Đề tài Vai trò, mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nước đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế

Việc sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian này cũng tập trung chủ yếu vào xây dựng cở sở hạ tầng kinh tế. Hàng loạt các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng như mạng lưới giao thông, sản xuất và truyền tải điện, thông tin liên lạc, cấp thoát nước đã được xây dựng và triển khai. Đặc biệt có nhiều dự án vốn ODA đã được ký kết thực thi đem tới nhiều ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đối với quá trình phát triển đi lên của đất nước như: góp phần vào sự thành công của chương trình dân số và phát triển; chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em. nhiều công trình lớn được xây dựng từ nguồn vốn ODA: cầu Mỹ Thuận, cầu Sông Gianh, dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án thủy lợi Cửa Đạt-Thanh Hóa.Ngoài ra vốn ODA cũng đã được ưu tiên sử dụng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế.Các dự án trong lĩnh vực này góp phần vào việc đào tạo lại đội ngũ lao động trong tương lai có năng lực trình độ và sức khoẻ tốt phục vụ cho phát triển kinh tế một cách bền vững

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2636 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò, mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nước đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t nhập khẩu chiếm 17,5%. Công tác dự báo và và xây dựng dự toán hàng năm chưa sát thực tế, thực hiện thu, chi ngân sách hàng năm đều vượt quá cao so với dự toán ban đầu. Hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước chưa cao, tình trạng thất thoát, lãng phí kém hiệu quả trong sử dụng ngân sách Nhà nước chưa được khắc phục. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước tuy đã có bước cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn thấp so với khả năng và còn có thể huy động cao hơn để đáp ứng yêu cầu phát triển, vẫn còn 15% tiết kiệm nội địa chưa được huy động vào đầu tư. Ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư phát triển vừa hạn hẹp vừa phụ thuộc một phần vào nguồn vay nợ từ bên ngoài Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng Nhà nước chưa thật sự tạo cú huých mạnh trong việc thu hút các nguồn vốn khác để hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý, có hiệu quả, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bố trí vốn còn dàn trải, thiếu tập trung, thất thoát lãng phí còn lớn đã ảnh hưởng tới chất lượng các công trình. Tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất thoát, tham nhũng, chất lượng công trình kém trong đầu tư xây dựng cơ bản còn phổ biến, nhưng chưa có biện pháp khắc phục triệt để. Các cơ chế chính sách định hướng thu hút các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội chưa đủ hấp dẫn, môi trường đầu tư tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn nhiều rủi ro, còn có sự phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế làm cho các thành phần kinh tế chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh. Các khu vực trọng điểm có lợi thế còn nhiều tiềm năng chưa được quan tâm đầu tư, nhất là đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội, đào tạo nguồn nhân lực nên hiệu quả mang lại thấp. Công tác cải cách hành chính liên quan đến đầu tư tuy đã có đổi mới một số khâu nhưng nhìn chung vẫn còn trì trệ, gây khó khăn, làm lỡ cơ hội đầu tư…Thu hút vốn vào miền núi, vùng đồng bào dân tộc còn hạn chế. Trong xây dựng kế hoạch đầu tư, một số Bộ, ngành và địa phương chưa quan tâm đến việc huy động các nguồn vốn khác với những hình thức đầu tư đa dạng trong các thành phần kinh tế để thực hiện mục tiêu đầu tư, còn trông chờ ỷ lại vào các nguồn vốn Nhà nước, nên kết quả đầu tư còn nhiều hạn chế. Nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách Nhà nước chưa có nguồn thanh toán đang là vấn đề bức xúc chưa được giải quyết triệt để. Các quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội, cũng như quy hoạch phát triển hạ tầng chưa được cập nhật, bổ sung, điều chỉnh k ịp thời, thiếu tính dài hạn, chất lượng các quy