MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH 2
1.1. Thực chất của vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH 2
1.1.1. Những nét khái quát về vấn đề CNH - HĐH 2
1.1.2. Tính tất yếu khách quan về vai trò của Nhà nước trong CNH - HĐH 4
1.1.3. Đặc điểm của vai trò Nhà nước trong quá trình CNH ở các nước XHCN 5
1.2. Nội dung vai trò Nhà nước trong sự nghiệp CNH - HĐH 8
1.2.1. Xác định mục tiêu CNH 8
1.2.2. Xác định chiến lược CNH - HĐH 8
1.2.3. Tạo mọi điều kiện để tiến hành CNH - HĐH đảm bảo tính hiệu quả đồng bộ và thích hợp 11
1.2.4. Chỉ đạo tổ chức thực hiện CNH - HĐH 12
1.3. Kinh ngihệm các nước trong khu vực về vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH 14
1.3.1. Nhà nước thay đổi chiến lược CNH - HĐH để phù hợp với điều kiện bên trong và bên ngoài 14
1.3.2. Nhà nước ban hành các chính sách hấp dẫn để thu hút vốn: nhân lực và công nghệ 15
1.3.3. Tăng cường công tác quản lý và sự ảnh hưởng của Nhà nước trong CNH - HĐH .15
Chương 2: Thực trạng và vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam 16
2.1. Chiến lược CNH - HĐH ở nước ta trong thời gian qua 16
2.2. Thực trạng của công tác quản lý kinh tế của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở nước ta 20
2.2.1. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần 20
2.2.2. Chính sách huy động và sử dụng vốn 20
2.2.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực 22
2.2.4. Chính sách phát triển khoa học công nghệ 23
2.3. Các biện pháp tổ chức CNH - HĐH ở Việt Nam 24
2.3.1. Xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước 24
2.3.2. Điều hoà mối quan hệ giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế 24
2.3.3. Kiểm tra, giám sát thực hiện CNH - HĐH 25
Chương 3: Những định hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới 26
3.1. Những yếu tố tác động đến vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở nước ta trong thời gian tới 26
3.1.1. Hoàn cảnh phát triển của các nước trên khu vực 26
3.1.2. Đặc điểm kinh tế Việt Nam 27
3.1.3. Mục tiêu tiến hành CNH - HĐH ở Việt Nam 27
3.2. Những giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước trong thời gian tới 29
3.2.1. Xác định bước đi tiếp thích hợp cho tương lai 29
3.2.2. Hoàn thiện các chính sách đẩy mạnh CNH - HĐH 33
3.2.3. Đổi mới và hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý Nhà nước 36
Kết luận 39
Danh mục tài liệu tham khảo 40
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1763 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Về phát triển nguồn nhân lực: giáo dục của NICS gồm; đào tạo giới quan chức, lãnh đạo bộ máy chính phủ và bồi dưỡng các nhà quản lý kinh doanh, từ chính sách phổ cập giáo dục toàn dân đến các chính sách hỗ trợ của chính phủ với việc nâng cao kiến thức và trình độ dân trí. Đặc biệt có nhiều chính sách giúp sinh viên nâng cao trình độ và lập nghiệp.
Về phát triển khoa học công nghệ: Ra sớc phát triển khoa học kỹ thuật của đất nước nâng cao năng lực thu nhân kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài.Ngoài việc nhập công nghệ chính phủ NICS còn tăng cường khai thác và phát triển kỹ thuật để tăng sức cạnh tranh cho các xí nghiệp. Chính phủ hết sức giúp đỡ về thuế, tài chính cho kỹ thuật nhập ngoại khai thác và phát triển công nghệ.
1.3.3. Tăng cường công tách quản lý và tăng cường sự ảnh hưởng của nhà nước trong quá trình CNH_HĐH.
Một số kinh nghiệm trong quá trình CNH-HĐH.
Xác định chiến lược CNH_HĐH phải phù hợp, linh hoạt tránh cứng nhắc, máy móc.
Đua ra các chính sách hấp dẫn, có hiệu quả, sẵn sàng loại bỏ những chính sách không đem lại hiệu quả. Thực hiện đồng bộ các chính sách và phải thực thi một cách linh hoạt.
Các chủ thể kinh tế là người trực tiếp thực thi CNH-HĐH. Do đó nhà nước phỉa tạo lập cơ chế hợp lý để các chủ thể phát huy hết tính năng động sáng tạo.
