2.1. Quan niệm của triết học Hy lạp cổ đại
Thời kỳ này các nhà triết học cũng chính là các nhà khoa học, chính vì
vậy quan niệm về bản thể luận của những nhà triết học thời này rất phong phú, mang đậm dấu ấn cùng những ngành khoa học họ nghiên cứu.
Ta-let (624-547 TCN) cố gắng đi tìm một nguồn gốc chung, một thực thể chung làm cơ sở của mọi vật. Đối với ông, thực thể đó chính là nước. Trong công cuộc đi tìm cách xây dựng “bản thể luận mới”, chúng ta phải kể đến Pi-ta-go (571-497 TCN). Ông vừa là nhà triết học vừa là nhà toán học. Ông cho rằng bản nguyên thể giới là những con số. Con số là lực lượng chi phối toàn bộ thế giới theo một quy luật nhất định. Vì vậy, con số không chỉ là bản nguyên của toàn bộ sự vật mà còn là cơ sở của hiện tượng tinh thần. Con số tồn tại vĩnh viễn nên linh hồn cũng bất tử. Nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Tuy nhiên, uy luật toán học chỉ là một loại quy luật, ngoài ra còn rất nhiều những quy luật khác.
Hê-ra-clit (khoảng 530 - 470 TCN) được coi là đại biểu vĩ đại nhất của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng. Ông quan niệm về bản thể luận của thế giới là lửa. Lửa là nguồn gốc của mọi sự trong vũ trụ, là cơ sở của linh hồn con người.
Theo ông, cả vũ trụ là một ngọn lửa vĩnh hằng, khồng không bùng cháy và tàn lụi. Lửa trao đổi với tất cả và tất cả trao đổi với lửa. Cũng như chúng ta đổi hàng hóa vấy vàng và vàng thành hàng hóa.
Đê-mô-crit (460-370TCN) đã tiếp tục con đường phân tích những cấu trúc
của tồn tại, trong quan hệ của nó với nguyên tử. Theo Đê - mô - crits, cơ sở của thế giới vật chất là nguyên tử. Nguyên tử là các hạt vật chất nhỏ, không thể phân chia được và tồn tại vĩnh viễn. Tuy nhiên, các nguyên tử khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Nguyên tử không những vô hạn về số lượng mà còn vô hạn về hình thức. Các nguyên tử không kết hợp với nhau tùy tiên, ngẫu nhiên mà theo trật tự nhất định. Sở dĩ các sự vật của thế giới khác nhau là do cấu tạo của nguyên tử khác nhau lại được sắp xếp theo những trật tự khác nhau và đặc biệt là ở những tư thế khác nhau.
24 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 11/09/2024 | Lượt xem: 56 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề bản thể luận trong lịch sử triết học và trong triết học Mác Lê-nin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội, chính trị, đạo đức, tâm linh nên xu hướng là hướng nội. lấy trong để giải thích ngoài thì triết học phương Tây lại có đối tượng rất rộng ôm toàn bộ tự nhiên, xã hội tư duy mà gốc là tự nhiên, lấy ngoại để giải thích trong theo xu hướng nổi trội là duy vật. Khái niệm “bản thể luận” được xuất hiện ở thế kỷ XVII tại phwong Tây. Khái niệm này liên hệ mật thiết và hữu cơ với quá trình hình thành triết học phương Tây tới mức chính nó, chính sự lý giải về nó đã tạo thành bản chất của phương pháp tư duy trieetgs học Tây Âu. Trong mỗi thời kỳ, triết học Phương Tây lại có những nhà triết học tiêu biểu với nhiều quan niệm về “bản thể luận” khác nhau, điều đó đã tạo nên một bức tranh đầy màu sắc về triết học phương Tây.
2.1. Quan niệm của triết học Hy lạp cổ đại
Thời kỳ này các nhà triết học cũng chính là các nhà khoa học, chính vì
vậy quan niệm về bản thể luận của những nhà triết học thời này rất phong phú, mang đậm dấu ấn cùng những ngành khoa học họ nghiên cứu.
