Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Phần I: Đặt vấn đề 1

Phần II: Giải quyết vấn đề 2

I. Vai trò kinh tế của Nhà nước và tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. 2

1. Vai trò của Nhà nước nói chung trong lịch sử. 2

2. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. 3

II. Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. 8

III. Thực trạng nền kinh tế nước ta. 10

IV. Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước. 13

1. Các mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước. 13

2. Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của nước ta. 14

3. Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ chuyển nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường. 17

V. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay. 18

1. Xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội ở nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay. 19

2. Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao và bền vững. 19

3. Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước tránh hai khuynh hướng. 20

4. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ. 20

5. Cải cách hành chỉnh gắn liền với đổi mới kinh tế. 21

Phần III. Kết thúc vấn đề 22

Tài liệu tham khảo 23

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1849 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. Thực tiễn vận dụng của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy mô hình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm trong bối cảnh của thời đại ngày nay là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này về đại thế nó đáp ứng được những thách thức của sự phát triển. Nhận thức được những vấn đề này Đảng và Nhà nước chúng ta quyết định đổi mới và Đại hội VI của Đảng được đánh giá như một cái mốc quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó. Đảng nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Cũng từ đó tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Vậy nền kinh tế thị trường là gì? đó là nền kinh tế mà trong đó các vấn đề kinh tế cơ bản được quyết định chủ yếu bằng sự cung cầu trên thị trường. Động lực phát triển của nền kinh tế thị trường là lợi ích cá nhân thông qua lợi nhuận của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng. Từ khái niệm trên và thực tế ta có thể thấy rằng kinh tế thị trường hoạt động đặc trưng nhất của nó là cơ chế thị trường và nó này sinh ra nhiều vấn đề, trong đó vấn đề trung tâm nhất đối với người tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Với cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ…. Với sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Nhờ đó có thể thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau và nhiều vấn đề khác. P.Samuelson đã nói rằng “cơ chế thị trường không phải là sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi phối hợp một cách không tự giác của cá nhân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu các cá nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm mà nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi. Nó tự nhiên, và cũng như xã hội loài người, nó đang thay đổi”. Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nhu cầu xã hội, nhu cầu con người không ổn định , đa dạng và chỉ có thị trường mới hoàn thành chức năng sứ giả nối người sản xuất với người tiêu dùng lên hàng đầu “khách hàng là thượng đế”. Và cũng nhờ cơ chế thị trường mới giải quyết tốt 3 vấn đề cơ bản của nền sản xuất đó là sản xuất cái gì? như thế nào? cho ai? Thông qua lợi nhuận. Đây là điều mà các cơ chế kinh tế trước đây không thể giải quyết được hoặc giải quyết được nhưng còn nhiều vướng mắc. Song bất kỳ một tấn huy chương nào cũng có hai mặt trái của nó. Nhà kinh tế học nổi tiếng Samuelson đã nói rằng “sau khi tìm hiểu về bàn tay vô hình, chúng ta không nên quá say mê với vẻ đẹp của cơ chế thị trường, coi đó là hiện thân của sự hoàn hảo là tích luỹ của sự hài hoà, của đấng cao siêu, nằm ngoài tầm tay con người” Cùng với báo cáo của ban chấp hành trung ương tại Đại hội VII đã nêu rõ “sẽ là sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích của sản xuất phát triển, kinh tế cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh ra và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội, thị trường như hiện tượng thai nghén, chưa biết sẽ ra sao. Điều đó bao hàm cả khả năng thất bại”. Cơ chế thị trường không bảo đảm được việc tạo ra một cơ cấu sản phẩm tối ưu phù hợp với yêu cầu xã hội, gây khủng hoảng thừa nên lãng phí lao động và tài nguyên gắn liền với khủng thừa là thất nghiệp, một căn bệnh nan giải. Do chạy theo lợi nhuận nên các nhà sản xuất có thể gây nên những tác động tiêu cực cho xã hội như ô nhiễm môi trươngf, cạn kiệt tài nguyên, phân hoá giàu nghèo và tình trạng độc quyền xoá bỏ cạnh tranh làm nền kinh tế mất tính hiệu quả….. những hậu quả này toàn xã hội phải gánh chịu. c. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế: Với những ưu điểm trên trong lâu dài sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế – xã hội – môi trường nên nó đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền tk để bảo đảm sự ổn định, công bằng và hiệu quả, từ đó ta thấy vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hành động chung và do tính chất xã hội hoá cao của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất càng phát triển, trình độ xã hội hoá càng cao thì phạm trù thực hiện vai trò này ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao. Thực tế cho thấy từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản. Những nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ sơ khai, chưa đầy đủ. Trong kinh tế thị trường Nhà nước với tư cách là người điều hành, quản lý xã hội, đồng thời là khách hàng lớn, các chủ thể kinh tế . Nhà nước thường bảo đảm các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, giao thông vận tải…. Nhà nước dùng pháp luật để điều hành, dùng các chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động, vạch ra kế hoạch phát triển, hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra, chống khủng hoảng và thất nghiệp. Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế điều chỉnh ở tầm vi mô, nhờ sự can thiệp của Nhà nước ở tầm vĩ mô đã kìm chế được một phần sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của nền kinh tế thị trường. II. vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt động chng và do tính chất xã hội hoá của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ xã hội hoá càng cao thì phạm trù thực hiện vai trò này ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao. Vai trò cnn trong nền kinh tế thị trường được thực hiện qua các chức năng cơ bản sau. a. Định hướng: Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự định hướng của Nhà nước. Nếu Nhà nước ta đi chệch hướng thì dù chúng ta có làm tốt đến đâu thì kết quả cũng chỉ là con số không và còn tệ hơn nữa. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước chúng ta phải nắm bắt các quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội và chỉ bảo được các biến động có thể xảy ra, từ đó đưa ra những ưu sách nhằm tác động, khống chế, điều tiết các sự việc xấu có thể xảy ra. Và cũng qua đó đem ra những quyết định đúng đắn về con đường mà chúng ta sẽ đi sao cho nó phù hợp với quy luật nhưng lại hạn chế những sự việc xấu có thể xảy ra ở mức tối thiểu nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế. b. Thiết lập khuôn khổ pháp luật: Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. ở đây Nhà nước đề ra các quy tắc, trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân Chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế. Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những giá trị và quan điểm được đồng tính rộng rãi về sự công bằng hơn là qua một sự phân tích kinh tế được mài dũa rất cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Những khuôn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tới các ứng xử kinh tế của con người. c. Điều phối, điều tiết: Nhà nước cần sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả bằng hình thức điều phối, điều tiết mọi hoạt động cũng như vật chất một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện địa lý và môi trường sống để hạn chế những sự lãng phí không cần thiết từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế. d. Đảm bảo sự công bằng: Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa không làm triệt tiêu tính tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, một mặt Nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngay nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết quả lao động và phần đóng góp của mình. Mặt khác trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường, vẫn phải thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể xảy ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy Chính phủ cần thiết phải thông qua những chính sách để phân phối lại thu nhập lớn hơn người nghèo mà điển hình là giá điện loại hai. Bên cạnh đó còn phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp đỡ cho người già, người tàn tật, người không nơi nương tựa…. e. Kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô: Từ khi ra đời CNTB từng gặp những thăng trầm chu kỳ lạm phát (giá cả tăng) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức những năm 3. Nhờ học thuyết của John Meynar Keynes và những người theo học thuyết ông mà chúng ta hiểu được làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh. Nhà nước cần phải sử dụng quyền lực của mình một cách thận trọng gián tiếp thông qua luật pháp để kiểm soát nền kinh tế một cách có hiệu quả nhằm ổn định nền kinh tế. Vì một nền kinh tế phát triển thì trước hết mức độ dao động