Đề tài Vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương, ở Việt Nam ngân hàng trung ương thực hiện vai trò như thế nào?

MỤC LỤC

 

 

Môc lôc 1

Phần I: Tổng quan về vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương 2

1.1. Ngân hàng trung ương 2

1.1.1. Sơ lược sự ra đời của ngân hàng trung ương 2

1.1.2. Vị trí và hoạt động của ngân hàng trung ương 2

1.2. Vai trò quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương 3

1.2.1. Chính sách tiền tệ và các công cụ 3

1.2.2. Thanh tra ngân hàng 10

Phần II: Vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của Ngân hàng nhà nước Việt Nam 13

2.1. Giới thiệu chung về Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam 13

2.2. Những thành tựu đạt được của NHNN Việt Nam 14

2.2.1. Hiệu qủa của chính sách tiền tệ 14

2.2.2. Đổi mới các công cụ quản lý 15

2.2.3. Hoạt động quản lý các ngân hàng thương mại 17

2.3. Một số mặt còn yếu trong hoạt động của NHNN Việt Nam 18

2.3.1. Hiệu quả của chính sách tiền tệ đôi khi còn hạn chế 18

2.3.2. Quản lý và thanh tra hoạt động của các ngân hàng thương mại 20

2.4. Một số biện pháp hoàn thiện vai trò điều tiết vĩ mô của NHNN Việt Nam 20

2.4.1. Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ 20

2.4.2. Nâng cao khả năng hoạch định chính sách tiền tệ 22

2.4.3. Đổi mới hoạt động thanh tra ngân hàng 23

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5026 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương, ở Việt Nam ngân hàng trung ương thực hiện vai trò như thế nào?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nhau. NHTW có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống, nhưng NHTM lại có quyền quyết định có vay hay không và nếu NHTM không vay thì mục đích của công cụ này không thực hiện được. Cơ chế điều hành trực tiếp: thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân... Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được cho phép, các tổ chức tín dụng có quyền ấn định lãi suất kinh doanh cho phù hợp. Khi có các thay đổi kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Ưu điểm: NHTW có thể quản lý chặt chẽ mức lãi suất của các tổ chức tín dụng, thông qua đó có thể hướng cho nền kinh tế đi đúng theo mục tiêu kế hoạch đã đặt ra. Nhược điểm: Triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng, đặc biệt là giữa các ngân hàng thương mại. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hóa, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này. Công cụ hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng đó trong định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể và nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Qua sử dụng hạn mức tín dụng NHTW nhằm điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh làm tăng tổng khối lượng tiền quá mức trong nền kinh tế, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. Trong phần lớn các trường hợp những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của hệ thống ngân hàng. NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định. Lúc này, NHTW phải theo dõi hoạt động cho vay của các NHTM, nếu NHTM cho vay vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt. Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao. Khi đó, nó được NHTW sử dụng nếu các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực. Nhược điểm:Tuy nhiên, kiểm soát trực tiếp tín dụng có nhiều khiếm khuyết. Vì thế, hiện nay ở các nước phát triển và đang phát triển đang từ bỏ cách kiểm soát này để chuyển sang kiểm soát tổng khối lượng tiền cung ứng. Sử dụng công cụ hạn mức tín dụng có một số bất lợi: + Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung về vốn bị giới hạn không thỏa mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. + Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các NHTM, bởi vì một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì ngân hàng đó không còn muốn huy động vốn nữa, nếu huy động thêm sẽ gây đọng vốn và gây thiệt hại cho cho ngân hàng. + Hạn mức tín dụng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTM, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế. + Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác định từ trước. Lý do là những ngân hàng có khả năng huy động nhiều vốn thì việc cho vay ra đã bị hạn chế trong khi các ngân hàng không có khả năng huy động vốn thì sẽ cho vay ít hơn so với hạn mức đã được phân bổ. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ phát sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ ngân hàng ngoài phạm vi kiểm soát của ngân hàng trung ương. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức tín dụng mất đi hiệu lực của nó. + Hạn mức tín dụng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ, vì trước hết các NHTM lựa chọn khách hàng lớn để cho vay. Công cụ hạn mức tín dụng thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển, hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM, thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, như nhược điểm đã nêu trên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao vì nó thiếu linh hoạt. Công cụ tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của nội tệ, vừa là biểu hiện của quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đoái lại là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu hàng hóa và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén và hết sức mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ ngoại hối của quốc gia. Về thực chất, tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiên tệ bởi lẽ tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông. Tuy nhiên có quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành chính sách tiền tệ. 1.2.2. Thanh tra ngân hàng Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng Trung ương không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý cho các khách hàng của nó, mà thông qua các hoạt động kinh doanh đó Ngân hàng Trung ương thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của các ngân hàng kinh doanh nhằm hai mục đích: đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và đảm bảo lợi ích của khách hàng, đặc biệt là người gửi tiền trong quan hệ với ngân hàng. Bảo đảm sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Khác với các tổ chức kinh doanh khác, kinh doanh lĩnh vực tài chính tiền tệ cần thiết phải được kiểm soát và điều tiết chặt chẽ bởi vì: + Các ngân hàng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường vốn nói riêng và trong toàn bô nền kinh tế nói chung; nó là kênh chuyển giao vốn từ tiết kiệm đến đầu tư, là công cụ của Chính phủ trong việc tài trợ vốn cho mục tiêu chiến lược; hoạt động của các trung gian tài chính, đặc biệt là các tổ chức nhận tiền gửi có ảnh hưởng quyết định đến việc điều hành chính sách tiền tệ... + Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội nên sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền đồng thời đến oàn hệ thống, Các ngân hàng có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau rất chặt chẽ thông qua các luồng vốn tín dụng luân chuyển và thông qua hoạt động của hệ thống thanh toán. Chỉ một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân hnàg + Hoạt động của các ngân hàng có liên quan đến hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội, vì vậy sự hoạt động thiếu ổn định của mỗi ngân hàng cũng đều gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Do dựa trên nguyên tắc là đi vay để cho vay nên bản thân hoạt động này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro; mức độ rủi ro sẽ tăng cao khi các ngân hàng có xu hướng chạy theo lợi nhuận quá mức, đẩy các ngân hàng vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Điều này sẽ làm giảm lòng tin của công chúng, từ đó hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Do vậy, việc Ngân hàng Trung ương thực hiện quản lý và kiểm soát hoạt động của các tổ chức tín dụng là rất cần thiết để bảo đảm sự hoạt động của chúng luôn luôn được duy trì trong khuôn khổ luật pháp và góp phần thực hiện hiệu quả chính sách tiền tệ đã được hoạch định. Ngân hàng trung ương có thể thực hiện việc quản lý và giám sát các tổ chức tín dụng thông qua các công cụ như: + Xây dựng mô hình và chiến lược phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng. + Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng. + Kiểm tra việc chấp hành các quy định về dự trữ bắt buộc, lãi suất các hệ số an toàn hoạt động cũng như các mức độ nhạy cảm của tổ chức đối với sự biến động của thị trường theo