. Ngược lại ai dám mạo hiểm, chấp nhận rủi ro để lấy một tiềm năng lợi nhuận lớn sẽ chọn cổ phiếu.
Theo uỷ ban chứng khoán nhà nước hiện cả nước có 370 công ty cổ phần trong đó có trên 100 công ty có khả năng niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên để tạo lòng tin của công chúng, hàng hoá trong thời gian đầu đòi hỏi chất lượng và ổn định. Vì vậy công ty CP cơ điện lạnh REE và công ty CP cáp và vật liệu viễn thông SACOM và có thể thêm cổ phiếu của công ty giao nhận và kho vận ngoại thương Trasimex Thành phố HCM và công ty XNK chế biến nông sản Long An được niêm yết. Ngoài ra sẽ có thêm vài trăm tỉ đồng trái phiếu của nhà nước cũng được mua bán.
Điều kiện để các công ty có cổ phiếu tham gia giao dịch là 2 - 3năm liền có lãi, tình hình tài chính lành mạnh được kiểm toán xác nhận, có đủ 10 tỷ đồng vốn trở lên.
Trên cơ sở ấy, vụ quản lý phát hành của Uỷ ban chứng khoán nhà nước sẽ quyết định cổ phiếu của công ty có được tham gia giao dịch hay không.
5. Những vấn đề còn tồn tại.
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, hiện nay vẫn còn tồn tại các khó khăn cản trở sự hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Nhìn toàn cảnh, nền kinh tế vẫn chưa đạt thật sự ổn định, nguy cơ lạm phát vẫn còn làm các nhà quản lý kinh tế đau đầu. Hiệu quả của sản xuất trong nước còn thấp nhất là ở các doanh nghiệp nhà nước. Các sản phẩm nội địa của ta đang phải cạnh tranh chật vật với các sản phẩm của nước ngoài. Sự thua lỗ của nhiều doanh nghiệp quốc doanh và sự quản lý cồng kềnh của các ngành ngân hàng tài chính gây nên khó khăn và tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư.
Xét riêng về các khó khăn đối với sự hình thành thị trường chứng khoán, em thấy còn những tồn tại lớn tập trung ở các điểm sau:
Thứ nhất: Hàng hoá (các loại chứng khoán) để giao dịch trên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLTV1063.doc