Quan điểm của các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng và từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã chỉ rõ : nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN ( nói ngắn gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) .
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” chúng ta sẽ phân tích hai cơ chế kinh tế cụ thể là cơ chế thị trường tự do cạnh tranh và cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở Việt nam hơn 20 năm trước đây.
2 / Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh và cơ chế kế hoạch hoá tập trung
2.12/ Cơ chế thị trường mặt tích cực và mặt hạn chế.
Sự vận động của bàn tay vô hình trong nền kinh tế thị trường chính là cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường : Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật tự nhiên vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố : giá cả, cung - cầu, cạnh tranh...trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.
Ưu điểm của cơ chế thị trường:
Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển năng động, hiệu quả.
Thứ hai, dưới tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất ( tổng cung ) với khối lượng và nhu cầu xã hội ( tổng cầu ) nhờ đó thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân cũng như của xã hội.
Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc nhà sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Thứ tư, cơ chế thị trường thực hiện phân phối nguồn lực một cách tối ưu. Nguồn lực (vốn, các yếu tố sản xuất) được phân phối theo nguyên tắc của thị trường, chuyển từ nơi có hiệu quả sử dụng thấp đến nơi có hiệu quả sử dụng cao nhất.
Nhờ những ưu điểm đó, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất để điều tiết nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó.
Những mặt hạn chế của cơ chế thị trường:
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ hoạt động tốt trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, độc quyền, thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm.Thực tế đã chứng minh điều đó: cho đến những năm 30 thế kỷ XX khi CNTB tự do cạnh tranh đã từng bước chuyển sang giai đoạn CNTB độc quyền, cạnh tranh không còn là cạnh tranh hoàn hảo nữa do vây hiệu lực điều tiết của cơ chế thị trường bị giảm sút, hậu quả là khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp.
Thứ hai, mục đích của con người kinh tế là tư lợi, chạy theo lợi nhuận, và tối đa hoá lợi nhuận. Do vậy sẽ có những hiện tượng : cá lớn nuốt cá bé, lạm dụng tài nguyên, huỷ hoại môi trường và vi phạm pháp luật.
Thứ ba, cũng do chạy theo tư lợi mà phân phối thu nhập không còn công bằng. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu tới đạo đức và tình người.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường thuần tuý khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng khoảng có tính chu kỳ như : thất nghiệp, lạm phát.
2.2/ Cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mặt tích cực, và hạn chế.
Trước đây, do nhận thức còn giản đơn về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, vận hành cơ chế quan liêu bao cấp. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp là nền kinh tế mà nhà nước can thiệp quá sâu vào nền kinh tế, chi phối tất cả các mặt từ sản xuất đến lưu thông, phân phối tiêu dùng.
Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung có những mặt hạn chế sau:
Thứ nhất, do nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính từ trên xuống dưới, doanh nghiệp thụ động, toàn bộ quyết định sản xuất phải dựa vào cấp trên, phát sinh tính ỷ lại, kém sáng tạo. Thêm vào đó, Nhà nước có vai trò quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? số lượng bao nhiêu? sản xuất cho ai? Những quyết định đó lại xuất phát từ chủ quan của các cấp lãnh đạo không căn cứ, bắm sát vào thị trường, xem xét nhu cầu thị trường, về loại hàng hoá, dịch vụ số lượng. Do vậy mà không đáp ứng được nhu cầu của người dân.
Thư hai do sự can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất mà không phải chịu trách nghiệm với quyết định của mình nên gây những tổn thất cho ngân sách.
Thứ ba là do Không tính đến quan hệ hàng tiền, và những qui luật kinh tế khác như qui luật giá tri, qui luật cung cầu. Từ đó là méo mó thị trường, cơ chế tự điều tiết của thị trường không còn hiệu lực. Hậu quả là khủng hoảng kinh tế, lạm phát...
Thứ tư là do :Thực hiện phân phối bằng hiện vật mang tính bình quân, thực hiện chế độ bao cấp từ: bao cấp qua giá, bao cấp qua chế độ tem phiếu, bao caap trong cấp phát vốn từ ngân sách. Chính chế độ này xuất phát từ chủ quan của các cấp lãnh đạo nên đã không thể phân bổ nguồn lực một cách, hiệu quả hợp lý, vẫn gây lãng phí.
Thứ tư là, cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã thủ tiêu tính cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Mô hình kinh tế đó không có tiêu chuẩn khách quan để đánh giá hoạt động hiệu quả bởi giá cả xa rời giá trị, mọi tính toán đều sai lệch mất đi động lực phát triển của nền kinh tế, triệt tiêu tính năng động sáng tạo. Phát triển kinh tế theo bề rộng chư không theo chiều sâu.