hệ thống chỉ tiêu CAMELS. Bảo vệ khách hàng Chức năng thanh tra, giám sát của Ngân hàng Trung ương còn nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các khách hàng. Điều này được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các ngân hàng với tư cách là người đi vay. Chẳng hạn, quy định chuẩn mực về phạm vi và mức độ chi tiết của các thông tin cần báo cáo cho ngân hàng khi vay vốn; chuẩn mực hóa các thủ tục vay vốn và tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng; quy định cụ thể về xử lý và giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng với khách hàng. Thứ hai, nhằm thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả thông qua quy định về chất lượng và sự cập nhật của thông tin mà ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp cho những người tham gia thị trường. Cụ thể, cần quy định rõ cơ chế cung cấp thông tin, loại thông tin và phạm vi cung cấp. Điều này giúp cho công chúng với tư cách người đầu tư và người sử dụng các dịch vụ tài chính có khả năng và cơ hội lựa chọn các ngân hàng đáng tin cậy và các dịch vụ tài chính có chất lượng. Các ngân hàng vì thế sẽ luôn quan tâm hơn tới tính minh bạch và chất lượng của bảng tổng kết tài sản trong chiến lược cạnh tranh khách hàng. Để đạt được mục đích này, Ngân hàng Trung ương và các thể chế điều tiết có liên quan thường đưa ra các chuẩn mực, các hướng dẫn hoặc quy định về tính đầy đủ và chính xác của thông tin được công bố. Trong thập kỉ cuối của thế kỷ XX, chức năng thanh tra giám sát các ngân hàng đang có xu hướng tách ra khỏi Ngân hàng Trung ương. ở một số nước như Anh, Australia, Nhật Bản, chính phủ thành lập một thể chế siêu điều tiết (super regulation) có khả năng điều tiết và giám sát các loại hình định chế tài chính. Thể chế điều tiết này độc lập với ngân hàng trung ương, trực thuộc Văn phòng Chính phủ (Nhật) hoặc Bộ Tài chính (Anh). Ngân hàng Trung ương chỉ còn chức năng quản lý vĩ mô duy nhất là xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Phần II Vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của NHNN Việt Nam 2.1. Giới thiệu chung về Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ; nhằm ổn định giá trị đồng tiền góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ngân hàng nhà nước Việt Nam được hình thành từ năm 1951.Từ đó cho tới nay, đã trải qua những bước phát triển sau : - Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập với tư cách là ngân hàng phát hành trung ương, đồng thời kiêm nghiệm chức năng của ngân hàng thương mại. - Tháng 1 năm 1960, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phù hợp với hiến pháp mới của nước ta. Thực hiện Nghị định 171/CP (26/10/1961), chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước được mở rộng, hệ thống tổ chức được hình thành từ trung ương đến các tỉnh, thành phố và quận huyện. - Sau khi thống nhất đất nước và hoàn thành việc quốc hữu hoá hệ thống ngân hàng dưới chế độ cũ ở miền Nam, trên cả nước hình thành hệ thống ngân hàng thống nhất, bao gồm bộ máy tổ chức ngân hàng nhà nước Việt Nam và bộ máy tổ chức các ngân hàng chuyên doanh. Đặc điểm tổ chức của hệ thống ngân hàng thời kỳ này vẫn mang đầy đủ đặc điểm của hệ thồng ngân hàng một cấp - Ngày 26 tháng 3 năm 1988, Hội đồng bộ trưởng ban hành nghị định 53/HĐBT về tổ chức hệ thống ngân hàng nhà nước Việt Nam. Theo đó, mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam được phân thành hai cấp: ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước các hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; và các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. - Ngày 26 tháng 12 năm 1997, Nhà nước ban hành Luật Ngân hàng nhà nước Việt nam (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998). Từ đây, mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng nhà nước Việt Nam được chi phối bởi Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam. Hiện nay, ngân hàng nhà nước có những hoạt động chủ yếu sau: - Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: chủ trì xây dựng dự án tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung; Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, thực hiện đưa tiền vào lưu thông và rút tiền theo tín hiệu của thị trường. - Là cơ quan duy nhất phát hành