Đề tài Vai trò của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I- VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN 2

I- CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN: 2

1- Vốn sản xuất 2

2- Vốn đầu tư 2

II- NGUỒN HÌNH THÀNH VỐN ĐẦU TƯ: 2

1- Nguồn vốn đầu tư trong nước: 3

2- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: 5

III- VAI TRÒ CỦA VỐN VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ: 6

IV- VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: 7

1- Vai trò của vốn đầu tư từ NSNN tới cơ sở hạ tầng: 7

2- Vai trò của vốn đầu tư từ NSNN tới nông nghiệp nông thôn: 8

I- THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM: 10

1- Tình hình kinh tế Việt Nam: 10

2- Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam và tình hình sử dụng: 11

3- Vốn đầu tư từ NSNN ở Việt Nam: 14

II - PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM: 17

2 - Vốn đầu tư từ NSNN với tăng trưởng kinh tế: 19

2.1 - Ảnh hưởng cuả vốn đầu tư từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế: 19

2.2 - Ảnh hưởng của vốn đầu tư từ NSNN tới các lĩnh vực kinh tế: 20

2.3 - Ảnh hưởng của vốn đầu tư từ NSNN tới các nguồn vốn khác: 29

 

CHƯƠNG III- GIẢI PHÁP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỦ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN 33

1. Những tồn tại trong đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước: 33

2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước tại Việt Nam: 35

KẾT LUẬN 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO 41

 

 