Ngày càng tăng cường vai trò nhà nước, để điều tiết kinh tế theo những định hướng, mục tiêu, giải pháp thích hợp.
chương 2:
Thực trạng về vai trò của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở Việt nam.
2.1. Chiến lược CNH-HĐH ở nước ta trong thời gian qua.
Nước ta cũng như các nước trong hệ thống XHCN đều thực hiện một chiến lược CNH thống nhất. Chiến lược này được khẳng định ở Đại hội đảng lần thứ III(1960) với nội dung cơ bản là: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp; xây dựng một cơ cấu hoàn chỉnh của nền nông nghiệp nặng nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Chiến lược này được thực hiện trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Do vậy nó có đặc điểm là:
Thứ nhất tập trung ưu tiên cao độ cho sự phát triển công nghiệp nặng ngay trong giai đoạn đầu của sự nghiệp CNH.
Thứ hai, duy trì tính cân đối giữa các ngành trong quá trình CNH được tính toán dựa trên các chỉ tiêu hiện vật.
Thứ ba, quá trình CNH được đẩy nhanh bằng cách áp dụng nhiều biện pháp phi kinh tế.
Do trong thời gian này, đất nước mình phải đối mặt với chiến tranh nên chiến lược CNH không được thực hiện đầy đủ, song cũng mang lại một số thành tựu nhất định. Vì tập trung đầu tư lớn cho công nghiệp, nhất là công nghiệp năng nên tốc độ tăng bình quân giá trị sản lượng công nghiệp là 13.4% (1961-1965) còn nông nghiệp tăng 4.1%. Tỷ trọng của công nghiệp trong thu nhập quốc dân tăng từ 18.2% (1960) lên 22.2% (1965). Đến năm 1964 miền Bắc đã căn bản giải quyết được vấn đề lương thực, đáp ứng 90% nhu cầu hàng tiêu dùng và bắt đầu tạo tích luỹ trong nước.
Chiến lược đó đã phù hợp với đặc điểm tình hình của đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh lúc đó. Có thể nói, chiến lược CNH đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Sau 1975 đất nước đã giải phóng nhưng chúng ta đã không kịp thời thay đổi chiến lược cho phù hợp nên trong giai đoạn 1976-1980 nền kinh tế rơi vào suy thoái, cơ cấu kinh tế ngày càng bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng. Nông nghiệp yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu trong nước, công nghiệp nặng được vốn đầu tư lớn nhưng không phát huy được tác dụng. trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ V (1981) đã có sự điều chỉnh trong nội dung CNH. Đó là nhấn mạnh việc tăng cường phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và hướng vào xuất khẩu. Song việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư diễn ra còn chậm, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật cũng như đổi mới trang thiết bị còn hạn chế nên hiệu quả thu được chưa cao. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp vẫn là ngành đóng góp lớn trong thu nhập quốc dân, công nghiệp vẫn còn ở trình độ sản xuất thấp, hàng hoá xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô. Sự chuyển dịch cơ cấu chậm kéo theo nền kinh tế chậm phát triển.
Xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, chậm phát triển, năng suất lao động thấp, thặng dư ít, vì vậy nguồn vốn tích luỹ không thể nào khác là dựa vào viên trợ của nước ngoài. Hơn một tỷ đôla viện trợ hàng năm ở mức độ nhất định là nền tảng của quá trình CNH ở nước ta trước đây. CNH nhằm ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng, dựa vào nguồn tài chính viện trợ như vậy, tự nền kinh tế đã bị đặt vào một tiến trình mất cân đối ngày càng trầm trọng. Công nghiệp nặng trở thành cái trục của mọi hoạt đông kinh tế, do vậy, nó đã tạo ra một vòng xoáy thu hút mọi nguồn lực quốc gia. Nhưng những nguồn lực nhỏ bé do nền kinh tế tạo ra không thấm gì so với nhu cầu khổng lồ của phát triển công nghiệp nặng. thêm vào đó là một trình độ khoa học kỹ thuật quá lạc hậu. Trong khi đó kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp đã làm mất động lực của sự phát triển, vì thế nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đã rơi vào sự suy thoái.
