Nhà nước nói những chức năng của mình sẽ góp phần tích cực trong việc định hướng, xây dựng và quản lý nền kinh tế. Đối với nước ta nền kinh tế còn kém phát triển, lạc hậu bị phân tán cùng với đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu kém về kinh nghiệm thì vai trò quản lý của Nhà nước lại càng quan trọng. Nhà nước đóng vai trò là kim chỉ nam cho thị trường phát triển đúng hướng, phát triển theo đúng quỹ dạo đã định. Nhà nước với vai trò của mình là thiết lập khuôn khổ pháp luật, điều phối, điều tiết, đảm bảo sự công bằng và kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô nhằm đảm bảo quyền tự do tự chủ, công bằng xã hội trong phân phối kinh tế và mở rộng phúc lợi xã hội hạn chế khủng hoảng dẫn đến sự ổn định kinh tế vũ mô. Việc quan trọng nhất của Nhà nước là ngay từ đầu Nhà nước cần phải xác định đúng mục tiêu quản lý của mình, để từ đó đưa ra những chính sách, chiến lược hợp lý thì mới thành công trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. kinh tế thị trường mà cụ thể là cơ chế thị trường phải được thực hiện từng bước không được nóng vội, đốt cháy giai đoạn nếu không sẽ gây ra những hậu quả khó lường.
Ở nước ta hiện nay thị trường tuy đã được mở rộng song vẫn còn nhỏ bé và đang còn mang tính lạc hậu so với thế giới. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước ta cần phải có những ưu sách nhằm mở rộng và cải tiến để có một thị trường lành mạnh hơn tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó Nhà nước chúng ta cần phải bảo vệ nó thông qua luật kinh doanh thuế. Để tránh hiện tượng các công ty nước ngoài chèn ép, bóp nghẹt các doanh nghiệp trong nước. Nhà nước cần phải nhìn thấy được những lợi thế của mình để từ đó nâng cao dần vị trí của mình trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
15 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3440 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Mỗi hình thái kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử đều có tính logic của nó, vì vậy nên nó đem lại được khá nhiều thành công tốt song nó cũng chưa thật được mỹ mãn vì nó có nhiều thiếu sót cần phải khắc phục. Chúng ta hiện nay đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lê chủ nghĩa xã hội vì vậy điều tất yếu của chúng ta là phải nghiên cứu con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Để góp phần vào xây dựng cơ chế tổ chức quản lý kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện của nước ta và phù hợp với xu thế của thế giới là nguyên nhân để em chọn đề tài:
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Việt Nam chúng ta vừa mới bắt đầu công cuộc đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên có nhiều vấn đề được đặt ra. Bởi thực tế đã cho thấy ở các nước đi trước, khi họ để nền kinh tế vận dụng theo cơ chế thị trường không có sự quản lý của Nhà nước thì không đạt được mục tiêu kinh tế mà còn hơn thế nữa nó còn đẩy lùi nền kinh tế, điển hình là cuộc khủng hoảng 1929 1933. Song nếu có sự can thiệp của Nhà nước và có chiến lược đúng đắn thì nó lại là động cơ thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế. Vì vậy chúng ta cần phải có sự can thiệp của Nhà nước ở tầm vĩ mô để đưa nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang còn nhiều tranh cãi mà chúng ta cần phải làm sáng tỏ, mặc dù có sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo cùng với những nỗ lực của cá nhân em, song do lượng kiến thức còn hạn chế nên trong đề án này em chỉ trình bày được một số quan điểm.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt động chng và do tính chất xã hội hoá của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ xã hội hoá càng cao thì phạm trù thực hiện vai trò này ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao.
Vai trò cnn trong nền kinh tế thị trường được thực hiện qua các chức năng cơ bản sau.
a. Định hướng:
Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự định hướng của Nhà nước. Nếu Nhà nước ta đi chệch hướng thì dù chúng ta có làm tốt đến đâu thì kết quả cũng chỉ là con số không và còn tệ hơn nữa. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước chúng ta phải nắm bắt các quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội và chỉ bảo được các biến động có thể xảy ra, từ đó đưa ra những ưu sách nhằm tác động, khống chế, điều tiết các sự việc xấu có thể xảy ra. Và cũng qua đó đem ra những quyết định đúng đắn về con đường mà chúng ta sẽ đi sao cho nó phù hợp với quy luật nhưng lại hạn chế những sự việc xấu có thể xảy ra ở mức tối thiểu nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế.