Ta-let (624-547 TCN) cố gắng đi tìm một nguồn gốc chung, một thực thể chung làm cơ sở của mọi vật. Đối với ông, thực thể đó chính là nước. Trong công cuộc đi tìm cách xây dựng “bản thể luận mới”, chúng ta phải kể đến Pi-ta-go (571-497 TCN). Ông vừa là nhà triết học vừa là nhà toán học. Ông cho rằng bản nguyên thể giới là những con số. Con số là lực lượng chi phối toàn bộ thế giới theo một quy luật nhất định. Vì vậy, con số không chỉ là bản nguyên của toàn bộ sự vật mà còn là cơ sở của hiện tượng tinh thần. Con số tồn tại vĩnh viễn nên linh hồn cũng bất tử. Nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Tuy nhiên, uy luật toán học chỉ là một loại quy luật, ngoài ra còn rất nhiều những quy luật khác.
Hê-ra-clit (khoảng 530 - 470 TCN) được coi là đại biểu vĩ đại nhất của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng. Ông quan niệm về bản thể luận của thế giới là lửa. Lửa là nguồn gốc của mọi sự trong vũ trụ, là cơ sở của linh hồn con người.
Theo ông, cả vũ trụ là một ngọn lửa vĩnh hằng, khồng không bùng cháy và tàn lụi. Lửa trao đổi với tất cả và tất cả trao đổi với lửa. Cũng như chúng ta đổi hàng hóa vấy vàng và vàng thành hàng hóa.
Đê-mô-crit (460-370TCN) đã tiếp tục con đường phân tích những cấu trúc
của tồn tại, trong quan hệ của nó với nguyên tử. Theo Đê - mô - crits, cơ sở của thế giới vật chất là nguyên tử. Nguyên tử là các hạt vật chất nhỏ, không thể phân chia được và tồn tại vĩnh viễn. Tuy nhiên, các nguyên tử khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Nguyên tử không những vô hạn về số lượng mà còn vô hạn về hình thức. Các nguyên tử không kết hợp với nhau tùy tiên, ngẫu nhiên mà theo trật tự nhất định. Sở dĩ các sự vật của thế giới khác nhau là do cấu tạo của nguyên tử khác nhau lại được sắp xếp theo những trật tự khác nhau và đặc biệt là ở những tư thế khác nhau.
Khác với Đê-mô-crit, Platon chia thế giới thành 2 bộ phận: thế giới của
những ý niệm và thế giới của những sự vật cảm tính. Thế giới của những sự vật cảm tính là thế giới tồn tại không chân thực và thường xuyên biến đổi phụ thuộc vào thế giới của những ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm, do các ý niệm sản sinh ra. Ông cũng kế thừa quan điểm của Pi-ta-go về những con số. Theo ông, sự tồn tại cảu thế giới các ý niệm thông qua các quan hệ tỷ lệ toán học tác động vào vật chất tạo ra thế giới các sự vật cảm tính. Chỉ có ý niệm mới tồn tại chân thực, mới là đối tượng của nhận thức chân lý, còn có sự vật cảm tính chỉ là kết quả của sự bắt chước ý niệm4.
Arixtot (384-322TCN) được coi là nhà bách khoa vĩ đại nhất cổ đại Hy Lạp khi ông nghiên cứu nhiều ngành khoa học khác nhau. Ông phê phán học thuyết ý niệm của Platon, ông vạch ra những mâu thuẫn về mặt logic trong học thuyết ý nghĩa là Platon đã nhân đôi đối tượng nhận thức chứ không phải sự nhận thức về chính đối tượng. Ông cho rằng bản chất sự vật không thể ở bên ngoài sự vật, tách rời sự vật mà nằm ngay chính trong sự vật. Quan niệm của ông về thế giời được thể hiện qua học thuyết bốn nguyên nhân: hình thức, vật chất, vận động, mục đích. Ông đề xướng thuyết địa tâm, phủ nhận tính thống nhất vật chất của thế giới. Quan điểm của ông có nhân tố duy vật khi cho rằng thế giới cấu thành bởi các nhân tố: đất, nước, lửa, không khí và ete.