Cuối cùng, là do bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian kém năng động hiệu quả, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực như lại cửa quyền quan liêu.
Tuy nhiên, ưu điểm của cơ chế kế hoạch hoá tập trung là được nguồn lực, vào những mục tiêu chủ yếu đã đề ra.
Vì vậy với sự đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế là “ chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa.
3/ Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý kinh tế của nhà nước
Như đã phân tích ở trên, về mặt cơ sở khoa học lẫn cơ sở thực tiễn đã cho thấy rằng : không thể phát triển kinh tế dựa vào cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, có nghĩa là nhà nước không thể áp đặt, nền kinh tế. Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất để điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách hiệu quả, tuy nhiên nó tồn tại những mặt hạn chế. Vì thế lại cần có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế với những mức độ hợp lý để sửa chữa, khắc phục những thất bại thị trường. Nền kinh tế có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và cơ chế kế hoạch hoá tạo gọi là nền kinh tế thị trường hiện đại, mô hình kinh tế hỗn hợp. Hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế hỗn hợp. Nói cách khác từ thực tiễn những thiếu sót của hai bàn tay vô hình và hữu hình đã đòi hỏi cần có sự phối hợp giữa chúng. Vai trò kinh tế của nhà nước vì thế mà mang tính khách quan.
Đối với Việt Nam, một đất nước đi theo con đường XHCN, thì tất yếu phải có vai trò kinh tế của nhà nước.
Hiện nay nền kinh tế thị trường của nước ta còn ở trình độ kém phát triển, bởi cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh tế còn mang tính tự cấp tự túc. Tuy nhiên: Nước ta đã lựa chọn con đường phát triển lên nền kinh tế thị trường bỏ qua giai đoạn nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh nền kinh tế thị trường hiện đại. Đảng ta đã xác định cần phải và có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng XHCN theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa chúng là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhằm xây dựng một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế nước ta bắt kịp với tốc độ phát triển chung của thế giới, đồng thời phải hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đề thực hiện được điều này đồng nghĩa với phải phát huy vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo bởi lẽ mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội- XHCN ở nước ta. Cần nhận thức rõ ràng, mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có bản chất kinh tế xã hội riêng, chịu sự tác động của các qui luật kinh tế riêng, bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế riêng còn có sự khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường nước ta có khả năng phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nhưng vì dựa vào chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng ta không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận nảy sinh những hiện tượng tiêu cực gây tổn hại đến lợi ích chung của xã hội.
Những phân tích trên đây đã chỉ ra rằng, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là tất yếu với mỗi quốc gia, là tất yếu để một quốc gia đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH có thể thực hiện được mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH và các mục tiêu khác.
II/ Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
1/ Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường
Khái niệm về một nền kinh tế thị trường :
Khái niệm kinh tế hàng hóa : kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để mua bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong nền kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá nhưng ở trình độ phát triển cao hơn nhiều. Trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Một nền kinh tế thị trường luôn bao hàm những đặc trưng chung như sau:
Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh.
Hai là, giá cả hình thành trên thị trường chịu sự chi phối của qui luật cung- cầu, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ nó có tác dụng là cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Ba là, nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh...Sự tác động giữa các qui luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường tự do.
Bốn là, nền kinh tế thị trường hiện đại có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua luật kinh tế, kế hoạch hoá, và các chính sách kinh tế, phối hợp hai bàn tay “vô hình và hữu hình” mà P. Samuelson là người đề xuất.
2/ Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Khái niệm về một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN :
Quan điểm của các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX của Đảng và từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã chỉ rõ : nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN ( nói ngắn gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) .
Từ những quan điểm của đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX , và thực tiễn nền kinh tế nước ta hiện nay, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét về đặc trưng cơ bản và chủ yếu của mô hình kinh tế mới này là:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trước hết là nền kinh tế thị trường nên một mặt nó vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường như đã nêu trên. Mặt khác nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam còn dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH. Do đó kinh tế thị trường định hướng XHCN có những đặc trưng bản chất, những đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường: Mục đích chính trị, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là một trong những tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường ở nước ta so với nền kinh tế thị trường ở các nước khác. Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là phát triển sản xuất, huy động tiềm năng, mọi nguồn lực để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật XHCN, nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao đời sống văn hoá vật chất của nhân dân. Việt Nam thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng là : lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội,khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chỉ đạo, khai thác tiềm năng thế mạnh của mỗi thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, và sở hữu tư nhân ( gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba hình thức sở hữu cơ bản hình thành các thành phần kinh tế : là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo đảm bảo định hướng phát triển cho các thành phần kinh tế khác, củng cố vai trò kinh tế của nhà nước.