b. Thiết lập khuôn khổ pháp luật:
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Ở đây Nhà nước đề ra các quy tắc, trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân Chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những giá trị và quan điểm được đồng tính rộng rãi về sự công bằng hơn là qua một sự phân tích kinh tế được mài dũa rất cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Những khuôn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tới các ứng xử kinh tế của con người.
c. Điều phối, điều tiết:
Nhà nước cần sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả bằng hình thức điều phối, điều tiết mọi hoạt động cũng như vật chất một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện địa lý và môi trường sống để hạn chế những sự lãng phí không cần thiết từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế.
d. Đảm bảo sự công bằng:
Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa không làm triệt tiêu tính tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, một mặt Nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngay nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết quả lao động và phần đóng góp của mình. Mặt khác trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường, vẫn phải thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể xảy ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy Chính phủ cần thiết phải thông qua những chính sách để phân phối lại thu nhập lớn hơn người nghèo mà điển hình là giá điện loại hai.
Bên cạnh đó còn phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp đỡ cho người già, người tàn tật, người không nơi nương tựa….
e. Kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô:
Từ khi ra đời CNTB từng gặp những thăng trầm chu kỳ lạm phát (giá cả tăng) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức những năm 3.
Nhờ học thuyết của John Meynar Keynes và những người theo học thuyết ông mà chúng ta hiểu được làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh. Nhà nước cần phải sử dụng quyền lực của mình một cách thận trọng gián tiếp thông qua luật pháp để kiểm soát nền kinh tế một cách có hiệu quả nhằm ổn định nền kinh tế. Vì một nền kinh tế phát triển thì trước hết mức độ dao động của nó phải thấp, đều và hiện có xu hướng phát triển.
Tóm lại: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường TBCN để tìm ra những định chế có khả năng xoá bỏ được những khuyết tật đó và tạo ra một kinh tế thị trường XHCN.
Vai trò này cũng đòi hỏi phải thay thế dần phương thức phân phối tư bản bằng phương thức phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Nói rộng ra là sáng tạo ra những cách quản lý mới để hướng tới XHCN.
Tuy nhiên để thực hiện vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là cực kỳ khó khăn vì không thể chia tách thị trường nước ta ra khỏi thị trường thế giới bao gồm cả thị trường các nước tư bản. Bởi lẽ học thuyết Ken – dơ đã chỉ rõ XHCN có hai khuyết tật là khủng hoảng kinh tế chu kỳ và thất nghiệp. Bây giờ khuyết tật thứ ba đã xuất hiện đó là dung túng cho đầu cơ ở thị trường chứng khoán phát triển đến mức cực kỳ nguy hiểm từ thập niên 7 với sự lợi dụng những công cụ tài chính và biến chúng những công cụ bán không vì vậy nên chúng ta phải thực hiện bằng hai cách.
Đối thoại với các nước tư bản để họ thấy được các khuyết tật và tự điều chỉnh.
Khéo léo dùng những giải pháp đặc biệt để ngăn chặn tác động xấu của liên Ngân hàng như việc cấm bán khống trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán của ta.
II. ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA.
1. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhìn lại thực tiễn những năm đối với cùng với những bước đi có tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cùng với kinh nghiệm tổng kết được của những bước đã và đang tìm kiếm con đường tương tự.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua các năm 1991 đã nêu lên bảng đặc trưng bản chất của xã hội chủ nghĩa và những phương hướng quan điểm tổng quát và phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội (xã hội chủ nghĩa). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa xã hội, cho nên sự phát triển kinh tế – xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, và văn minh” vừa là mục tiêu vừa là nội dung nhiệm vụ cả việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước với mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời chính nó sẽ bảo đảm sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của Nhà nước thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy”, là “mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo đinh hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Và khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới. Nhà nước ta là Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, Nhà nước công nông, Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới đã bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các quy luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh – hợp tác ….) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), quy định phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình (kinh tế Nhà nước ), Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung – cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ chế thị trường hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của nền kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại là mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lội cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt quá thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên ba nội dung chính là: thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học – công nghệ. Tuy nhiên sự mở cửa hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc đảm bảo công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại ngày nay. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải đảm bảo sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, làm giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều nước chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất đối với chủ nghĩa bình quân, mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sực mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy nếu quá nhấn mạnh tới công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ bẩy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, được thực hiện theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong CNTB, với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), CNTB nhấn mạnh đến yếu tố tư bản (vốn ) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đến yếu tố tích luỹ – đầu tư hơn là yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Ngược lại chủ nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, cho nên trong phân phối thu nhập và thành quả lao động của xí nghiệp, XHCN nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tl – thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến vai trò chủ yếu của lao động, chúng ta không thể coi trọng đến vai trò chủ yếu của yếu tố vốn, đến tăng cường tích luỹ đầu tư (cả Nhà nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản (vốn) và điều bình thường. Chỉ có trên cơ sở đó mới tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, vừa là mục tiêu vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều tiết thu nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. Việc phát triển nền kinh tế gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển kinh tế ở nước ta phải là phát triển bền vững. Chúng ta cần phải biết kế thừa và phát triển những thành tựu của loài người. Trước hết phải sử dụng văn minh của kinh tế thị trường (KTTT), loại bỏ những khuyết tật vốn có của nó để xây dựng XHCN có kết quả. Ở nước ta nếu biết sử dụng KTTT với động lực cạnh tranh làm cho của cải dồi dài cộng thêm yếu tố chính trị một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân vì ý tưởng về kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ được thực hiện.