2.2. Quan niệm triết học Tây Âu thời trung cổ
Xã hội Tây Âu vào thế kỷ II - V là xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ
nô lệ và là sự ra đời của chế độ phong kiến, và chế độ phong kiến kéo dài đến thế kỷ thứ XIV với sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến và phương thức sản xuất phong kiến cùng chế độ phong kiến phân quyền. Triết học thời kỳ này là nển triết học kinh viện lấy vấn đề trung tâm là cuộc đấu tranh giữa niềm tin tôn giáo và trí tuệ. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thức và chủ nghĩa duy danh là biểu hiện cho cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Tây Âu thời kỳ này. Tiêu biểu nhất trong thời kỳ này là nhà triết học Tô-mát Đa-canh. Triết học của ông được nhờ Thiên Chúa coi là học thuyết duy nhất đúng đắn và làm hệ tư tưởng của mình. Về quan niệm về bản thể luận, ông cho rằng Thượng đế là cơ sở tồn tại của thế giới. Ông đưa ra năm luận cứ để chứng minh cho sự tồn tại của Thượng đế. Luận cứ 1: Mọi sự vật đều vận động nhưng đầu tiên không thể tự nó vận động được mà cần có “cú hích ban đầu” và cú hích đó chính là Thượng đế. Luận cứ 2: Mọi sự vật đều có nguyên nhân, và vũ trụ cũng có nguyên nhân của mình và nguyên nhân của nguyên nhân đó là thượng đế. Trong vũ trụ có cả cái tất nhiện và cái ngẫu nhiên nhưng thế giới với tư cách là một chỉnh thể là cái tất nhiên. Điều đó đòi hỏi phải có cái tất yếu tuyệt đối chi phối, đó chính là thượng đế. Luận cứ 4: Mọi sự vật trong thế giới đều thuộc về một mức độ Chân, Thiện, Mỹ nhất định. Do đó, để xác định được mức độ Chân, Thiện, Mỹ cần phải có một cái Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối làm tiêu chuẩn, đó chính là thượng đế. Luận cứ 5: Trong thế giới cần có Thượng đế thì mới có thể lý giải được tính hợp lý của giới tự nhiên,
2.3. Quan niệm của triết học Tây Âu thời Phục hưng (TK15 - 16)
Cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, cũng như sự phát triển khoa
học và nghệ thuật, triết học thời kỳ phục hưng đã có một bước ngoặt trong sự phát triển, mở đầu cho một thời kỳ phát triển mới của chủ nghĩa duy vật. Về vấn đề bản thể luận trong thời kỳ này, có một nhà triết học tiêu biểu là Giooc-đa-nô Bru-no (1548-1600) ông là nhà triết học, đồng thời là nhà khoa học tự nhiên vĩ đại người Italia. Phạm trù trung tâm trong triết học của ông là Cái duy nhất (Uno). Uno chính là thượng đế tồn tại dưới dạng giới tự nhiên (Tự nhiên thần luận). Ông cũng đã kế thừa và chịu ảnh hưởng của A-ritx- tốt, ông cho rằng có sự thống nhất giữa vật chất và hình dạng trong Uno, mọi hình dạng chẳng qua chỉ là hình dạng của vật chất mà thôi. Ông cũng tiếp nhận tư tưởng về sự thống nhất vật chất của vũ trụ khi cho rằng: “mọi sự vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta”. Bên cạnh đó, ông cũng xây dựng thuyết đơn từ (monad): Theo đó, mọi sự vật và cả vũ trụ đều được cấu tạo từ đơn tử, là những phần tử vật chất nhỏ nhất có chứa khả năng tinh thần. Ông cũng kế tục và pháttriển học thuyết của Côpéc-ních “mặt trời là trung tâm”, nhưng ông cũng bổ sung thêm rằng, có vô số thế giới, xung quanh trái đất có một bầu không khí cùng xoay với trái đất và mặt trời cũng đổi chỗ với các vì sao. Với học thuyết đó, Bruno đã bác bỏ một quan điểm cơ bản của tôn giáo về sự tồn tại của thế giới bên kia, thế giới thần linh. Ông còn cho rằng thế giới vật chất tồn tại không ngừng, không có chúa trời nào thống trị vũ trụ đó cả.