hoạch, nhất là quy hoạch đô thị chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho hoạch định các kế hoạch phát triển, nhất là xây dựng chương trình đầu tư công cộng, việc xây dựng kế hoạch chưa gắn với nguồn lực, lúng túng trong việc định ra các mục tiêu ưu tiên hướng dẫn của thành phần kinh tế khác đầu tư Cơ cấu đầu tư trong một số ngành và lĩnh vực còn nhiều bất hợp lí. Trong nông nghiệp còn nặng vào đầu tư cho thuỷ lợi chủ yếu là thuỷ lợi phục vụ cây lúa. Việc xây dựng các công trình thuỷ lơi cho các cây công nghiệp, thuỷ lợi cấp nước cho công nghiệp, dân sinh và cho nuôi trồng thuỷ sản còn bị hạn chế. Vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ chưa được quan tâm thoả đáng. Trong các ngành đã quá chú trọng đầu tư vào tăng công suất sản xuất mà chưa chú ý đúng mức đến đầu ra sản phẩm, chưa tập trung đúng mức cho ngành công nghiệp nặng nhất là công nghiệp cơ khí. Chưa tạo được một bước đột phá về đầu tư đối với các ngành quan trọng như: một số ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành thuộc lĩnh vực xã hội như giáo dục, y tế, khoa học công nghệ…Chưa thoả đáng đối với cac vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chất lượng một số công trình thấp. Hệ thống hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, chưa bảo đảm thông suốt trong mùa mưa ở khu vực thường xuyên ngập lụt, khu vực miền núi. Hệ thống đường giao thông qua các thành phố thị xã, một số vùng kinh tế trọng điểm chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Hệ thống cảng biển, mạng lưới đường sắt, hạ tầng hàng không chưa đáp ứng yêu cầu, năng lực vận chuyển kém, khả năng kho bãi, thông tin quản lý còn bất cập, chi phí dịch vụ cao. Hạ tầng về điện chưa đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, nhất là trong thời điểm có nhu cầu sử dụng điện cao. Cơ cấu hạ tầng chưa hợp lí, một số công trình nhà máy nhiệt điện không hoàn thành kế hoạch. Việc đầu tư và tổ chức quản lí hạ tầng bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin theo địa giới hành chính chưa hợp lí và đồng bộ. Cơ chế sử dụng chung hạ tầng thông tin chưa được các doanh nghiệp chú trọng, đầu tư phát triển hạ tầng bưu chính viễn thông của các doanh nghiệp mới còn chưa tương xứng với phát triển dịch vụ. Tuy nhiên chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện 13 năm nay nhưng tiến độ rất ì ạch, nặng về số lượng nhưng chất lượng không cao tiến độ cổ phần hóa vẫn còn chậm, nhiều doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ vẫn tiếp tục duy trì 100% vốn Nhà nước, tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp còn thấp. Ở một số nơi, nhận thức về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước còn chưa đầy đủ và thống nhất, vướng mắc trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ kịp thời. Một số quy định của cơ quan quản lý Nhà nước còn chưa phù hợp, thời gian cổ phần hóa một doanh nghiệp còn dài. Khi chuyển thành công ty cổ phần, chưa quan tâm đúng mức đến đổi mới phương thức quản trị và điều hành doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của một số công ty cổ phần chưa cao. Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán rất ít. Sau 13 năm tiến hành cổ phần hóa, phần vốn của Nhà nước được cổ phần hóa hiện mới chỉ đạt 10%, trong khi 90% Nhà nước vẫn nắm lại. Trong số 2.600 doanh nghiệp thuộc diện đã cổ phần, thì chỉ có 30% Nhà nước không giữ một đồng vốn nào; 29% Nhà nước giữ cổ phần chi phối trên 51%. Cũng trong số 2.600 doanh nghiệp thì Nhà nước còn nắm lại 46,5%. Một thực tế khác, cổ đông là người lao động chỉ chiếm 15,1%. Cũng trong 2.600 doanh nghiệp nói trên, chỉ có 25 doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thỏa đáng. Còn về các doanh nghiệp tư nhân thì ít được Nhà nước quan tâm và ưu tiên hơn so với doanh nghiệp Nhà nước trong các chính sách đầu tư của Nhà nước. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp các năm 2000-2003 trong cơ cấu đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho khu vực doanh nghiệp, các doanh nghiệp Nhà nước chiếm 99,30%, trong khi đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm chưa đầy 1%. Không chỉ vậy, các doanh nghiệp Nhà nước còn chiếm 82,5% tổng vốn vay ưu đãi cho doanh nghiệp trong năm 2002, trong khi doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ là 12,06%. Hầu hết các khoản viện trợ phát triển, giải ngân qua các bộ đều được phân bổ cho các doanh nghiệp Nhà nước do trung ương quản lý. Đây là một bất hợp lý và thiệt thói cho các doanh nghiệp tư nhân vì khu vực doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, trong khi các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh lại là khu vực làm ăn có hiệu quả hơn. Thu hút vốn kiều hối vẫn còn nhiều cản trở lớn. Với khoảng 2,7 triệu người đang sinh sống ở nước ngoài, trong đó khoảng gần 300.000 tri thức đang sinh sống tại hơn 80% quốc gia, thu nhập hang năm khoảng 30 tỷ USD, chúng ta đang có một nguồn lực rất lớn. Tuy nhiên, đến nay mới chỉ có 1157 dự án với tổng số vốn đăng kí hơn 600 triệu USD của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về Việt Nam. Những con số này là nhỏ bé nếu so với tiềm năng của Việt kiều. Các dự án của kiều bào chủ yếu là các dự án nhỏ, có quy mô nhỏ, quy mô vốn trung bình một dự án mới đạt được khoảng 100.000 USD, đầu tư về nước phân bố không đều, tập trung chủ yếu vào các vùng kinh tế thuận lợi về cơ sở hạ tầng, có thị trường đầu vào đầu ra lớn như vùng Đồng Bằng Bắc Bộ và vùng Đông Nam bộ. Một số lĩnh vực như khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng triển khai rất cần thu hút đầu tư, nhưng chưa được bà con Việt kiều quan tâm. II. VỐN NƯỚC NGOÀI ĐÓNG VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG VIỆC THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Bên cạnh nguồn vốn trong nước, những năm qua việc thu hút nguồn vốn từ bên ngoài như vốn ODA, FDI vẫn được chú trọng và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 1.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI): Vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội góp phần cải thiện cán cân thanh toán, góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách Nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI, FDI đối với vốn đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế. Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với nguồn vốn không đáng kể. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994-1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31%, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước còn chiếm 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước 1.2. FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu: FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp. Nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng v.v. Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995-2003, trừ năm 2001. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này tuy cao, đạt15,7% nhưng thấp hơn mức chung của toàn ngành, chủ yếu do tốc độ tăng rất cao của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước (22,8%). Trong những năm gần đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6% năm 2004. Cần lưu ý rằng, mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp có qui mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính. 1.3. FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực. Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam so với tỷ trọng này năm 1996 là 0,7%. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Chẳng hạn, lương của lao động thông thường trong khu vực có vốn FDI hiện khoảng 75-80USD/tháng, lương của kỹ sư khoảng 220-250 USD/tháng và của cán bộ quản lý khoảng 490-510 USD/tháng (Nguồn từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hóa trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam. 1.4. FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô. Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục Thuế, năm 2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai đoạn 1996-2002, khu vực này đóng góp (trực tiếp) vào ngân sách trung bình ở mức khoảng 6,16%. Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các DN FDI được hưởng chính sách khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm đầu hoạt động. Tuy nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước khoảng 20%. 