2. Thực trạng nền kinh tế nước ta.
Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc vượt qua khủng hoảng triền miên kéo dài hàng chục năm, từ năm 1991 đến nay nền kinh tế bắt đầu có sự tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước. Tuy nhiên khó khăn và thách thức vẫn đang còn lớn, điển hình là nền kinh tế nước ta vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé,kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, năng suất, chất lượng và hiệu quả còn rất thấp. Cụ thể trong nông nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu bằng công cụ thô sơ nên năng suất thấp. Trong khi đó công nghiệp chủ yếu nhập máy móc, thiết bị từ nước ngoài và phải phụ thuộc vào họ. Công nghiệp chưa phục vụ tích cực cho nông nghiệp, điều này làm cho kinh tế nước ta mang tính chất nông nghiệp lạc hậu.
Đầu tư khoa học công nghệ tuy có tăng nhưng còn thấp so với nhu cầu sử dụng. Chúng ta còn thiếu những chính sách cụ thể để tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng rộng rãi hơn nữa các thành tựu khoa học công nghệ. Việc sử dụng đãi ngộ đối với cán bộ khoa học kỹ thuật còn chậm, thêm vào đó là cơ sở hạ tầng còn thấp kém gây ra lãng phí nguồn chất xám quý giá.
Khả năng kiềm chế lạm phát chưa được triệt để. Ngân sách thu và chi chưa được cân đối. Nợ nước ngoài còn nhiều và chưa có khả năng thanh toán. trong khi đó nhiều ngành, nhiều cơ sở, nhiều cán bộ quản lý chưa có ý thức tiết kiệm làm thất thoát, lãng phí rất lớn. Tình trạng tham nhũng, buôn bán lậu còn phổ biến như vụ Minh Phụng và Vũ Xuân Trường là điển hình và đây cũng là vấn đề mà cả xã hội quan tâm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn này, trong đó phải kể đến sự tác động của kinh tế thị trường.
Một hiện tượng đáng lưu ý nổi lên trong giai đoạn đầu bước sang KTTT ở Việt Nam là tính trạng đọng vốn lòng vòng, thất thoát tài sản của Nhà nước, làm ăn thua lỗ trước sự cạnh tranh của thị trường ngày càng tăng. Nếu tính từ giai đoạn một khi tổng thanh toán nợ với trên 10.000 doanh nghiệp Nhà nước kê khai xác nhận 8841 tỷ đồng tiền nợ, 4624 doanh nghiệp đang hoạt động nợ lẫn nhau với tổng số 2459 tỷ đồng.
Kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác còn thấp, chưa phát huy và đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường. Đối với kinh tế tư nhân chưa tháo hết những trở ngại gây khó khăn cho sự phát triển sản xuất, thiếu sự quản lý, hướng dẫn. Tình trạng làm ăn trái pháp luật diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước kinh tế tập thể. Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua kinh tế quốc doanh. Hiện nay kinh tế hàng hoá mới phát triển, lực lượng sản xuất còn ở tình trạng thấp, chưa phát triển cân đối, mô hình sở hữu lúc này có các đặc trưng sau:
Vốn trong tay Nhà nước dưới hình thức các xí nghiệp quốc doanh bị phân tán ở các vùng.
Chủ sở hữu tài sản ở các xí nghiệp quốc doanh không rõ ràng.
Quyền sở hữu tài sản của Nhà nước với quyền kinh doanh của các xí nghiệp vẫn bị nhập lại làm một.