2.4. Quan niệm của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại (TK 17 - 18)
Cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa làm cho xã hội phong kiến Tây Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng về
kinh tế, chính trị và tinh thần. Từ đó dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản, nhà nước tư sản được hình thành, dân tộc tư sản ra đời. Triết học thời kỳ này khác về chất so với triết học duy vật cổ đại Hy lạp, thể hiện ở phương pháp siêu hình, sự gắn bó với khoa học thực nghiệm. Một đại diện tiêu biểu của thời kỳ này là Phăng-xi Bê-cơn (1561-1626) người Anh. Ông là người đã kế thừa những tư tưởng duy vật cổ đại Hy Lạp trong quan niệm về thế giới, thể hiện ở chỗ ông thường xuyên trích dẫn và ca ngợi những nhà duy vật. Ông kịch liệt chống lại quan điểm của triết học kinh viện về vật chất (thụ động, trừu tượng, chế cứng, không vận động, dùng trong tranh luận). Ông đưa ra khái niệm “vật chất thứ nhất” để đối lập với khái niệm vật chất này của triết học kinh viện, trên cơ sở đó, ông đưa ra 19 dạng vận động khác nhau của “vật chất thứ nhất”. Bên cạnh đó, ông cũng ủng hộ quan điểm của Ăm-pê-đốc-lơ về sự không mất đi của vật chất. Theo ông, tổng vật chất là giữ nguyên. Ông còn cải biến học thueyets về bốn nguyên nhân của Arix-tốt theo hướng duy vật. Nhà triết học thứ hai trong thời kỳ này là Rơ-nê Đê-các-tơ (1596-1654), nhà triết học và khoa học nổi tiếng người Pháp. Khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Đê-các-tơ đứng trên lập trường nhị nguyên luận. Ông thừa nhận có hai thực thể vật chất và tinh thần tồn tại độc lập với nhau, cùng song song là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Thực thể vật chất là đối tượng nghiên cứu của vật lý, còn thực thể tinh thần là đối tượng nhiên cứu của triết học. Tuy nhiên, cả hai thực thể này đều là phụ thuộc vào một thực thể thứ ba là Thượng đế. Ông cố gắng đứng trên cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm để giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, giữa tồn tại và tư duy nhưng cuối cùng lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Ông còn phát hiện ra nguyên tắc quyết định luận trong thế giới, có những dự báo khoa học về nguồn gốc vũ trụ, về sự phát triển đa dạng của các loài sinh vật. Quan niệm của ông về bản thể luận có nhiều điểm tiến bộ nhưng còn mang tính máy móc, siêu hình.
2.5. Quan niệm trong triết học cổ điển Đức (TK XVIII - nửa đầu TK XIX)
Bản thể luận duy tâm cổ điển Đức chịu tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị đương thời. Trong khi Anh và Pháp tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì nước Đức vẫn là một nước lạc hậu về kinh tế và chính trị. Vì giai cấp tư sản Đức yếu kém, không đủ khả năng nắm chính quyền, nên các nhà lsy luận của giai cấp này là những nhà triết học duy tâm, sáng lập ra các hệ thống triết học rất trừu tượng, tách khỏi đời sống thực tiến. Bế tắc trước những vấn đề kinh tế - xã hội, các nhà triết học duy tâm Đức, bắt đầu từ Can-tơ trở đi đã xây dựng bản thể luận triết học trong tư duy, ý thức của chủ thể, đặc biệt đề cao tính năng động và tính duy lý của chủ thể.
Vốn là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức, Can-tơ đã có những đóng góp quan tron gj trong việc xây dựng bản thể luận độc đáo, đó chính là học thuyết “vật tự có”. Theo ông, “vật tự có” là bản chất của mọi vậ khách quan tồn tại bên ngoài con ngời, nó thuộc về lĩnh vực siêu nghiệm, siêu nhiên, con người không thể nào nhận thức được. Đó là tất cả những gì con người chưa biết được, “vật tự có” là những chuẩn mực, những lý tưởng tuyệt đối hoàn hảo mà con người không bao giờ đạt được, ví dụ như “Chúa trời”, “tự do”
Tiếp nối các bậc tiền bối, Hê-ghen đề nghị phải lãnh hội và diễn đạt chân
lý không chỉ như bản thể mà còn như chủ thể. Ông cho tinh thần thế giới là có trước, tồn tại vĩnh viễn. Tinh thần thế giới tha hóa thành giới tự nhiên rồi lại thông qua xã hội, lịch sử trở về chính nó. Tinh thần thế giới (ý niệm tuyệt đối) là đối tượng của logic học, tinh thần thế giới tha hóa thành giới tự nhiên là đối tượng của triết học tự nhiên. Tồn tại trong tự nhiên, tinh thần thế giới vẫn vận động, biến đổi và đến một giai đoạn nhất định tha hóa quay trở về bản thân nó thông qua xã hội, lịch sử trở về với tinh thần tuyệt đối, ý niệm tuyệt đối.