Do quá chú trọng đến sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước nên chiến lược CNH trên đã phát triển nền kinh tế theo hướng cô lập, khép kín. Thêm vào đó, trong khuôn khổ hợp tác của hệ thống xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ kinh tế quốc tế là mang tính trực tiếp, hiện vật. Điều này dẫn tới thực hiện chiến lược CNH lỗi thời không còn phù hợp. Bởi vậy cần phải đổi mới chiến lược CNH, trả lại cho nền kinh tế phát triển theo đúng quy luật khách quan, đồng thời đổi mới các quan hệ kinh tế quốc tế, đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với quá trình phát triển nhân loại.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã tạo ra cơ sở cho sự thay đổi chiến lược. Đại hội tuy chưa đưa ra được một chiến lược hoàn chỉnh nhưng đã có những sự thay đổi mang tính chất đổi mới. Đại hội tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH trong chặng đường tiếp theo. Đông thời Đại hội cũng xác định lại mục tiêu, lựa chọn bước đi cho CNH. Mục tiêu là thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế. Muốn vậy phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu thật hợp lý, phù hợp với tính quy luật về sự phát triển và phù hợp với khả năng đát nước. Đại hội khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phát triển công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng. Đại hội cũng đề ra kế hoạch 5 năm(1986-1990) là chương trình lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đại hội Đảng đã đánh dấu quá trình đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung,bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Bản chất của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở. Nền kinh tế mở có thể lợi dụng được nguồn lực bên ngoài. Chính vì vậy mà đại hội chủ chương khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nước ta dưới nhiều hình thức. Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong chiến lược CNH ở nước ta.
Đại hội lần thứ VII (1990) đã đưa ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong hời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó đưa ra đường lối mới về CNH. Điểm then chốt trong cương lĩnh là nhấn mạnh CNH theo hướng hiện đại. Đây là một điểm có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hiện nay: CNH tất phải diễn ra theo quy luật phát triển hiện đại. Việc định ra quan điểm CNH theo hướng hiện đại có ý nghĩa bước ngoặt trong tư duy về phát triển, làm cơ sở cho việc thay đổi chiến lược CNH ở nước ta. Hội nghị Trung ương 7 khoá VII đã đưa ra quan điểm mới về CNH. Quan điểm đó đã gắn CNH với HĐH, coi đây là khái niệm kép, trong đó CNH và HĐH có quan hệ mật thiết với nhau, đặc biệt, nó định vị CNH giờ đây trên cơ sở HĐH. Đảng ta đã gắn liền CNH và HĐH . Đó là thực hiện CNH tuần tự và nếu có điều kiện thì hực hiên nhảy vọt đi tắt trong phát triển khoa học kỹ thuật.
Đại hội VII đã chính thức đưa ra chiến lược CNH-HĐH mới. Đó là “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Đến đại hội Đảng VIII tiếp tục khẳng định lại một lần nữa và phát triển chiến lược CNH-HĐH ở nước ta. Chiến lược CNH-HĐH đã thực sự chuyển từ chiến lược hướng nội sang chiến lược hỗn hợp. Tức là vừa coi trọng xuất khẩu, vờa coi trọng đến sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Đó là sự khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước đồng thời mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới để thu hút các nguồn lực từ nước ngoài.
Đến đại hội Đảng lần thhứ IX tiếp tục khẳng định chiến lược CNH-HĐH này. Đó là: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài tạo nên sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
Sự thay đổi chiến lược CNH-HĐH đã đem lại những thành tựu đáng ghi nhận. Trong những năm đầu của quá trình đổi mới, CNH-HĐH dã mang sắc thái mới, có sự điều chỉnh mục tiêu nội dung, và bước đầu đồng bộ hoá, cụ thể hoá bằng cơ chế chính sách. Do vậy CNH-HĐH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện khả năng trong nước. Vì vậy, các tiềm năng nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, thu hút được nguồn lực từ bên ngoài. Điều đó đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển tốc độ cao và bền vững GDP tăng liên tục. Từ 1991 đến 2000 GDP tăng bình quân hàng năm 7.5% (chiến lược đề ra 6.9-7.5%) giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5.4%(mục tiêu 4-4.2%) công nghiệp tăng 12.9% (mục tiêu 9.2-12.5%) dịch vụ tăng 8.2%(mục tiêu 12-13%).
Cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã ó sự chuyển dịch đa dạng và hợp lý hơn. CNH-HĐH đã thúc dẩy quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn, lạc hậu, trì trệ, kếm hiệu quả dần dần tới một cơ cấu có nhiều ngành nhiều thành phần, khắc phục một bước tỷ trọng đơn điệu, mất cân đối, trái với quy luật chung của nhưng nước từ nông nghiệp lạc hậu đi lên. Thời kỳ đầu đổi mới cơ cấu kinh tế nước ta là nông nghiệp 38.7%; công nghiệp 28.7%; dịch vụ 44.1% thì đến nay cơ cấu kinh tế là: nông nghiệp 24.3%; công nghiệp 36.6%; dịch vụ 39.1%. Như vậy đã có sự chuyển dịch phù hợp trong cơ cấu kinh tế.
Quá trình xác định chiến lược CNH-HĐH có những hạn chế do một số lý do sau:
Nước ta ảnh hưởng quá nhiều của Liên xô, chiến lược này hợp với Liên xô và nước ta trong chiến tranh. Khi đất nước hoà bình, chúng ta vẫn máy móc thực hiện chiến lược cũ vì vậy không phù hợp với điều kiên mới. Và do chúng ta nhận thức phiến diện không đầy đủ về các quan điểm CNH của Mac; Ăngghen và Lênin.
2.2. Thực trạng của công tác quản lý kinh tế của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở nước ta.
2.2.1. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Quá trình CNH-HĐH ở nước ta từ năm 1986 về trước được thực hiện rộng điều kiên cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp và do nước ta mới thoát khỏi chiến tranh nên nguồn lực thực hiện CNH-HĐH còn hạn chế. Lúc bấy giờ quan điểm của nhà nước ta là CNH là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế, nhưng thực chất chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Sau đổi mới, Cơ chế nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nước ta phát triển nền kinh tế hàng hoá, tồn tại nhiều thành phần kinh tế vì vậy nhà nước có nhiều chính sách tạo điều kiên, môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển, làm tăng nguồn lực, góp phần thúc đẩy CNH-HĐH. Chính sách này mang tính quyết định đối với việc huy động các nguồn lực cho CNH.
Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, coi mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các thành phầnn kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân, được thừa nhận là một bộ phận trong cơ cấu kinh tế. Kinh tế nhà nước đóng vai trò nền tảng chứ không phải độc tôn như trước kia. Đồng thời nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách về xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế như: chính sách tín dụng; chính sách đầu tư hỗ trợ; chính sách khu công nghiệp...
Toàn bộ hệ thống đã góp phần làm chuyển đổi từ lượng đến chất đối với các thành phần kinh tế, góp phần huy động các nguồn lực tiềm ẩn của đất nước, đẩy nhanh CNH-HĐH.
2.2.2. Chính sách huy động và sử dụng vốn.
Chính sách huy động nguồn vốn trong nước.
Trước hết là huy động vốn qua ngân sách nhà nước được thực hiện dưới hình thức như thuế, phí, các hình thức vay nợ qua kho bạc, như công trái tín phiếu. Trước đây ở nước ta còn tình trạng phát hành tiền chi cho tiêu dùng của ngân sach nhưngđến 1992 thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ thắt chặt chúng ta đã châ,ms dứt tình trạng này. Và sau khi hệ thống kho bạc nhà nước đưa vào hoạt động chúng ta đã huy động được nguồn vốn trong nhân dân.
Chính sách huy động vốn thông qua tín dụng ngân hàng.
Từ năm 1989 về trước việchuy động vốn của ngân hàng chủ yếu dựa vào các nguồn phát hành tiềnđể cho vay, viẹc huy động vốn trong doanh nghiệp và dân cư bị xem nhẹ, do lãi suất huy đông vốn thấp hơn tỷ lệ lạm phát nên việc huy động vốn gặp nhiếu khó khăn. Song từ 1989 đến nay thực hiện nhiều chíh sách mới nên việc huy động vốn đã có nhiều thuận lợi, ngoài lãi suất tiết kiệm, chúng ta còn phát hành các loại kỳ phiếu trung hạn và ngắn hạn, kỳ phiếu ngân hàng, ... đem lại là nguồn vốn tăng lên. Ngoài ra chúng ta còn huy động vốn trong doanh nghiệp.
Huy động vốn nước ngoài.