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3555 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch, vào ODA để làm hạ tầng. Phải tin mình và tin các nhà đầu tư để mạnh dạn mở cửa. Không thể quay lưng lại với cơ hội, nhất là khi chúng ta đã có hệ thống pháp lí quốc tế để soi chiếu, có kinh nghiệm hợp tác nhiều năm. Tâm lí e ngại đáng ra không được duy trì lâu như vậy. Giá của sự chờ đợi ấy không đáng. Đối với vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cần thiết để giải ngân tốt hơn. Một phần do phức tạp thủ tục, một phần do quy định khác nhau giữa nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam nên khó thống nhất. Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng, và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế kỹ thuật đã làm chậm quá trình giải ngân. Ngay cả một nơi được đánh giá là phát triển năng động như thành phố Hồ Chí Minh cũng có tình trạng đó. Một số nhà cung cấp ODA đã thực hiện biện pháp mang tính trừng phạt nhưng cũng không thúc đẩy được bao nhiêu. Trong khi đó, mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ đi thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ, một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào. Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. Đặc biệt, mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội. Vốn đầu tư từ NSNN ở Việt Nam: Như đã nói ở trên, tiền ngân sách chính là tiền thuế của dân đóng góp. Thế nhưng một thực trạng đáng lo ngại là đầu tư từ ngân sách lại chưa hiệu quả, và nâng cao hiều quả từ vốn đầu tư ngân sách nhà nước là một trong những vấn đề cần giải quyết. Một số câu trả lời cho câu hỏi đó là: - Đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng - Quá chú trọng tới chỉ tiêu tăng trưởng - Chưa sẵn sàng cho hình thức đầu tư ngoài nhà nước Đầu tư quá nhiều vào cơ sở hạ tầng, chiếm 50% ngân sách, như vậy sẽ khiến cho an sinh xã hội, giáo dục bị ảnh hưởng. Đầu tư khu vực nhà nước tuy đã có xu hướng giảm nhưng vẫn còn cao. Từ mức bình quân 51% thời kỳ 1991 – 2005, đến nay tỷ lệ này còn là 43%. Cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chuyển theo hướng tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời quan tâm đầu tư hơn cho vùng nghèo, xã nghèo vùng đồng bào dân tộc. Tuy nhiên, công tác quản lý đầu tư còn yếu kém, chất lượng quy hoạch chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho họach định các kế hoạch phát triển. Việc quản lý vừa rườm rà, vừa lỏng lẻo trong đầu tư thể hiện ở tất cả các khâu từ xác định chủ trương lập, thẩm định dự án, ra quyết định đầu tư, thiết bị kỹ thuất, lập tổng dự toán,… đến khâu triển khai thực hiện, theo dõi cấp phép và thanh toán gây ra tình trạng thất thoát không nhỏ cho vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn có tình trạng số lượng dự án duyệt chờ ngân sách cấp vốn ngày càng tăng, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách. Tất cả những yếu kém trên đã khiến cho đầu tư kém hiệu quả. Điều này được thể hiện qua chỉ số ICOR ngày càng lớn. Thời kỳ 1991-1995 chỉ số này là 3, nhưng thời kỳ 1996-2000 lên tới 4,3; thời kỳ 2001-2005 khoảng 4,7 đến là trên 5,0. Ngoài ra, nguyên nhân sâu xa là do đã đầu tư từ ngân sách nhà nước tập trung quá nhiều vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở, chưa đầu tư thoả đáng cho các dự án có khả năng thu hồi vốn, trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá có giá trị làm tăng GDP. Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển đời sống, kinh tế nhân dân, nhưng đây cũng không phải là cách ứng xử duy nhất, vì chúng ta có thể vận dụng những hình thức như BOT, BTO, PPP. Hiện đầu tư công của chúng ta đã vượt xa so với khả năng của ngân sách nhà nước. Trong khi đó, đầu tư cho cơ sở hạ tầng đã chiếm tới 50% ngân sách. Điều này sẽ khiến đầu tư cho an sinh xã hội, giáo dục bị ảnh hưởng. Quá chú trọng tới chỉ tiêu tăng trưởng. Những năm gần đây, chúng ta đã quá chú ý tới tốc độ tăng trưởng và quyết tâm đạt tốc độ tăng trưởng cao nên đã dẫn tới tình trạng đầu tư năm sau cao hơn năm trước. Bên cạnh đó, cách làm phổ biến hiện nay vẫn là chọn việc dễ để thực hiện. Cộng thêm với tâm lý quá trông chờ vào vốn ngân sách nhà nước và khai thác tận thu nguồn tài nguyên