1.5.Tình hình thu hút FDI trong những năm gần đây Với vai trò quan trọng như trên, FDI đã trở thành nguồn vốn nước ngoài được ưu tiên thu hút của nước ta. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời (1987), làn sóng FDI đã nhanh chóng chảy vào Việt Nam và năm 2006 vừa qua được xem là một năm "bội thu" FDI, FDI đang "Dậy sóng", đã có những kết quả rất ấn tượng với kỷ lục về số lượng và chuyển biến về chất thể hiện qua việc đã có những dự án lớn của các tập đoàn xuyên quốc gia có công nghệ cao có mặt tại Việt Nam. Như dự án sản xuất chíp điện tử của tập đoàn Intel trị giá 1 tỷ USD, dự án sản xuất thép cán của tập đoàn Posco trị giá 1,2 tỷ USD. Về thu hút vốn đầu tư tính chung cho cả dự án cấp mới và tăng vốn, trong 6 tháng đầu năm 2006 tổng vốn đăng ký mới đạt 2.845 triệu USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm 2005. Trong 6 tháng đầu năm có 30 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Do dự án của tập đoàn Intel nhưng chủ đầu tư đăng ký tại Hồng Kông dẫn đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam chiếm 27,79% tổng số vốn cấp mới; tiếp theo là Hàn Quốc chiếm21,02% tổng số vốn cấp mới; và Hoa Kỳ đứng thứ ba,chiếm 20,05% tổng số vốn cấp mới; Nhật Bản đứng thứ 4 chiếm 14,28%. Về tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất: trong 6 tháng có 182 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn tăng thêm 585 triệu USD, bằng 85,4% về số dự án và 67,8% về vốn so với cùng kì năm ngoái. Về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI: Tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao trong tháng 6/2006 nhiều dự án đã được cấp phép tích cực triển khai thực hiện. Vốn thực hiện của các doanh nghiệp FDI đạt khoảng 360 triệu USD, đưa tổng vốn thực hiện trong 6 tháng đầu năm 2006 lên 1,85 tỷ USD, tăng 17,7% so với cùng kỳ năm 2005, bằng 50% kế hoạch ban đầu (3,7 tỷ USD). Doanh thu của các doanh nghiệp này trong tháng 6/2006 đạt khoảng 2,65 tỷ USD, đưa tổng doanh thu trong 6 tháng đầu năm đạt 12,45 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng 6/2006 xuất khẩu có vốn FDI (trừ dầu thô) ước đạt 1,2 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm lên 6,6 tỷ USD, tăng 41,4% so với cùng kỳ. Nếu tính cả dầu thô thì tổng giá trị xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm đạt 10,85 tỷ USD, tăng 27,8% so với cùng kỳ. Nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI trong tháng 6/2006 đạt 1,4 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm đạt 7,5 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ. Trong 6 tháng đầu năm, khối doanh nghiệp ĐTNN thu hút thêm hơn 10.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực FDI đến nay khoảng 1.067 triệu lao động, nộp ngân sách Nhà nước vượt ngưỡng 1 tỷ USD. FDI thực sự đã tác động mạnh đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.Vì thế, FDI đựoc ví như là một "cú huých" để thúc đẩy nền kinh tế đi xa hơn. *Hạnchế Nguồn:Vietnameconomictimes Mặc dù chúng ta đã thu hút đươc khá lớn lượng vốn FDI từ các nhà đầu tư nước ngoài,song trong qua trình hoạt động ĐTTTNN gặp phải những hạn chế: - Thứ nhất, khối lượng vốn đầu tư thực hiện tăng chậm so với tiềm năng và nhu cầu.chênh lệch giữa vốn đăng kí và vốn thực hiện lớn.tỉ lệ dự án bị đổ bể,phải giải thể trước hạn khá cao - Thứ hai, cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành,lãnh thổ và cơ cấu kĩ thuật của vốn còn bất hợp lí.FDI chưa phù hợp với chủ trương khuyến khích phát triển ngành - Thứ ba, nảy sinh xung đột xã hội như xung đột lợi ích giữa chủ và thợ,xung đột giữa ĐTNN.. dẫn đến tình trạng đình công ở nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư chung. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế và tồn tại trong việc thu hut FDI: - Môi trường đầu tư ở nước ta đã được cải tiến nhiều nhưng vẫn còn không ít khó khăn,hạnh chế,chặm được điều chỉnh so với các nước trong khu vực,trong khi cạnh trang đẻ thu hút FDI giữa các nước dienx ra ngày càng gay gắt.theo đánh giá của UNC-TAD,mặc dù đã có nhiều cố gắng trong hoạt động thu hút FDI,thể hiện qua chỉ số hực hiện thu hút FDI'với mức đạt 1.4 ,thời kì 1998-2000 và 2.0 thời kì 2001-2004 - Hệ thống luật pháp,chính sách liên tục được bổ sung,sửa đổi,hoàn thiện nhưng vẩn chưa đồng bộ,hay thay đổi.