tiền - Hoạt động tín dụng: cho các tổ chức tín dụng vay và tạm ứng cho ngân sách trung ương. - Hoạt động thanh toán: mở các tài khoản và thực hiện các giao dịch cho kho bạc nhà nước, các tổ chức tín dụng trong nước và các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính quốc tế; đồng thời là đại lý cho kho bạc nhà nước trong việc đấu thầu, phát hành và thanh toán tín phiếu, trái phiếu. - Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối. - Thanh tra, kiểm soát của ngân hàng nhà nước: thực hiện thanh tra các tổ chức tín dụng và ngân hàng, nhằm góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. - Hoạt động thông tin : tổ chức thu nhận, phân tích và dự báo thông tin trong và ngoài nước về kinh tế, tài chính, tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm phục vụ việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. 2.2. Những thành tựu đạt được của NHNN Việt Nam Bảng 2.1 : Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế - chỉ tiêu và thực hiện 1996-2000 Năm Tỷ lệ lạm phát (%/ năm) Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%/năm) Mục tiêu Thực hiện Mục tiêu Thực hiện 1996 <14 4,5 9-10 9,5 1997 <10 3,6 9-10 9,0 1998 7-8 9,2 8,5-9 5,8 1999 <10 0,1 5-6 4,8 2000 6 -0,6 5,5-6 6,0 2001 <5 0,8 7,5-8 6,8 2002 <5 4,0 7-7,5 7,04 2003 <5 3,0 7,5 7,14 2004 <5 9,5 7,5-8 7,7 2.2.1. Hiệu qủa của chính sách tiền tệ Giảm lạm phát và ổn định giá cả Trong những năm đầu của thập kỷ 90, với việc chọn M2 là mục tiêu trung gian, Chính sách tiền tệ thắt chặt đã hạn chế được lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1997, chính sách tiền tệ nới lỏng đã góp phần thực hiện chương trình kích cầu của Chính phủ thông qua hệ thống tín hiệu nhằm thông báo công khai chiều hướng duy trì điều kiện tiền tệ thuận của Ngân hàng nhà nước: Đó là giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, trần lãi suất cho vay đến tháng 7/200 và lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000. Năm 2004, diễn biến thị trường biến động phức tạp, chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng, chủ yếu do tác động từ phía cung (ảnh hưởng của xu hướng tăng giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào), ngân hàng nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc hạn chế giá cả leo thang. Tuy không đạt được thành công như mong muốn nhưng đã góp phần hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà chính phủ đặt ra. Ổn định tỷ giá đồng nội tệ: Từ năm 1991 đến năm 2004, tỷ giá đồng Việt Nam so với Đôla Mỹ có những biến động khá ổn định dưới sự điều hành của chính sách tiền tệ mới. Tuy trong hai năm 1997 và 1998, do chịu tác động chung của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, đồng Việt Nam mất giá mạnh hơn so với những năm trước (đồng Đôla tăng hơn 14% và 9,6% trong hai năm này). Nhưng trong những năm sau đó, đồng Việt Nam lại trở lại ổn định, vẫn duy trì ở mức “yếu” để khuyến khích xuất khẩu. 2.2.2. Đổi mới các công cụ quản lý Để thực hiện các mục tiêu vĩ mô trong điều hành thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà nước đã từng bước chuyển từ công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động : Qua 5 năm thực hiện, nghiệp vụ thị trường mở bước đầu đã phát huy vai trò điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng. Khối lượng giao dịch nghiệp vụ thị trường mở theo cả hai chiều mua và bán giấy tờ có giá tăng mạnh qua các năm. Trong 6 tháng đầu năm, SBV đã tổ chức 68 phiên giao dịch (cùng kỳ năm 2004 là 56 phiên) với khối lượng trúng thầu đạt 51.711 tỷ, tăng 171% so với cùng kỳ năm trước. Mỗi phiên giao dịch thường có 5-7 thành viên đặt thầu, bao gồm cả ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổng doanh số giao dịch năm 2004 gấp 3 lần năm 2003 và gấp 16 lần năm 2001; 6 tháng đầu năm 2005 doanh số giao dịch đã gần bằng 90% cả năm 2004. Khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng tăng bình quân từ 82 tỷ đồng/phiên (năm 2000) lên 725 tỷ đồng/phiên trong 6 tháng đầu năm 2005, cá biệt có phiên lên tới 3.500 tỷ đồng/phiên (thời điểm giáp Tết). Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo hướng mở rộng cung tiền: Trong thời điểm lãi suất huy động USD tăng cao, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc (DTBB) ngoại tệ từ 5%-10% và cao nhất là 15%. Sau đó diễn biến lãi suất USD theo chiều ngược lại thì tỷ lệ DTBB được điều chỉnh giảm xuống 12%. Từ tháng 4/2002, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm xuống đến 8% và đến tháng 8/2003 còn 4%. Đồng thời NHNN cũng điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đồng Việ t Nam từ 5% xuống 3% và từ tháng 3/2003 các mức đó giảm thêm 1% đã có tác động lớn trong điều hành tỷ giá và lãi suất, giúp cho sự biến động lãi suất nội tệ diễn ra theo xu hướng có lợi hơn lãi suất USD, hạn chế được hiện tượng đô la hoá trong tài sản của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, NHNN đưa bổ sung thêm tiền gửi trên 12 tháng đến 24 tháng vào cơ cấu tiền gửi DTBB, đồng thời cho phép tính cả số dư tiền gửi của chi nhánh các tổ chức tín dụng tại chi nhánh NHNN ở các tỉnh, thành phố vào DTBB. Đối với công cụ tái cấp vốn Các quy trình thủ tục được từng bước đơn giản hoá, tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng. Đặc biệt trong năm 2003, NHNN đã sửa đổi, bổ sung các quy định về cho vay cầm cố, chiết khấu, tái chiết khấu của ngân hàng thương mại. Theo đó, cùng với việc áp dụng lãi suất thấp đối với chiết khấu, NHNN thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu đối với các ngân hàng để các ngân hàng đều có thể tiếp cận với kênh cho vay tái cấp vốn dưới hình thức cầm cố khi NHNN thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Điều chỉnh lãi suất Lãi suất luôn là công cụ nhạy cảm và luôn nhận được sự quan tâm cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Kể từ tháng 6/2002, ngân hàng nhà nước thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận VND. Tháng 3/2003, ngân hàng nhà nước tạo lập cơ chế điều hành lãi suất mới thông qua xác định lãi suất “trần” là lãi suất tái cấp vốn và “sàn” là lãi suất chiết khấu, với mức chênh lệch là 2% - 2,4%/năm, gắn với cơ chế phân bổ hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhà nước tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để định hướng lãi suất thị trường, công bố lãi suất cho vay qua đêm và thanh toán bù trừ tại các chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố. Lãi suất thị trường được điều hành linh hoạt theo mục tiêu chính sách lãi suất trong từng thời kỳ và dao động trong khoảng giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Đối với tỷ giá hối đoái Ngân hàng nhà nước đã điều hành tỷ giá linh hoạt, thận trọng, bám sát sự biến động của thị trường ngoại hối, đồng thời tăng cường việc tuyên truyền, giải thích trên các phương tiện thông tin, đại chúng về chủ trương, định hướng của ngân hàng nhà nước trong điều hành tỷ giá. Nhờ đó, tỷ giá giữa các loại ngoại tệ với VND được duy trì tương đối ổn định trong bối cảnh một số ngoại tệ mạnh có giao dịch nhiều với Việt Nam lại liên tục không ổn định.Việc điều hành tỷ giá linh hoạt cùng cơ chế quản lý ngoại hối đã tạo bước đột phá trên thị trường ngoại hối. Các giao dịch hối đoái thông thoáng hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Việc từng bước tự do hoá các giao dịch vãng lai, xoá bỏ tỉ lệ kết hối đã tạo thế chủ động hơn về tài chính cho các doanh nghiệp, mở rộng dịch vụ thanh toán quốc tế, giảm căng thẳng về cung cầu ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại tệ cho đất nước. 2.2.3. Hoạt động quản lý các ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại đóng vai trò là những trung gian tài chính quan trọng. Chúng đã đưa một lượng vốn lớn từ những người có nhu cầu cho vay tới những người có nhu cầu vay, góp phần phân bổ hiệu quả các nguồn lực trong xã hội. Không những vậy, các ngân hàng thương mại còn là một kênh tạo tiền quan trọng trong nền kinh tế. Hoạt động của các ngân hàng này có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của chính sách tiền tệ. Do đó, quản lý hệ thống ngân hàng thương mại là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngân hàng nhà nước. Đến nay, NHNN đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư cấp bổ sung 10921 tỷ đồng vốn điều lệ cho NHTMNN. NHNN tiếp tục chỉ đạo các NHTMNN triển khai Đề án tái cơ cấu: Quản trị rủi ro, kiểm toán nội bộ, quản lý tài sản nợ - tài sản có, quản lý tín dụng, quản lý vốn, xây dựng hệ thống thông tin quốc tế, hiện đại hoá công nghệ... Đến nay, về cơ bản các NHTMNN đã hoàn thành việc xây dựng chiến lược kinh doanh với sự trợ giúp của Ngân hàng thế giới. Ngoài ra, NHNN còn cho phép các ngân hàng thương mại được cổ phần hoá nhằm tăng vốn chủ sở hữu đồng thời tạo ra động lực cạnh tranh cho thị trường tài chính. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá NHTMNN, NHNN đã xây dựng khẩn trương Đề án cổ phần hoá Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam và Ngân Hàng Phát Triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long. Hơn thế nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, NHNN còn cho phép một số tổ chức tài chính ngân hàng và phi ngân hàng nước ngoài tham gia hoạt động thị trường tài chính tín dụng trong nước nhưng vẫn đảm bảo cho các NHTM trong nước hoạt động một cách có hiệu quả trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Sau giai đoạn tập trung chấn chỉnh, củng cố, chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần đã dần dược nâng cao, nợ quá hạn giảm. Hiện nay các ngân hàng cổ phần đều đảm bảo đủ hoặc vượt mức vốn điều lệ theo quy định của pháp luật. Để có lợi nhuận, các NHTM phải vượt qua các vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự vỡ nợ có thể xảy ra đặc biệt là trong nến kinh tế đầy tính cạnh tranh như hiện nay. Trong những năm gần đây, NHNN Việt Nam đã không ngừng tăng cường hoạt động thanh tra giám sát một cách chặt chẽ công tác củng cố, xử lý đối với các ngân hàng yếu kém. Đến nay, hầu hết các ngân hàng yếu kém đã có chuyển biến tích cực trong hoạt động. 2.3. Một số mặt còn yếu trong hoạt động của NHNN Việt Nam 2.3.1. Hiệu quả của chính sách tiền tệ đôi khi còn hạn chế Một là, trong những năm 1997–2000, ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng nhưng kết quả mang lại chưa đạt như mong muốn. Lượng tiền cung ứng tăng lên với mức độ lớn, lãi suất VND và tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi nội tệ đều giảm, nhưng mức lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế đều thấp hơn dự kiến. Năm 1991-2000, cùng với chính sách tài chính, ngân hàng nhà nước Việt Nam thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngăn chặn đà giảm phát, nhưng mức lạm phát và tăng trưởng kinh tế vẫn thấp hơn kế hoạch. Năm 2004, ngược lại, mức lạm phát lại cao hơn dự tính (9,5%). Hai là, ngân hàng nhà nước không hoàn toàn chủ động trong việc kiểm soát tiền cơ sở (MB). Ngân hàng nhà nước chọn chỉ tiêu tăng trưởng MB làm mục tiêu hoạt động, song can thiệp của ngân hàng nhà nước thời gian qua chủ yếu thụ động chứ chưa chủ động theo đuổi mục tiêu hoạt động của mình. Ba là, việc dự báo cung - cầu vốn khả dụng chưa đưa ra những tư vấn chính xác về tình trạng cung - cầu vốn khả dụng làm căn cứ xác định liều lượng và chiều hướng tác động của chính sách tiền tệ. Bốn là, tác động của M2 đến các biến số kinh tế chưa rõ ràng. Những hạn chế của nghiệp vụ thị trường mởthiie kho ngaivao Hoạt động thị trường mở vẫn còn bất cập trong đặt thầu, xét thầu; các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá, thủ tục về lập hợp đồng... và đôi khi vẫn phải áp dụng lãi suất chỉ đạo trong các phiên giao dịch. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa lãi suất nghiệp vụ thị trường mở cũng như các lãi suất của SBV nói chung với lãi suất thị trường còn chưa thực sự gắn kết. Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở cũng vẫn còn bất cập trong đặt thầu, xét thầu.Các thủ tục về đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá, thủ tục về lập hợp đồng mua bán giấy tờ có giá, quy trình giao dịch qua mạng chưa thực sự đơn giản hoá... Ngân hàng Nhà nước cũng cho rằng các hạn chế khác của nghiệp vụ thị trường mở còn do cơ sở hạ tầng thông tin, đường truyền chưa đáp ứng được so với yêu cầu thực tế. Vì thế thời gian giao dịch còn kéo dài, có lúc bị tắc nghẽn. Lãi suất Nhìn vào cơ chế điều hành lãi suất hiện tại chúng ta thấy còn một số vấn đề cần quan tâm: Thứ nhất, quan hệ giữa các lãi suất trên thị trường có nhiều điểm chưa hợp lý : - Lãi suất cơ bản được điều chỉnh để phản ánh diễn biến lãi suất thị trường nhưng mức độ điều chỉnh không lớn, biên độ giao độ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương ở việt nam ngân hàng trung ương thực hiện vai trò như thế nào.doc
Tài liệu liên quan