Trước năm 1987, nguồn vốn vay của chúng ta chủ yếu thông qua viện trợ và cho vay của các nước XHCN. Sau 1987, thu hút vốn nước ngoài ở nước ta chủ yếu thông qua FDI, đầu tư gián tiếp và ODA. Tháng 12/1987 Quốc hội đã thông qua “Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, chúng ta còn hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất mở rộng và đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, liên kết ... để thu hút vốn đầu tư. Không những thế, chúng ta còn thiết lập và mở rông mói quan hệ với các tổ chức quốc tế như: IMF, WB, WTO... tạo điều kiện cho chúng ta vay vốn và nhận được sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế.
Kết quả của chính sách huy động vốn: nguòn vốn cho đầu tư phát triển trong 10 năm (1991-2000) là 632 nghìn tỷ đồng (57 tỷ USD) tăng bình quân hàng năm 17.9% trong đó vốn ngân sách nhà nước chiếm 22.5% tăng 15.3%; vốn tín dụng đầu tư 12.1% tăng 26.1%, vốn của doanh nghiệp nhà nước 14.2% tăng 23.3%; vốn đầu tư của dân >27% tăng 9.9%; vốn FDI chiếm 24% tăng 20.5%.
Về sử dụng nguồn vốn: Sau khi đổi mới sử dụng nguồn vốn ở nước ta bước đầu khắc phục được tình trạng đầu tư tràn lan và quá chú trọng vào các xí nghiệp có quy mô lớn. Ngân sách nhà nước đã chú ý tới đầu tư phát triển các ngành mà nước ta có lợi thế so sánh, và chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng.
2.2.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Khi nói đến phát triển nguòn nhân lực là nói đến phát triển chất lượng và số lượng, trong đó chất lượng giữ vai trò quyết định. Chất lượng của nguồn nhân lực phụ thuộc vào đào tạo nguồn nhân lực đó vì vậy có quan hệ chặt chẽ với giáo dục đào tạo.
Mục tiêu trực tiếp của giáo dục đào tạo là “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Mục tiêu này hàm chứa ba cấp độ kkhác nhau. Với toàn xã hội là “ nâng cao dân trí ”. Đây là sự nâng cao trình độ văn hoá; nhận thức và ý thức dân tộc. Với đội ngũ lao động là “đào tạo nhân lực”. Nội dung của quá trình này là cung cấp kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, ngoài ra còn là phương pháp tổ chức công viêc, kỹ năng lao đông sáng tạo. Những nhân tài ở những ngành nghề; lĩnh vực hoạt động cần được phát hiện và bồi dưỡng để là điểm tựa cho sự phát triển nước nhà.
Ngày nay, hệ thống giáo dục đào tạo ở nước ta phát triển trong cơ chế thị trường, quy mô không ngừng tăng lên. Ngoài việc phát triển hệ thống các trường quốc lập còn phát triển các trường bán công và dân lập. Đồng thời phát triển cả hình thức đào tạo chính quy cũng như đào tạo tại chức, từ xa... đáp ứng nhu cầu học tập của các tầng lớp dân cư, góp phần nâng cao dân trí. Qua đó thực hiện chủ trương “xã hội hoá giáo dục đào tạo”.
Với chính sách giáo dục này, nhất là sau khi có nghị quyết trung ương 2 về giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, luật giáo dục trong vài năm gần đây hệ thống giáo dục ở nước ta có nhiều khởi sắc, được xây dựng hoàn chỉnh từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học và trên đại học. Trình độ dân trí và trình độ nhân lực được nâng lên. Số sinh viên đại học trong 10 năm (1991-2000) tăng 5.7 lần, đào tạo nghề có tiến bộ, tính đến năm 2000, lưc lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật chiếm 22.2% tổng số lực lượng lao động.
2.2.4. Chính sách phát triển khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ là lĩnh vực được nhà nước hết sức quan tâm và xác định là đối tượng quản lý ở cả cấp vĩ mô và vi mô. Nhà nước ta đã thành lập Bộ khoa học công nghệ và môi trường. Từ ngày thành lập đến nay Bộ khoa học công nghệ và môi trường đã giúp nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp quy về quản lý khoa học công nghệ và môi trường. Từ những năm 60 nước ta đã xác định đúng vai trò của khoa học công nghệ song các chính sách trong hời kỳ này mang nặng tính hành chính bao cấp, không coi khoa học công nghệ là hàng hoá, chưa có thị trường khoa học công nghệ. Do đó đã không kích thích nhu cầu đổi mới công nghệ, không khai thác hết khả năng đổi mới của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp, bán sản phẩm theo giá nhà nước quy định và doanh nghiệp được hưởng lợi nhuận theo định mức. Điều đó đã không kích thích doanh nghiệp đổi mới công nghệ để hạ giá thành sản phẩm.