Thứ ba là : trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó phân phối theo lao động là nguyên tắc cơ bản, một mặt phát huy động lực trong cơ chế thị trường mặt khác có sự quản lý của nhà nước. Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị mà trước hết là quan hệ sở hữu. Các hình thức thu nhập là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Trong thời kỳ quá độ nước ta có tồn tại nhiều chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và những hình thức sở hữu là kết quả của sự đan xen giữa các hình thức sở hữu trên. Bởi thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản hay vốn đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động ( trong các doanh nghiệp tư nhân hay những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), phân phối qua quĩ phúc lợi tập thể và xã hội. Điểm khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ: xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Thứ tư : cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bằng những công cụ chính sách vĩ mô để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận động theo những qui luật vốn có của nền kinh tế thị trường; như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh...; giá cả là do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối lại các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường bằng sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thực hiện ở cả tầm vi mô, lẫn vĩ mô. Là đặc trưng của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Cuối cùng, đó là một nền kinh tế phát triển, chủ động mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở đa phương hoá đa dạng hoá các hình thức đối ngoại nhằm phát huy nguồn lưc bên trong, tranh thủ nhưng yếu tố bên ngoài. Trong thời gian tới, chúng ta sẽ đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nên cần có sự chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt và vượt qua những thách thức. Bởi thế chúng ta phải chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường mới, cải thiện môi trường đầu tư, và bằng nhiều biện pháp , hình thức thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài.
III/ Các mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vi mô của nhà nước
1/ Các mục tiêu :
Ngày nay, hầu hết các nền kinh tế của các quốc gia đều có sự quản lý của nhà nước. Tất nhiên mục tiêu cơ bản của quản lý kinh tế vĩ mô ở các nước đều nhằm sửa chữa, khắc phục ở một mức độ nào đó những thất bại thị trường. Tuy nhiên mỗi một chế độ xã hội, khác nhau lại đề ra những mục tiêu kinh tế xã hội khác nhau. Ngay trong cùng một chế độ xã hội, mỗi quốc gia lại có những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội riêng biệt phù hợp với đặc thù riêng có của quốc gia đó.
Nền kinh tế thị trường không bao hàm chế độ xã hội mà chỉ là công cụ để chế độ xã hội đó phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chế độ xã hội đó. Nên những mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước được đề ra phải xuất phát từ tư tưởng của giai cấp thống trị. Toàn Đảng toàn dân ta đã chọn con đường tiến lên CNXH, chọn nền kinh tế là Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩla, xác định mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” . Nên chắc chắn mục tiêu cơ bản của quản lý nền kinh tế vĩ mô của nhà nước là thực hiện mục tiêu mà giai cấp vô sản. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng cụ thể là :
Quá độ lên CNXH là quyết tâm của toàn Đảng toàn dân ta. Nhưng để quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì mục tiêu hàng đầu cho công tác quản lý kinh tế vĩ mô là phải xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật xã hội chủ nghĩa, phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, thị trường mới hình thành chưa đồng bộ. Cho nên mục tiêu của quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước là phải nhanh chóng xây dựng hoàn thiện nền kinh tế thị trường ở nước ta, phát triển theo định hướng XHCN. Từ đó có điều kiện xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Cần tiến hành đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội_cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hóa để mau chóng hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; và cũng trên cơ sở đó từng bước phát triển kinh tế tri thức. Đây cũng là mục tiêu cấp thiết đối với công tác quản lý kinh tế vĩ mô ở nước ta.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, giải phóng mọi tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế, phát huy được lợi thế của đất nước. Trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó thì việc hoàn thành mục tiêu này có ý nghĩa rất lớn. Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
Là một nước phát triển theo đường lối XHCN, mục tiêu được công tác quản lý kinh tế vĩ mô đặc biệt chú trọng thực hiện tư tương Hồ Chí Minh là : “ Lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân ; Lấy tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội ; Khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo.
2/ Nội dung về vai trò quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Nội dung chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, quyết định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển kinh tế phụ thuộc trước tiên vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Một chiến lược đúng, có căn cứ khoa học cần phân tích đúng hiện trạng kinh tế - xã hội, xác định mục tiêu phát triển ( đã nêu ở trên ), lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy cần thực hiện : dân chủ hoá, khoa học hóa, thể chế hoá quyết sách.
Thứ hai là kế hoạch. Kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược. Bao gồm kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn, nêu rõ biện pháp và phương thức thực hiện các mục tiêu đó.