Từ những đặc điểm trên cho thấy các xí nghiệp quốc doanh kinh tế tập thể chưa làm chủ và giữ vai trò then chốt của mình trong nền kinh tế.
Cơ chế thị trường đang ở giai đoạn sơ khai mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý của Nhà nước còn thấp và chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường. Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vì vậy nên khả năng tự ý thức chưa cao, bởi lệ thi hành chưa nghiêm túc. Công tác kế hoạch hoá còn yếu kém, hệ thống Ngân hàng còn tiêu cục, chế độ phân phối chưa hợp lý, thực hiện tuỳ tiện chưa thống nhất.
Tích luỹ, đầu tư cho sản xuất còn thiếu tương đối nghiêm trọng. Các nguồn vốn đầu tư cho nước ngoài là chủ yếu dẫn đến mất tính tự chủ trong liên doanh, phải phụ thuộc vào nước ngoài.
Hệ thống quản lý chưa phát huy được sức mạnh, tệ nạn xã hội phát sinh nhiều và có xu hướng ngày một tăng.
Đứng trước tình trạng trên chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là đổi mới nền kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường. Song mô hình KTTT dù ở đâu cũng có những ưu khuyết điểm của nó. Mặt khác để đạt được sự đổi mới theo các mục tiêu, định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn thì việc Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là tất yếu khách quan không thể thiếu được. Đây là điều kiện cần thiết để điều chỉnh cơ chế thị trường vận hành theo một quỹ đạo, mục tiêu đã chọn, làm cho nó tăng tính tích cực và giảm tối đa tính tiêu cực của nó.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Nhà nước nói những chức năng của mình sẽ góp phần tích cực trong việc định hướng, xây dựng và quản lý nền kinh tế. Đối với nước ta nền kinh tế còn kém phát triển, lạc hậu bị phân tán cùng với đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu kém về kinh nghiệm thì vai trò quản lý của Nhà nước lại càng quan trọng. Nhà nước đóng vai trò là kim chỉ nam cho thị trường phát triển đúng hướng, phát triển theo đúng quỹ dạo đã định. Nhà nước với vai trò của mình là thiết lập khuôn khổ pháp luật, điều phối, điều tiết, đảm bảo sự công bằng và kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô nhằm đảm bảo quyền tự do tự chủ, công bằng xã hội trong phân phối kinh tế và mở rộng phúc lợi xã hội hạn chế khủng hoảng dẫn đến sự ổn định kinh tế vũ mô. Việc quan trọng nhất của Nhà nước là ngay từ đầu Nhà nước cần phải xác định đúng mục tiêu quản lý của mình, để từ đó đưa ra những chính sách, chiến lược hợp lý thì mới thành công trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. kinh tế thị trường mà cụ thể là cơ chế thị trường phải được thực hiện từng bước không được nóng vội, đốt cháy giai đoạn nếu không sẽ gây ra những hậu quả khó lường.
Ở nước ta hiện nay thị trường tuy đã được mở rộng song vẫn còn nhỏ bé và đang còn mang tính lạc hậu so với thế giới. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước ta cần phải có những ưu sách nhằm mở rộng và cải tiến để có một thị trường lành mạnh hơn tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó Nhà nước chúng ta cần phải bảo vệ nó thông qua luật kinh doanh thuế. Để tránh hiện tượng các công ty nước ngoài chèn ép, bóp nghẹt các doanh nghiệp trong nước. Nhà nước cần phải nhìn thấy được những lợi thế của mình để từ đó nâng cao dần vị trí của mình trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
Nhà nước cần phải nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, bởi lẽ Đảng là người đưa đường dẫn lối cho mọi chúng ta.
Với sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường chúng ta hy vọng rằng nó sẽ khắc phục được những khuyết tật của cơ chế thị trường trên cơ sở đó phát huy những thế mạnh của nó để tạo tiền đề đưa đất nước chúng ta đi lên XHCN thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh và hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các lý thuyết kinh tế học phương tây hiện đại (Nhà xuất bản khoa học xã hội do Lê Văn Sang và Mai Ngọc Cường chủ biên).
2. Kinh tế chính trị II. NXB Giáo dục
3. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII.
4. Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam. NXB Thống kê 1994 (Lương Xuân Quỳ)
5. Kinh tế học của P.Samuelson
6. Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế (Vũ Tuấn Anh).
7. Cơ chế thị trường và vai trò quản lý của Nhà nước (Nguyễn Đình Hương)
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37349.doc