đây vẫn là một bất lợi của việt nam trong việc thu hút FDI.Việc đa dạng hóa các hình thức đầu tư nước ngoài để khai thác kênh đầu tư mới còn chạm được thực hiện - Công tác qui hoạch,nhất là qui hoạch ngành còn bất hợp lí,chưa được điều chỉnh kịp thời để phù hợp với các cam kết quốc tế.Tực tế dó làm cho các nhà đầu tư nghĩ rằng chính sách của vietj nam không nhát quán,thiếu minh bạch,ảnh hưởng đến môi trường đầu tư chung - Cơ sở hạ tầng thiếu và yếu,dẫn đến chi phí đầu vào cao.So với một số nước trong khu vực,lợi thế cạnh tranh của Việt nam trong việc thu hút FDI đang giảm dần do chi phí đầu vào cao,các thủ tục hành chính rườm rà…. 2.. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA: Nguồn vốn ODA được ưu tiên phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xoá đói giàm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thuỷ lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế chăm sóc sức khoẻ, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường…đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn ODA đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thông qua các dự án ODA, hỗ trợ kỹ thuật, nhiều cán bộ Việt Nam được đào tạo và đào tạo lại; nhiều công nghệ sản xuất tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại được chuyển giao. Quan hệ giữa Việt Nam và các nhà tài trợ đã được thiết lập trên cơ sở quan hệ đối tác, đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận ODA thông qua các hoạt động hài hoà các quy trình và thủ tục ODA Đây là nguồn vốn bổ sung hữu hiệu cho ngân sách Nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng đất nước. Nguồn vốn ODA giúp chính phủ nước ta có thêm nguồn lực chủ động đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, có nhiều dự án quốc gia mang ý nghĩa kinh tế xã hội quan trọng đối với đất nước. Cụ thể thời gian trước năm 2000 có đến 505 trong tổng nguồn vốn ODA (chủ yếu là vay ưu đãi ) dành cho phát triển cơ cấu hạ tầng đặc biệt là phát triển hệ thống năng lượng điện và giao thông vận tải, 12% sử dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Bên cạnh đó nguồn vốn ODA đã hỗ trợ đáng kể cho lĩnh vực xã hội mà trước hết là y tế, giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ là 14% tổng ODA. Ngân hàng của chúng ta cũng đã được hỗ trợ từ nguồn vốn ODA chiếm 5% trên tổng số. Ngoài lĩnh vực trên 1 phần quan trọng nguồn vốn ODA không hoàn lại đã sử dụng để thực hiện dự án hỗ trợ kĩ thuật, tập trung cho lĩnh vực hỗ trợ công tác nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô, phát triển luật pháp, tăng cường năng lực thể chế cho nhiều cơ quan ở Trung Ương và địa phương đào tạo và đào tạo lại cán bộ. Công tác vận động nguồn ODA tập trung trực tiếp cho các vùng nghèo, có nhiều khó khăn cũng được cải thiện một bước so với trước đây. Số vốn ODA bình quân đầu người mà các vùng nghèo, khó khăn được thụ hưởng trực tiếp trong thời gian qua đã được nâng lên. Nhiều công trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành, đưa vào sử dụng góp phần thúc đây tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống của người dân, bảo đảm công bằng xã hội (cầu Cần Thơ: 289 triệu USD, cầu Bãi Cháy: 62,2 triệu USD, nhà ga quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất: 169,82 triệu USD, đường dây tải điện 500KV Phú Mỹ Nhà Bè Phú Lâm: 114,15 triệu USD…) - Bên cạnh việc hỗ trợ tích cực cho cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc.. nguồn vốn ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp các nước nhận viện trợ nói chung và Việt Nam nói riêng tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. ODA còn góp phần thu hút FDI và tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển sản xuất trong nước. Trong 5 năm qua (2001-2005), nguồn vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam tăng khá đều, năm 2001 đạt 2,4 tỷ USD; năm 2002 là 2,6 tỷ USD; 2003 là 2,83 tỷ USD, 2004 là 3,4 tỷ USD và năm 2005 khoảng 3,5 tỷ USD. Những kết quả này