Thứ ba là tổ chức. Bao gồm bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng quyền hạn, trách nghiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn cán bộ thích hợp.
Thứ tư là chỉ huy và phối hợp. Để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, hiệu quả cần có sự chỉ huy thống nhất tức là cần có một cơ quan quản lý thống nhất, có quyền lực, nắm được đầy đủ thông tin có khả năng điều hoà, phối hợp hoạt động của nền sản xuất xã hội, giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh, đảm bảo cân băng tổng thể kinh tế.
Cuối cùng là khuyến khích và trừng phạt. Khyến khích bằng những đòn bẩy kinh tế khích lệ mọi nỗ lực cố gắng theo định hướng kế hoạch. Trừng phạt nghiêm với những kẻ đi ngược với kế hoạch với chiến lược phát triển, có hành vi xâm hại...
3/Các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước :
Một là, tạo điều kiện môi trường cho các hoạt động kinh tế ( bao gồm môi trường luật pháp, môi trường chính trị ổn định ). Vì ổn định chính trị là điều kiện cần thiết để phát triển nền kinh tế. Bên cạnh đó cần phải thiết lập khuôn khổ luật pháp, tạo hành lang cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản, về hoạt động thị trường, những quy định chi tiết cho hoạt động của doanh nghiệp. Trong khuôn khổ pháp luật mà nhà nước thiết lập Nhà nước có tác động sâu sắc đến hành vi của chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi của họ.
Hai là, Nhà nước định hướng phát triển cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Nhà nước xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số ngành để dẫn dắt nền kinh tế phát triển đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhà nước sử dụng những chính sách tài chính tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
Ba là, Nhà nước tiến hành Phân phối lại thu nhập, và hàng khuyến dụng dựa theo chế độ phân phối theo lao động tránh chủ nghĩa “bình quân”. Ngăn cản được tình trạng sức mua của tiền lương và tiền lương ngày càng giảm. Chức năng này cho phép Nhà nước thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân, và người lao động.
Bốn là, Nhà nước cần phải thực hiên chức năng cơ bản là: Sản xuất và cung cấp hàng hoá công cộng. Bao gồm: hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thuỷ lợi, hệ thống an ninh quốc quốc phòng, những khu vui chơi giải trí công cộng...
Năm là, Nhà nước thực hiện chức năng hạn chế và khắc phục những ảnh hưởng ngoại hiện, tiêu cực mà cơ chế thị trường chạy theo lợi nhuận gây ra (như ô nhiễm môi trường, lạm phát, thất nghiệp). Xây dựng một nền kinh tế thị trường trên cơ sở bảo đảm 3 nguyên tác: tự do kinh doanh công bằng về cơ hôi (chống độc quyền) và an toàn (bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng).
Cuối cùng Nhà nước có chức năng : Hạn chế thâm hụt ngân sách, chăm lo tới nguồn thu mới.
4/ Các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước Việt Nam
Hệ thống pháp luật
Hệ thống pháp luật tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Bao gồm luật doanh nghiệp, về hợp đồng kinh tế, về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, và bảo vệ môi trường. Các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều chỉnh của Nhà nước.
Hệ thống kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá và thị trường là hai công cụ quản lý của nhà nước, chúng kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự điều tiết của cơ chế thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực, còn kế hoạch sẽ khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển theo hướng kế hoạch. Kế hoạch dựa trên cơ sở thị trường.
Lực lượng kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là lực lượng chủ chốt để nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế, tác động vào các thành phần kinh tế dẫn dắt các thành phần kinh tế, định hướng phát triển. Xây dựng một nền kinh tế tập thể để chúng dần trở thành nền tảng kinh tế, hỗ trợ những thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Cũng nhờ đó, Nhà nước có sức mạnh vật chất để tiến hành điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu mà kế hoạch đã đặt ra.
Chính sách tài chính tiền tệ :
Đối với nền kinh tế thị trường, nhà nước quản lý bằng biện pháp kinh tế là chủ yếu. Những biện pháp điều tiết vĩ mô nền kinh tế được thực hiện thông qua chính sách tài chính tiền tệ là chủ yếu.
Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu ( là thuế ) và các khoản chi. Thông qua thu chi ngân sách nhà nước, Nhà nước điều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong phân phối, và thực hiện các chức năng khác.
Chính sách tiền tệ, vai trò của công cụ này ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. Thông qua chính sách tiền tệ, nhà nước có thể khống chế được lạm phát, và tổng quy mô tín dụng. Lãi suất là công cụ điều tiết cung cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung tiền, kìm chế lạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35552.doc