của nó phải thấp, đều và hiện có xu hướng phát triển. Tóm lại: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường TBCN để tìm ra những định chế có khả năng xoá bỏ được những khuyết tật đó và tạo ra một kinh tế thị trường XHCN. Vai trò này cũng đòi hỏi phải thay thế dần phương thức phân phối tư bản bằng phương thức phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Nói rộng ra là sáng tạo ra những cách quản lý mới để hướng tới XHCN. Tuy nhiên để thực hiện vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là cực kỳ khó khăn vì không thể chia tách thị trường nước ta ra khỏi thị trường thế giới bao gồm cả thị trường các nước tư bản. Bởi lẽ học thuyết Ken – dơ đã chỉ rõ XHCN có hai khuyết tật là khủng hoảng kinh tế chu kỳ và thất nghiệp. Bây giờ khuyết tật thứ ba đã xuất hiện đó là dung túng cho đầu cơ ở thị trường chứng khoán phát triển đến mức cực kỳ nguy hiểm từ thập niên 7 với sự lợi dụng những công cụ tài chính và biến chúng những công cụ bán không vì vậy nên chúng ta paỉ thực hiện bằng hai cách. Đối thoại với các nước tư bản để họ thấy được các khuyết tật và tự điều chỉnh. Khéo léo dùng những giải pháp đặc biệt để ngăn chặn tác động xấy của liên Ngân hàng như việc cấm bán khôngs trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán của ta. III. thực trạng nền kinh tế nước ta. Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc vượt qua khủng hoảng triền miên kéo dài hàng chục năm, từ năm 1991 đến nay nền kinh tế bắt đầu có sự tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước. Tuy nhiên khó khăn và thách thức vẫn đang còn lớn, điển hình là nền kinh tế nước ta vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé,kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, năng suất, chất lượng và hiệu quả còn rất thấp. Cụ thể trong nông nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu bằng công cụ thô sơ nên năng suất thấp. Trong khi đó công nghiệp chủ yếu nhập máy móc, thiết bị từ nước ngoài và phải phụ thuộc vào họ. Công nghiệp chưa phục vụ tích cực cho nông nghiệp, điều này làm cho kinh tế nước ta mang tính chất nông nghiệp lạc hậu. Đầu tư khoa học công nghệ tuy có tăng nhưng còn thấp so với nhu cầu sử dụng. Chúng ta còn thiếu những chính sách cụ thể để tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng rộng rãi hơn nữa các thành tựu khoa học công nghệ. Việc sử dụng đãi ngộ đối với cán bộ khoa học kỹ thuật còn chậm, thêm vào đó là cơ sở hạ tầng còn thấp kém gây ra lãng phí nguồn chất xám quý giá. Khả năng kiềm chế lạm phát chưa được triệt để. Ngân sách thu và chi chưa được cân đối. Nợ nước ngoài còn nhiều và chưa có khả năng thanh toán. trongkhi đó nhiều ngành, nhiều cơ sở, nhiều cán bộ quản lý chưa có ý thức tiết kiệm làm thất thoát, lãng phí rất lớn. Tình trạng tham nhũng, buôn bán lậy còn phổ biến như vụ Minh Phụng và Vũ Xuân Trường là điển hinh và đây cũng là vấn đề mà cả xã hội quan tâm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn này, trong đó phải kể đến sự tác động của kinh tế thị trường. Một hiện tượng đáng lưu ý nổi lên trong giai đoạn đầu bước sang KTTT ở Việt Nam là tính trạng đọng vốn lòng vòng, thất thoát tài sản của Nhà nước, làm ăn thua lỗ trước sự cạnh tranh của thị trường ngày càng tăng. Nếu tính từ giai đoạn một khi tổng thanh toán nợ với trên 10.000 doanh nghiệp Nhà nước kê khai xác nhận 8841 tỷ đồng tiền nợ, 4624 doanh nghiệp đang hoạt động nợ lẫn nhau với tổng số 2459 tỷ đồng. Kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác còn thấp, chưa phát huy và đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường. Đối với kinh tế tư nhân chưa tháo hết những trở ngại gây khó khăn cho sự phát triển sản xuất, thiếu sự quản lý, hướng dẫn. Tình trạng làm ăn trái pháp luật diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước kinh tế tập thể. Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua kinh tế quốc doanh. Hiện nay kinh tế hàng hoá mới phát triển, lực lượng sản xuất còn ở tình trạng thấp, chưa phát triển cân đối, mô hình sở hữu lúc này có các đặc trưng sau: Vốn trong tay Nhà nước dwois hình thức các xí nghiệp quốc doanh bị phân tán ở các vùng. Chủ sở hữu tài sản ở các xí nghiệp quốc doanh không rõ ràng. Quyền sở hữu tài sản của Nhà nước với quyền kinh doanh của các xí nghiệp vẫn bị nhập lại làm một. Từ những đặc điểm trên cho thấy các xí nghiệp quốc doanh kinh tế tập thể chưa làm chủ và giữ vai trò then chốt của mình trong nền kinh tế. Cơ chế thị trường đang ở giai đoạn sơ khai mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý của Nhà nước còn thấp và chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường. Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vì vậy nên khả năng tự ý thức chưa cao, bởi lệ thi hành chưa nghiêm túc. Công tác kế hoạch hoá còn yếu kém, hệ thống Ngân hàng còn tiêu cục, chế độ phân phối chưa hợp lý, thực hiện tuỳ tiện chưa thống nhất. Tích luỹ, đầu tư cho sản xuất còn thiếu tương đối nghiêm trọng. Các nguồn vốn đầu tư cho nước ngoài là chủ yếu dẫn đến mất tính tự chủ trong liên doanh, phải phụ thuộc vào nước ngoài. Hệ thống quản lý chưa phát huy được sức mạnh, tệ nạn xã hội phát sinh nhiều và có xu hướng ngày một tăng. Đứng trước tình trạng trên chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là đổi mới nền kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường. Song mô hình KTTT dù ở đâu cũng có những ưu khuyết điểm của nó. Mặt khác để đạt được sự đổi mới theo các mục tiêu, định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn thì việc Nhà nước can thiệp vào nèn kinh tế là tất yếu khách quan không thể thiếu được. Đây là điều kiện cần thiết để điều chỉnh cơ chế thị trường vận hành theo một quỹ đạo, mục tiêu đã chọn, làm cho nó tăng tính tích cực và giảm tối đa tính tiêu cực của nó. IV. Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước. 1. Các mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước. a. Mục tiêu phân bố nguồn nhân lực có hiệu quả: Muốn phân bổ nguồn lực có hiệu quả Nhà nước phải dựa vào công cụ kế hoạch để hoạch định sự phát triển toàn diện của nền kinh tế. Thông qua công cụ này, Nhà nước có thể nắm bắt những yếu tố ảnh hưởng đến mức cung và mức cầu, trạng thái nền kinh tế các vùng trong cả nước để từ đó phân bố nguồn lực Nhà nước: vốn, lao động… cho phù hợp và sử dụng có hiệu quả nhất để từ đó nâng cao sản lượng thực tế tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng tốt và ổn định. Nhờ công cụ này mà Chính phủ khẳng định được ý đồ của mình trong nhiều lĩnh vực: xây dựng công trình công cộng, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, giảm bớt những rủi ro đối với các thành phần kinh tế, bảo đảm các hoạt động kinh tế chung. b. Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội: Để đảm bảo phân bố công bằng và giải quyết tốt vấn đề xã hội, Nhà nước cần sử dụng các công cụ luật pháp điều tiết thu nhập, bảo hộ và giáo dục. Nâng cao trình độ văn hoá dân tộc và cộng đồng trong quá trình phát triển kinh tế. Các biện pháp can thiệp của Nhà nước có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp song phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động đối với sản phẩm làm ra. Đối với các vấn đề xã hội cần có chính sách thiết thực phù hợp với từng điều kiện: trợ cấp, phân phối lại bảo hiểm phát triển công nghệ. c. Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế: Để giải quyết tốt mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế, Nhà nước phải tạo ra môi trường tốt cho thị trường phát huy các mặt tích cực của nó. Xác định rõ quyền sở hữu tài sản và đảm bảo mọi nguồn lực tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới, khuyến khích phát minh sáng kiến, sử dụng nguồn lực chất xám, cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền …. Thúc đẩy thị trường phát triển toàn diện tất cả các yếu tố: lao động, vốn, kỹ thuật, đất đai trong tất cả các lĩnh vực và trong mọi không gian. d. Mục tiêu củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội: Để đạt được mục tiêu trên phải phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao đầu tư năng lực khoa học và công nghệ để đáp ứng nhu cầu hiện tại và chuẩn bị cho thế kỷ 21. Đất nước ta tiến lên XHCN với mục tiêu chung là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Các mục tiêu trên được dựa trên cơ sở lấy con người phục vụ con người làm nền tảng đưa đất nước và con người Việt Nam vươn tới XHCN, một xã hội mà đông đảo quần chúng nhân dân đang mong muốn. 2. Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của nước ta. Nhà nước ta thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế nhằm khắc phục những hậu quả của nền kinh tế thị trường và đạt được những mục tiêu đã đề ra. Muốn vậy Nhà nước chúng ta phải tạo ra được môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp bao gồm: a. Giữ vững ổn định chính trị: Đây là một vấn đề quan trọng bởi lẽ chính trị có ổn định thì khi đó Nhà nước mới tập trung được sức lực cho thị trường. Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiều đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cùng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của quản lý của nó cho phù hợp với điều kiện KTTT. Và tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới. b. Nhà nước định hướng và ban hành hệ thống luật pháp phục vụ kinh doanh: Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn, Trong nền kinh tế của nước ta hiện nay Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ vì sản suất cái gì? bằng cách nào? tiêu thụ ở đâu? Trong khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả. Song Nhà nước lại ban hành luật chống độc quyền tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và lại không ảnh hưởng đén đất nước. c. Nhiều nước tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển: Chúng ta thấy mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế – xã hội cần và đủ. Thực tiễn cho thấy rằng con đường lịch sử tự nhiên của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển rất lâu dài. Ngày nay khi kinh nghiệm lịch sử của các nước đã trở thành lý luận, các nước đi sâu có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình chỉ bằng cách Nhà nước chủ động sử dụng kiến trục thượng tầng – quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò của mình thông qua chức năng quản lý vĩ mô Nhà nước ta sẽ và đã làm. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả thương mại hoá nền kinh tế. Quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất. Đa dạng hoá chế độ sỡ hữu về tư liệu sản xuất. Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường. ổn định về chính trị – xã hội. d. Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, có hiệu quả tạo ra động lực cần sản xuất: Có thể nói đây là một chức năng không kém phần quan trọng bởi lẽ trong đời sống, khi tình trạng bất bình đẳng vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị – xã hội, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn tới sự đe doạ ổn định về mặt chính trị nên không tạo môi trường xã hội lành mạnh để các doanh nghiệp làm ăn. Trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường trình độ tay nghề và may mắn dẫn đến sự khác nhau trong thu nhập. Nhà nước cần phải lựa chọn phương án phân phối lại như thế nào để cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả trong sự bất bình đẳng cho phép. e. Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết: Định hướng, tạo môi trường, phân phối một chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế. Chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn những “cú sốc” làm chệch mục tiêu là điều không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như: lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chỉ tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra, đưa nền kinh tế đi theo định hướng. f. Quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực một cách hợp lý: Trong nền KTTT hướng tới ở nước ta, Nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế. Điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn. Quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng công bằng, hiệu quả tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn cho các doanh nghiệp làm ăn, can thiệp vao nền kinh tế mỗi khi có “cú sốc” để làm giảm các chấn động mục tiêu hiệu quả để đạt được mục đích chung của toàn xã hội. cùng với chức năng điều khiển nền kinh tế Nhà nước còn phải đóng vai trò của quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý. Nhà nước là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế trong lĩnh vực quốc gia. Về mặt đối ngoại Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm về các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền đặc lợi trong vùng đất vùng trời và vùng biển. Về mặt đối nội Nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này, phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý. Đồng thời Nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế, với tư cách là người chủ quản lý đất nước, Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế, không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội. 3. Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ chuyển nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị trường. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời, hoạt động trên cơ sở của chính nó và phát sinh tác dụng. Trong điều kiện đó vai trò của Nhà nước cực kỳ quan trọng, trong lịch sử phải mất hàng trăm năm nền sản xuất hàng hoá TBCN mới phát triển lên trình độ kinh tế thị trường có sự can thiệp cuả Nhà nước. ở nước ta Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng để rút ngắn chặng đường lịch sử hàng trăm năm trong khoảng thời gian vài chục năm. Xuất phát từ quan niệm đó Nhà nước ta cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: - Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế – chính trị của mình để tiếp tục quá trình tự do giá cả, thương mại hoá nền kinh tế với những nội dung cơ bản là: Xoá bỏ tình trạng độc quyền và xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng cách tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Tạo điều kiện, các tiền đề kinh tế – pháp lý cho sự hoạt động của thị trường cần thiết như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động. - Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì uyền sở hữu các nguồn lực kinh tế theo hướng xác định rõ sở hữu đích thực của công dân, của các doanh nghiệp tập thể, tư nhân và Nhà nước. Cụ thể là: Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân với các quyền cụ thể như thừa kế, thế chấp, c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc837.doc
Tài liệu liên quan