cho thấy sự tin tưởng, đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc đổi mới và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việc sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian này cũng tập trung chủ yếu vào xây dựng cở sở hạ tầng kinh tế. Hàng loạt các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng như mạng lưới giao thông, sản xuất và truyền tải điện, thông tin liên lạc, cấp thoát nước…đã được xây dựng và triển khai. Đặc biệt có nhiều dự án vốn ODA đã được ký kết thực thi đem tới nhiều ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng đối với quá trình phát triển đi lên của đất nước như: góp phần vào sự thành công của chương trình dân số và phát triển; chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em... nhiều công trình lớn được xây dựng từ nguồn vốn ODA: cầu Mỹ Thuận, cầu Sông Gianh, dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án thủy lợi Cửa Đạt-Thanh Hóa....Ngoài ra vốn ODA cũng đã được ưu tiên sử dụng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế...Các dự án trong lĩnh vực này góp phần vào việc đào tạo lại đội ngũ lao động trong tương lai có năng lực trình độ và sức khoẻ tốt phục vụ cho phát triển kinh tế một cách bền vững - Thời gian gần đây tình hình thực hiện các chương trình dự án có sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã đạt được những chuyển biến rõ nét. Việc giải ngân nguồn vốn đã được cải thiện. Mức giải ngân nguồn vốn ODA sau nhiều năm đạt  thấp, nay đã đạt và vượt kế hoạch đề ra. Giải ngân năm 2005 đạt 1.787 triệu USD trên tổng số 1.720 triệu USD theo kế hoạch, năm 2006 dự kiến giải ngân đạt 1.780 triệu USD  trên 1.750 triệu USD theo kế hoạch. Vốn ODA, là nguồn vốn quan trọng,có y nghĩa trong việc góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn này không phải là khoản cho không của nước ngoài, mà đây là vốn vay, có vay ắt phải có trả. Do đó, bên cạnh thu hút được nhiều, thì quan trọng hơn là cần sử dụng hiệu quả, hợp lý vốn ODA *Hạn chế: - Nguồn vốn ODA tuy nhận được nhiều cam kết hỗ trợ song tình trạng giải ngân còn chậm. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng giải ngân chậm là do: Quy trình và thủ tục trong nước chậm trễ, đi kèm với đó là việc di dân tái định cư và giải phóng mặt bằng, cũng như công tác đấu thầu, năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án của các ban quản lý còn hạn chế và bất cập. Bên cạnh đó, vốn đối ứng bố trí chưa kịp thời, vấn đề quy hoạch vận động và sử dụng ODA đến thời điểm này vẫn chưa được hoàn chỉnh để định hướng cho các cơ quan, địa phương chủ động thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Việc giải ngân vốn ODA chậm còn do nhiều nguyên nhân khác: Các điều kiện khá chặt chẽ do các nhà tài trợ đặt ra; đầu tư và các dự án kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải qua nhiều khâu, mất nhiều thời gian... song nguyên nhân chủ quan và nội tại là chủ yếu. Để tiếp tục thu hút được nhiều nguồn vốn ODA và sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn vốn này, đòi hỏi phải có giải pháp tháo gỡ triệt để những bất cập, hạn chế hiện nay. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này cho rằng, một quy hoạch tổng thể làm căn cứ chủ động cho việc thu hút và sử dụng nguồn ODA đang được coi là yếu tố quyết định để khắc phục vấn đề chậm giải ngân và sử dụng hiệu quả thấp nguồn vốn ODA như trong thời gian qua. Về đầu tư gián tiếp: Theo ông Rohland Klaus, Giám đốc ngân hàng thế giới tại Việt Nam thì nhu cầu về vốn của Việt Nam là rất lớn song có rất nhiều kênh thu hút vốn vẫn chưa được khai thác hết, thậm chí còn bỏ ngỏ, trong đó có cả quỹ đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp cũng muốn đầu tư vào Việt Nam bằng cách gián tiếp, nhưng đến nay vẫn chưa tìm đựoc đối tác. Lý do một phần do Việt Nam không có nhiều hoạt động xúc tiến thu hút FPI, trong khi có hàng chục hội nghị xuác tiến FDI mỗi năm. Hiện nay, các cổ đông bên ngoài nắm giữ cổ phần ở các công ty Việt Nam chỉ từ 10-15% ,cao nhất cũng chỉ đến 20%, việc điều hành công ty chủ yếu do ban giám đốc. Nế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24916.doc
Tài liệu liên quan