Từ năm 1986 đến nay, nhà nước ta tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của khoa học , công nghệ. Nghị quyết 26- NQ/TW (1991) Bộ chính trị đã chỉ ra: “khoa học và công nghệ không chỉ là động lực phát triển kinh tế xã hội mà còn là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và cơ sở để củng cố và nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo và vị trí tiên phong của Đảng ”. Qua đó ta thấy được nhận thức đúng đắn của Đảng ta về khoa học và công nghệ. Các chính sách khoa học công nghệ trong thời kỳ này đã có sự thay đổi căn bản hướng vào các nội dung chủ yếu sau: Các thành tựu phát minh về khoa học công nghệ đã trở thành hàng hoá. Đổi mới công nghệ là công việc chính của bản thân doanh nghiệp và do doanh nghiệp quyết định. Đầu tư của nhà nước vào khoa học công nghệ đã có trọng điểm, tập trung vào các hướng ưu tiên ngày càng ít hơn, cơ bản hơn. Chú trọng việc nhập và chuyển giao công nghệ nước ngoài. Và nâng cao quyền hạn, trách nhiệm, của doanh nghiệp và tăng cường vai trò quản lý nhà nước thông qua các biện pháp xây dựng tiêu chuẩn chất lượng hoá, xét cấp giải chất lượng.
Với chính sách khoa học công nghệ đo, kết quả là khoa học công nghệ đã chuyển biến tích cực. Năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng được nhiều công nghệ tiên tiến. Một số kết quả nghiên cứu được áp dụng vào sản xuất kinh doanh. FDI từ 1991-2000 là 15 tỷ USD nên việc chuyển giao công nghệ ở nước ta tương đối khả quan, trình độ công nghệ được nâng lên một bước, rút ngắn khoảng cách vì các nước trong khu vực và các nước phát riển.
2.3. Các biện pháp tổ chức CNH-HĐH ở Việt Nam.
2.3.1. Xây dựng và kiên toàn bộ máy nhà nước.
Từ năm 1986 đến nay, nước ta liên tục sắp xếp, tổ chức lại bộ máy quản lý kinh tế nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH và phát triển kinh tế trong điều kiên kinh tế thị trường. Điều đó được thực hiện trong việc điều chỉnh bộ máy quản lý kinh tế, giảm biên chế. Nhà nước sắp xếp lại cơ quan,Bộ theo hướng chuyển từ Bộ quản lý đơn ngành sang bộ quản lý với nhiều ngành lĩnh vực có chức năng gần hoặc lân cận giống nhau, giảm bớt sự phồng to, chồng chéo. Nhà nước tập trung hơn vào việc xây dựng đổi mới thể chế hành chính phù hợp với CNH-HĐH. Đến 1996, chúng ta đã hình thành được hành lang pháp lý cho quyền kinh doanh của công dân, tạo lập khuôn khổ cơ bản của kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng XHCN.
Việc thể chế hoá và việc thực hiện các quyền tự do và dân chủ của công dân về chính trị xã hội cũng có bước tiến mới, xác định rõ hơn chức năng, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan dân cử, quy định quyền tự do dân chủ và nhân dân có thể giám sát hoạt động. Nhà nước hình thành và phát triển những cơ quan trước đây chưa có như cơ quan kiểm toán và uỷ ban chứng khoán nhà nước. Tuy còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đổi mới song chúng ta đang cố gắng nâng cao phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ quản lý. Đây là một trong những công tác quan trọng quyết định sự thành công của việc đổi mới này.
2.3.2. Điều hoà mối quan hệ giữa nhà nước và các thành phần kinh tế.
Trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung bao cấp nhà nước quyết định tất cả từ khối lượng đến giá cả sản phẩm. Nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất cũng như phân phối sản phẩm. Vốn do nhà nước cấp, lỗ do nhà nước bù giá cả do nhà nước quyết định. Hầu như mọi hoạt động trong doanh nghiệp đều do giám đốc do nhà nước bổ nhiệm và như vậy các doanh nghiệp luôn được nhà nước che chở không hề tạo ra sự cạnh tranh và không có động lực phấn đấu làm cho nền kinh tế không thể phát triển được.
Chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước đã để thị trường quyết định hầu hết giá cả của các loại hàng hoá bằng cách tạo ra sự bình đẳng giữa người mua và người bán. Nhà nước đã xoá bỏ cơ chế phân phối tập trung của phần lớn các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, xoá bỏ hệ thống phân phối khẩu phần hàng hoá tiêu dùng với giá thấp, tự do hoá buôn bán trong nước và mở cửa ra thế giới bên ngoài. Nhà nước kiểm soát kinh tế ở tầm vĩ mô, và trả lại quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chúng ta đã biết, kinh tế nhà nước là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển. Vì vậy nhà nước luôn chú trọng trong mối quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước. Song nhà nước vẫn để các doanh nghiệp nhà nước tự chủ về tài chính và được quyền quyết định trong sản xuất kinh doanh.
2.3.3. Kiểm tra giám sát thực hiện CNH-HĐH.
Công tác kiểm tra giám sát là vô cùng quan trọng. Qua đó chúng ta phát hiện được những định hướng, mục tiêu, những chỉ tiêu đã không còn phù hợp, từ đó kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế. Ngoài ra còn giúp doanh nghiệp nhận thức những ưu khuyết điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình CNH-HĐH.
Song quá trình cải tổ bộ máy hành chính còn chậm chạp còn kém hiệu quả nên bộ máy hành chính còn quá cồng kềnh. Nguyên nhân này dẫn đến tình trạng thanh tra, kiểm tra của các ngành trùng nhau, gây mất thời gian và tiền của, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Về phía các doanh nghiệp còn hạn chế về hiểu biết pháp luật thanh tra nên có rất nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Khi các doanh nghiệp có việc làm sai trái thì tìm mọi cách để che dấucán bộ điều tra và đội tạo điều kiện cho những hành vi tiêu cực.
Chúng ta cần nhiều thời gian để tổ chức và thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra để đây thực sự là một động lực thực sự cho quá trình CNH-HĐH.
Chương 3:
những định hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở việt nam trong thời gian tới.
3.1. Những yếu tố tác động đến vai trò của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.1.1. Hoàn cảnh phát triển của các nước trên khu vực.
Nền kinh tế thế giới đang bước sang nền kinh tế tri thức cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. chúng ta đang sống trong giai đoạn chuyển tiếp từ thời đại vật thể sang thời đại phi vật thể. Kinh tế tri thức do lao động trí óc xây dựng nên. Các ngành mới lần lượt ra đời dựa vào thành tựu khoa học, kỹ thuật như: công nghệ thông tin, điện tử tự động... Nếu như thế kỷ 20 là thế kỷ của nền kinh tế nông nghiệp,thì dự báo thế kỷ 21 là thế kỷ của kinh tế tri thức.
Nhiều người ước tính vào khoảng năm 2030, kinh tế các nước phát triển đều trở thành kinh tế tri thức. Sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức tạo cơ hội cho nước ta có thể tiếp thu được những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhất của thế giới để đi nhanh, thực hiên rút ngắn tiến trình CNH-HĐH, nhưng cũng tạo ra những thách thức, nguy cơ tụt hậu nếu ta không tận dụng được những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại đó.
Nền kinh tế thế giới đang phát triển trong điều kiên xu hướng toàn cầu hoá, hợp tác hoá phát triển mạnh, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Toàn cầu hoá đồng nghĩa với mở cửa nền kinh tế. mỗi quốc gia là một bộ phận trong mối liên hệ chặt chẽ với các quốc gia khác tạo ra một sân chơi chung bất kể trình độ và xuất phát điểm gì. Đây là một cơ hội lớn để nước ta hoà nhập kinh tế thế giới song chúng ta gặp phải rất nhiều khó khăn khi điều kiện còn thiếu như: trình độ nguồn nhân lực thấp, khả năng cạnh tranh còn hạn chế, trình độ quản lý kém, hệ thống tài chính chậm phát triển... Ngoài ra khi tham gia vào thị trường lớn này, hàng hoá nước ta gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến một số doanh nghiệp trong nước đứng trước nguy cơ làm ăn thua lỗ, phá sản.
Nói chung, những cơ hội và thách thức đó đòi hỏi chúng ta trong quá trình CNH-HĐH phải nỗ lực để nắm bắt được cơ hội và giảm thiểu những thách thức. Để rút ngắn quá trình CNH-HĐH chúng ta phải hội nhập được với nền kinh tế thế giới. Nếu không hội nhập được, bỏ lỡ cơ hội do kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35532.doc