sẵn có của đội ngũ lãnh đạo đã tạo nên lối “ứng xử” địa phương cát cứ, đầu tư theo kiểu “chộp giật”. Hình thức phân bổ các dự án vẫn mang tính bình quân, theo kiểu ban phát lợi ích chứ chưa theo quy hoạch phát triển tổng thể. Tất cả đã khiến cho những dự án quy hoạch thường có tính địa phương, ít tạo được tính kết nối thị trường. Vì vậy, cùng một khoản tiền đầu tư nhưng hiệu quả mang lại chưa có tính lan tỏa mạnh. Ngoài ra, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước lẽ ra cần đầu tư cho bộ máy công chức thông qua tiền lương lại chưa được quan tâm thích đáng. Thiếu sự quan tâm đúng mức cũng đã làm giảm hiệu quả của đội ngũ này gây ảnh hưởng trực tiếp tới việc thẩm định, giám sát việc thực hiện các dự án. Chưa sẵn sàng cho hình thức đầu tư ngoài nhà nước. Hiện nay, chúng ta vẫn còn quan niệm kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển. Chưa sẵn sàng cho sự chuyển đổi mô hình từ đầu tư của nhà nước sang hình thức đầu tư ngoài nhà nước. Thêm vào đó là sự lạm dụng đầu tư công cho xây dựng cơ bản, tập trung phát triển theo chiều rộng không chú trọng tới chiều sâu. Lối tư duy nhiệm kỳ đã tạo ra tâm lý là lãnh đạo ai cũng muốn xây dựng hình ảnh đẹp trong thời gian đương nhiệm. Ngoài ra, tư tưởng cục bộ dựa trên lợi ích của nhóm nhỏ trong xã hội cũng đã làm nảy sinh tham nhũng. Dự toán, quyết toán công trình lỏng lẻo khiến cho chất lượng của các công trình đầu tư cơ bản thường thấp. Chi phí bảo trì, duy tu công trình thường không được tính tới trong dự án càng khiến cho nhưng các công trình càng mau xuống cấp. Để các công trình này hoạt động theo đúng yêu cầu chi phí vận hành là rất lớn. Vì vậy, để các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng thực sự mang lại hiệu quả về mặt nhận thức cần có sự chuyển trọng tâm đầu tư phát triển ra ngoài khu vực nhà nước. Vận dụng hình thức chìa khoá trao tay cũng sẽ tránh được việc phải điều chỉnh khi có sự biến động về giá cả. Công trình sẽ được đảm bảo tiến độ hoàn thiện và vốn đầu tư cũng không bị đội lên. Cơ chế xin cho cũng cần phải được xóa bỏ thay vào đó là hình thức đầu thầu công khai, minh bạch và có sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài. Nếu chưa tìm được đối tác thích hợp sẽ tổ chức đấu thầu lại. II - PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TỪ NSNN TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM: Phân tích tác động của vốn đầu tư tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa nhiều vào đầu tư, và nhiều chính sách vĩ mô được thiết kế cho mục tiêu này. Vậy làm thế nào để tăng trưởng thật sự bền vững. Theo Bộ Kế hoạch đầu tư, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã lên mức gần 44% GDP năm 2007, và 42% GDP trong nửa đầu năm 2008. Tỷ trọng này, theo các nhà kinh tế là rất cao xét trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Đầu tư nhà nước ồ ạt. Trong cơ cấu này, điều đáng chú ý, là đầu tư từ ngân sách nhà nước đang có xu hướng giảm mạnh từ mức 45,3% năm 2006, và dự báo 41,9% năm 2008. Tỷ lệ đầu tư từ ngân sách giảm dần là dấu hiệu đáng mừng, nhưng vẫn còn cao, chiếm phần nhiều trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả của vốn đầu tư khu vực nhà nước đã được đặt ra từ lâu, khi mà vẫn còn xảy ra tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, chậm tiến độ, nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, đầu tư đa ngành của các doanh nghiệp nhà nước. Rõ rang, để tạo ra cùng một năng lực sản xuất, Nhà nước phải bỏ ra nhiều kinh phí, và nhập khẩu nhiều đầu vào cho đầu tư hơn. Đây là lãng phí không đáng có, nhưng đến nay, vẫn chưa khắc phục được. Giảm vốn tư nhân. Trong tổng đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn của khu vực này giảm từ 37.3% năm 2006, xuống 32,3% năm 2007, và ước tính 31% năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư. Xu hướng giảm xuống trong ba năm nay của khu vực này đã đi ngược lại với xu hướng của năm năm trước đó. Điểm không thể chối cãi là, bất ổn trong tình hình kinh tế vĩ mô từ cuối năm 2007 đến nay, dẫn đến giá cả đầu vào tăng cao, khó tiếp cận tín dụng, ngoại tệ…đã gây khó khăn lớn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là loại vừa và nhỏ. Câu hỏi được Quốc hội đặt ra, làm sao để hỗ trợ khu vực kinh tế quan trọng này, dường như vẫn còn treo đó. Trong khi đó, vốn đầu tư FDI giải ngân đang tăng cao, từ 15,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm 2006 lên 24,8% năm 2007, và ước đạt 24,7% năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư. Xu hướng gia tăng của nguồn vốn này đang đặt ra không ít quan ngại. Trước hết, luồng vốn này đang dịch chuyển từ khu vực chế biến hướng xuất khẩu, sang bất động sản. Chỉ trong nửa đầu năm 2008, có tới 89% vốn đăng ký liên quan đến sử dụng nguồn tài nguyên khan hiếm như căn hộ và văn phòng, dầu khí, khách sạn và du lịch, sắt thép. Xu hướng này là đáng lo ngại, xét trên cơ sở các doanh nghiệp FDI chiếm tới hơn 57% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm – vốn là nhân tố giúp cân bằng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong 10 năm qua. Hơn nữa, các dự án FDI đổ vào ngành bất động sản sẽ không tạo ra của cải, việc làm, thu ngoại tệ và chuyển giao công nghệ, trong khi các khoản lãi khổng lồ sẽ được chuyển ra nước ngoài. Điều đáng lo ngại nhất là, việc giải ngân luồng vốn FDI này được dự báo sẽ giảm đi rất nhanh, do nền kinh tế không đủ khả năng hấp thụ. Những yếu tố nội tại như sự yếu kém về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn này. Trong khi đó, tỷ lệ thâm hụt tiết kiệm nội địa/GDP của Việt Nam luôn được xếp hạng xấu nhất trong khu vực, ở mức 11,7% GDP năm 2006, 16,7% năm 2007, và ước 10% cho năm 2008, theo bộ Kế hoạch và đầu tư. Điều này là hậu quả của tiêu dùng đang có xu hướng tăng lên. Những con số thống kê trên cho thấy, Việt Nam đang dựa ngày càng nhiều vào đầu tư nước ngoài để chi trả cho đầu tư trong nước. Mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư, nhất là dựa trên FDI tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là khi FDI sụt giảm. Đây là điều có thể xảy ra trong bối cảnh khủng hoảng tài chính đang lan rộng trên quy mô toàn cầu. Rõ ràng, cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, bên cạnh việc khuyến khích luồng vốn đầu tư tư nhân để đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng. Bài học này, tiếc thay, sẽ còn mất rất nhiều thời gian. 2 - Vốn đầu tư từ NSNN với tăng trưởng kinh tế: 2.1 - Ảnh hưởng cuả vốn đầu tư từ NSNN tới tăng trưởng kinh tế: Nước ta đang trên con đường CNH – HĐH đất nước, khởi điểm từ một vị trí rất thấp, khi mà cơ sở hạ tầng chưa phát triển hoàn chỉnh, tiềm lực của khu vực tư nhân chưa được tập trung và khơi dậy thì đầu tư từ NSNN có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn khác. Đầu tư từ NSNN được coi như một “mồi lửa” để thổi bùng nền kinh tế bước vào thời kỳ hoạt động sôi động, điều chỉnh nền kinh tế đi vào ổn định tăng trưởng. Đầu tư phát triển từ NSNN là một bộ phận của tổng đầu tư xã hội, mỗi sự thay đổi nhỏ của Đầu tư phát triển từ NSNN đều tác động trực tiếp tới tổng đầu tư xã hội, tác động đó thường theo tính chất cùng chiều nên ta kỳ vọng sự thay đổi đầu tư phát triển từ NSNN tác động tới sự thay đổi của tổng đầu tư toàn xã hội là tích cực. Đầu tư phát triển từ NSNN tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Tuy tác động trực tiếp tới nền kinh tế chưa nhiều song nó có tác dụng kích thích tới các nhân tố khác, tạo hành lang cho các thành phần kinh tế khác hoạt động thuận lợi hơn và hiệu quả hơn. Hơn nữa trong điều kiện hội nhập quốc tế hện nay, yêu cầu đối với nguồn vốn NSNN rất lớn. Vốn NSNN vừa đảm bảo được nhiều hơn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vừa đảm bảo nâng cao chất lượng bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu khoa học, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước và ngân hang thương mại quốc dân, góp phần cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế theo yêu cầu hội nhập quốc tế. 2.2 - Ảnh hưởng của vốn đầu tư từ NSNN tới các lĩnh vực kinh tế: a- Đối với lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn: Nông nghiệp là nền tảng quan trọng để góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Trong 5 năm (2001 - 2005) Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm cũng như thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia khác, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người nông dân. Nông nghiệp tiếp