Một nhà đại diện triết học thời kỳ này là Lút-vích Phoi-ơ-bắc, một nhà triết học lỗi lạc đã khôi phục lại địa vị xứng đáng cho chủ nghĩa duy vật trước Mác. Ông cho rằng thế giới tự nhiên, thế giới vật chất là có trước, tồn tại vĩnh viễn, không do ai sáng tạo ra, không phụ thuộc vào bất cứ ai. Nó tồn tại, vận động nhờ những nguyên nhân ở trong chính bản thân nó. Thế giới vật chất là có trước, ý thức có sau, ý thức là sản phẩm, thuộc tính của bộ óc của con người. Ông cũng có quan điểm duy vật về không gian, thời gian. Theo ông, không có không gian, thời gian ngoài vật chất, cũng không có vật chất tồn tại ngoài không gian, thời gian. Chính không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Nhìn chung, triết học cổ điển Đức đem lại cho triết học một diện mạo mới những một hệ thống những bộ môn, những tư tưởng, những khái niệm sâu sắc, đem lại một khuôn mẫu về văn hóa thế giới quan phổ quát. Bản thể luận duy tâm của tồn tại xã hội ngời như một qúa trình phát triển, uan hệ giữa chủ thể và khách thể được xem là một các triệt để. Hơn nữa, nó đi sâu vào lĩnh vực tồn tại lịch sử cùa con người, luận chứng tư tưởng về tính quy luật xã hội, chỉ ra lao động như những biểu hiện co bản của bản thể người. Tuy nhiên, nó cũng chủ yếu nhìn nhận tiến trình tiến hóa và phát triển của tồn tại người từ lập trường duy tâm và thông qua lăng kính của kho học tự nhiên đương thời, do vậy nó đem lại một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của khoa học, một kiểu sùng bái khoa học. Hai nữa những quan điểm thời kỳ này chỉ dựa trên những cơ sở giá trị văn hóa phương Tây và nó có xu hướng kiên định quan niệm duy lý thái quá về bản tỉnh người, coi tư duy khoa học là thước đo tối cao và tối hậu về nhân tính, là phương tiện quan trọng nhất cho sự nghiệp làm người. Đây là hạn chế lớn nhất của bản thể luận duy tâm Đức.
Tóm lại, qua các thời kỳ lịch sử, lịch sử tinh thần của loài người ở phương Tây được phản ảnh trong cách hệ thống bản thể luận triết học tương ứng. Bản thể luận triết học cổ đại đã xây dựng hệ giá trị tinh thần gắn liền với con người thế tục với “tự nhiên”dựa trên những hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên. Đến thời cận đại, bản thể luận xuất phát từ niềm tin tuyệt đối vào lý tính, vào khoa học, coi đó là căn nguyên, là giá trị tối cao của tồn tại người, vì thế bản thể luận này coi các nguyên lý của nhận thức khoa học như các nguyên lý của tồn tại đích thực. Trong khi đó, bản thể luận duy tâm cổ điển Đức đồng thời phản ảnh hệ thông giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của thời đại công nghiệp, phản tư lại hệ thống ấy qua lăng kính của xã hội đang chuẩn bị tiến hành cách mạng tư sản và những thành tựu, cũng như những bài học của bản thân nền văn minh công nghiệp. Ta có thể khẳng định bản thể luận trong triết học duy tâm cổ điển Đức vẫn là một thành tựu lâu dài của lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, trở thành tiền đề cho những triết học ở thời hiện đại.
CHƯƠNG 3
QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1.Quan niệm về bản thể luận trong triết học Mác - Lênin.
Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm
một thức thể ban đầu nào đó là coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện
tượng khác nhau của thế giới, tất cả để bắt nguồn từ đó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_van_de_ban_the_luan_trong_lich_su_triet_hoc_va_trong.doc