tục duy trì đà phát triển khá cao với nhịp tăng trên 5,7%, góp phần giữ vững ổn định lương thực, cung cấp nông sản cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu, góp phần ổn định chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước. Để đáp ứng mục tiêu phát triển ngành, nhu cầu vốn đầu tư phát triển 5 năm (2001-2005) dự kiến khoảng 133,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 15,9% tổng vốn đầu tư phát triển, tăng bình quân hàng năm trên 9%, trong đó: vốn đầu tư công cộng khoảng 97,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 80% tổng vốn đầu tư phát triển ngành, riêng vốn Ngân sách Nhà nước khoảng 56,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 57% tổng vốn đầu tư công cộng của ngành. Như vậy, trong bố trí vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn đã đầu tư thêm hang nghìn tỷ vốn Ngân sách cho xóa đói giảm nghèo và các mục tiêu kinh tế - xã hội khác và cả vốn bảo dưỡng, duy trì công trình. Vốn đầu tư phát triển ngành nông, lâm, ngư nghiệp 2001-2005 Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 tổng số 133.8 20.7 23.5 25 26.3 28.1 Vốn chương trình đầu tư công cộng 97.6 17.6 18.6 19.6 20.3 21.5 -Vốn NSNN 56.6 10.9 11 11.4 11.5 11.8 -Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 15.4 2.9 3 3.1 3.2 3.2 -Vốn tự có của DN Nhà nước 21 3 3.8 4.2 4.6 5.4 -Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồn NSNN) 4.6 0.8 0.8 0.9 1 1.1 Nguồn: quy hoạch, chiến lược phát triển ngành – NXB thống kê Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phát trỉên khá nhanh, chiếm khoảng 15% giá trị sản xuất toàn ngành, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng cao. Kinh tế nông thôn phát triển đa dạng, nhiều vùng sản xuất nông sản hang hóa với quy mô lớn, gắn liền với công nghiệp chế biến được hình thành, các làng nghề bước đầu được khôi phục, sản xuất trang trại phát trỉên nhanh, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo thêm việc làm ở nông thôn. b- Đối với lĩnh vực công nghịêp: Do chủ trương xóa bỏ dần bao cấp trong đầu tư từ Ngân sách Nhà nước, tăng cường tính tự chủ của các doanh nghiệp Nhà nước nên lĩnh vực này thu hút khá nhiều vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Cần phải tập trung phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, tăng nhanh các ngành công nghiệp, các sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hang xuất khẩu, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn,… Để đạt đựơc các mục tiêu trên, trong những năm vừa qua, nhất là trong kế hoachk 5 năm (2001-2005) Nhà nước ta đã đầu tư rất lớn cho lĩnh vực này và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, Nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp và xây dựng 2001-2005 Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 369.6 62.6 71 74.9 78.05 83.05 Vốn chương trình đầu tư công cộng 197.5 31.6 36.1 40 43.4 46.4 -Vốn NSNN 17.9 3.3 3.5 3.6 3.7 3.8 -Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 70 11.5 13.2 14 15.3 16 -Vốn tự có của DN Nhà nước 108.7 16.7 19.2 22.2 24.2 26.4 -Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồn NSNN) 0.9 0.1 0.2 0.2 0.2 0.2 Nguån: Quy ho¹ch, chiÕn l­îc ph¸t triÓn ngµnh- ch­¬ng tr×nh ­u tiªn-NXB thèng kª Nhờ có nguồn vốn trên, ngành công nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến hết sức quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu công nghệ theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường. Tốc độ tăng trưởng bình quân hang năm ngành công nghiệp trong 5 năm đã tăng mạnh. Đó là bước phát triển khá nhanh, góp phần làm cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ bình quân khoảng 7% trong điều kiện kinh tế các nước trong khu vực đều suy giảm. Năng lực sản xuất một số sản phẩm công nghiệp tăng khá, không những đảm bảo nhu cầu về ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, học hành và nhiều loại hang tiêu dung thiết yếu khác, mà còn có khả năng xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá. Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ khá hiện đại. Tuy vậy, sản xuất công nghiệp vẫn đứng trước nhiều khó khăn, một số ngành sản xuất còn nhiều bấp bênh, chất lượng sản phẩm còn kém, năng suất lao động công nghiệp thấp, công nghệ chưa đáp ứng được với nhu cầu phát triển. Tuy tốc độ phát trỉên công nghiệp đạt trên 14%/ năm nhưng do tăng nhanh ở một số sản phẩm và phân ngành có tiêu hao vật tư lớn như dệt, may, ô tô, xe máy nên làm cho tốc độ tăng gía trị gia tăng không tăng tương xứng, chỉ tăng khoảng trên dưới 10%/năm. Chính vì vậy, cần phải có những chính sách sử dụng và huy động có hiệu quả nguồn lực trong ngành công nghiệp và những nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này. Đối với lĩnh vực kết cấu cơ sở hạ tầng dịch vụ: Kinh nghiệm những năm qua cho thấy việc đầu tư vào phát triển hạ tầng và dịch vụ có ý nghĩa quan trọng, có tác động đến hiệu quả chung của toàn nền kinh tế và chất lượng cuộc sống. Trong 5 năm 2001-2005, kết cấu hạ tầng đô thị (bao gồm cả cấp thoát nước, đường xá,…) đã được cải thiện rõ rệt, các ngành dịch vụ đô thị phát triển khá, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và nâng cao mức sống các tầng lớp dân cư. Hệ thống cấp nước cho sinh hoạt dân cư và cho sản xuất đã được hoàn thiện bước đầu. Hầu hết các thành phố, các tỉnh và phần lớn các thị trấn đều được đầu tư nâng cấp và cải thiện hệ thống cấp nước. Năng lực cấp nước cho khu vực đô thị tăng thêm, đường ống phân phối theo tuyến trục đã rãi đều trong các khu vực dân cư, đạt mức tiêu dung là 70 lít nước/người -ngày (so với mục tiêu đề ra là 80-100 lít/người- ngày). Hệ thống trụ sở các cơ quan Nhà nước đã được chỉnh trang, mở rộng và đầu tư xât dựng mới. Các khu dân cư đô thị đã được mở rộng, nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,… Dich vụ đô thị phát triển mạnh, các trung tâm thương mại, hệ thống các chợ, các siêu thị đã được hình thành trong các thành phố, thị xã, thị trấn. Dịch vụ du lịch, nhà hang, khách sạn phát triển đáng kể, đáp ứng đựơc nhu cầu đời sống dân cư. Nhiệm vụ phát triển hạ tầng và dịch vụ trong 5 năm (2001-2005) là trực tiếp góp phần xât dựng đô thị văn minh, lịch sự, cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, dịch vụ và hạ tầng cơ sở cho đời sống và cho phát triển ở cả vùng nông thôn và đô thị. Để đáp ứng mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ ở đô thị và nông thôn, nhu cầu vốn đầu tư trong 5 năm (2001-2005) dự kiến vào khoảng 122000 tỷ đồng, chiếm 14% tổng vốn đầu tư xã hội, trong đó riêng chương trình đầu tư công cộng vào khoảng 44,5 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 38% so với tổng vốn của ngành. Vốn đầu tư phát triển lĩnh vực hạ tầng dịch vụ đô thị thời kỳ 2001-2005 Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 121.6 21.9 24 24.6 25.2 25.9 Vốn chương trình đầu tư công cộng 44.5 8.4 8.9 9 9 9.2 -Vốn NSNN 21.1 4.3 4.3 4.3 4.1 4.1 -Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 12 2.3 2.5 2.4 2.4 2.4 -Vốn tự có của DN Nhà nước 7.4 1 1.3 1.5 1.7 1.9 -Vốn duy tu, bảo dưỡng(nguồn NSNN) 4 0.8 0.8 0.8 0.8 0.8 Nguồn: quy hoạch, chiến lược phát triển ngành – chương trình ưu tien- NXB thống kê. Nhìn bảng trên cho thấy; riêng vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này là rất lớn. Cụ thể: năm 2001 chiếm 51% tổng vốn chương trình đầu tư công cộng, năm 2002 là 48,3%, năm 2003 là 47,8% và dự kiến năm 2005 là 44,6%. Tuy vậy, cơ sở hạ tầng đô thị và các hoạt động dịch vụ đô thị vẫn còn nhiều bất cập. Sức vươn tới cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị chưa đáp ứng được quá trình đô thị hóa nhanh chóng trong từng vùng. Sự dồn nến về mật độ dân cư ở các thành phố lớn như hiện nay đang là khó khăn lớn với thực trạng về cơ sở hạ tầng còn yếu kém cần phải đựơc khắc phục trong những năm tiếp theo. Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Trong giai đoạn 2002-2006, NSNN chi cho GDĐT đã tăng gấp 2,4 lần, từ hơn 22.600 tỷ đồng năm 2002 lên đến gần 55.000 tỷ đồng năm 2006. Tỷ trọng chi NSNN cho GDĐT trong GDP tăng từ 4,2%(năm 2002) lên 5,6% (năm 2006). Theo Thứ trưởng Bộ tài chính, đây là mức chi cao so với các nước trong khu vực và thế giới dành cho GDĐT. Trong đó, chi thường xuyên cho GD Đại học đã tăng hơn 2,4 lần trong giai đoạn 2002-2006. Về lĩnh vực đào tạo, nguồn tài chính chi cho hoạt động này vẫn chủ yếu là từ NSNN. Tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế còn đang phát triển, thu nhập quốc dân tính trên đầu người thấp và nguồn thu ngân sách hạn hẹp, đầu tư cho giáo dục tuy có tăng lên song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tài chính để duy trì và phát triển các hoạt động giáo dục đào tạo. Vốn đầu tư cho phát triển ngành giáo dục đào tạo thời kỳ 2001-2005 Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 45 7.9 8.7 9.2 9.4 9.8 Vốn chương trình đầu tư công cộng 30 5.46 5.76 6.06 6.26 6.46 -Vốn NSNN 24.5 4.7 4.8 4.9 5 5.1 -Vốn tín dụng đầu tư phát trỉên của Nhà nứơc 1.2 0.2 0.2 0.2 0.3 0.3 -Vốn tự có của DN Nhà nước 0.3 0.06 0.06 0.06 0.06 0.06 -Vốn duy tu, bảo dưỡng(nguồn NSNN) 9 1.5 1.7 1.9 1.9 2 Nguồn : quy hoạch, chiên lược phát triển ngành – chương trình ưu tiên – NXB thống kê. Phát triển giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của cả dân tộc, có ý nghĩa hết sức quan trọng đại trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhu cầu đầu tư phát triển trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo là rất lớn, nguồn vốn của chương trình đầu tư công cộng cũng chỉ mới đáp ứng được 62,5%. Vì vậy, việc xã hội hóa và huy động các nguồn vốn từ khu vực dân cư để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo vừa là nhu cầu thiết yếu, vừa là trách nhiệm của cộng đồng đối với tương lai của thế hệ mai sau, của cả đất nước và dân tộc. Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ: Trong nhiều năm qua, hoạt động khoa học công nghệ đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể, góp phần thiết thực, có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Lĩnh vực khoa học công nghệ, đã tập trung triển khai nghiên cứu những đề tài phục vụ yêu cầu đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, làm chủ công nghệ tiên tiến, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế ở các ngành. Công nghệ và trình độ công nghệ của các ngành sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ đã được cải tiến, đổi mới đáng kể, nhất là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, các dự án xuất khẩu cũng như các lĩnh vực dịch vụ cao cấp khác. Mục tiêu khoa học công nghệ trong 5 năm (2001-2005) là bên cạnh việc coi trọng thực hiện các dự án về khoa học xã hội và nhân văn, phải tạo bước phát triển mới, có hiệu quả trong các lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng các thành quả khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, nâng cao đáng kể tỷ trọng đóng góp của khoa học và công nghệ vào việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Vốn đầu tư cho phát triển lĩnh vực khoa học và công nghệ thời kỳ 2001-2005 Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 7.6 1.28 1.48 1.48 1.58 1.78 Vốn chương trình đầu tư công cộng 7.2 1.2 1.4 1.4 1.5 1.7 -Vốn NSNN 4 0.6 0.8 0.8 0.9 0.9 -Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 2.7 0.5 0.5 0.5 0.5 0.7 -Vốn tự có của DN Nhà nước 0.1 0.02 0.02 0.02 0.02 0.02 -Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồn NSNN) 0.4 0.08 0.08 0.08 0.08 0.08 Nguồn: quy hoạch, chiến lược phát triển ngành – chương trình ưu tiên – NXB thống kê Từ bảng số liệu trên cho thấy trong kế hoạch 5 năm (2001- 2005) nhu cầu vốn đầu tư dự kiến khoảng 7,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% vốn đầu tư phát triển. Trong đó, riêng chương trình đầu tư công cộng khoảng 6,7 nghìn tỷ đồng, bằng trên 90% tổng vốn đầu tư của ngành, vốn Ngân sách Nhà nước khoảng 4000 tỷ đồng, chiếm 2% nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách. Như vậy, nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ sẽ được dành số khoản vốn đầu tư trực tiếp lớn hơn hẳn các năm trứơc, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tuy vậy, trình độ công nghệ của đất nước còn quá thấp và tỷ lện công nghệ lạc hậu trong các ngành sản xuất kinh doanh còn chiếm phần lớn, do đó đã ảnh hưởng nhiều tới hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và của cả nền kinh tế trong điều kiện hội nhập. Việc đổỉ mới công nghệ trong các ngà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích ảnh hưởng của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tới tăng trưởng kinh tế và giải pháp nâng cao hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nư.DOC
Tài liệu liên quan