Đề tài Vấn đề bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Đặt vấn đề 1

Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm xã hội 2

I. Bản chất của bảo hiểm xã hội : 2

1. Khái niệm: 2

2. Bản chất của BHXH: 2

3. Đối tượng tham gia BHXH: 3

4. Nguyên tắc của BHXH: 4

4.1. BHXH là sự đảm bảo về mặt xã hội: 4

4.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện: 4

4.3. Xác định đúng mức tối thiểu của các chế độ BHXH: 4

4.5. Công bằng trong BHXH: 4

5. Chức năng của BHXH: 4

6. Tính chất của BHXH: 5

II. Quỹ bảo hiểm xã hội: 6

1. Khái niệm: 6

2. Tính chất của quỹ BHXH: 6

3. Nguồn quỹ BHXH: 6

4. Mục đích sử dụng quỹ BHXH. 6

5. Chức năng của BHXH 6

5.1. Căn cứ tính phí BHXH: 6

5.2. Nguyên tắc xác định phí BHXH: 7

5.3. Công thức tính phí BHXH: 7

III. Hệ thống các chế độ bhxh: 7

1. Quan điểm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về hệ thống các chế độ BHXH. 7

2. Đặc điểm của hệ thống các chế độ BHXH. 8

3. Nguyên tắc hưởng các chế độ BHXH. 8

 

 

Chương II: Đánh giá về thực trạng bhxh cho người lao động ở Việt nam. 9

I. Tổ chức bảo hiểm xã hội . 9

1. Sự ra đời và phát triển của BHXH ở Việt Nam: 9

1.1. Giai đoạn từ 8/1945 đến 1/1995: 9

1.2. Giai đoạn từ 1995 đến nay: 9

2. Tổ chức quản lý quỹ BHXH: 12

II. Những nguyên nhân làm hạn chế thực hiện chính sách bhxh. 13

1. Về tổ chức quản lý BHXH. 13

2. Về phía người lao động: 13

3. Về phía doanh nghiệp: 14

Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm thực hiệntốt hơn chính sách bhxh ở nước ta. 15

1. Đối tượng tham gia: 15

2. Công tác thu BHXH: 15

3. Vai trò quản lý Nhà nước về BHXH: 15

Kết luận 17

Tài liệu tham khảo 18

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề bảo hiểm xã hội cho người lao động Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy,ở Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều chính sách để đảm bảo một phần vật chất và tinh thần cho người lao động để họ có thể tiếp tục làm những công việc có ích cho xã hội Là một người lao động trong tương lai,thấy được tầm quan trọng của BHXH tôi quyết định chọn đề tài "vấn đề BHXH cho người lao động Việt Nam" để phần nào hiểu biết đánh giá công tác BHXH ở nước ta hiện nay. Đề án được chia làm 3 chương: Chương I: Khái quát chung về BHXH Chương II: Thực trạng về BHXH cho người lao động ở Việt Nam Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách BHXH ở nước ta. Do hạn chế về tài liệu và số liệu bài viết chưa cập nhật,chắc chắn còn nhiều sai sót rất mong được sự đóng góp của thầy cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương I: Khái quát chung về bhxh I. Bản chất của bhxh: 1. Khái niệm: BHXH là sự đảm bảo về vật chất cho người lao động thông qua các chế độ của BHXH nhằm góp phần ổn định đời sống và gia đình của họ. 2. Bản chất của BHXH: Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn,mặc,ở và đi lại.....Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết.Khi sản phẩm lao động được tạo ra ngày càng nhiều thì việc thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt và phát triển của con người là tất yếu.Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có thu nhập ổn định và điều kiện sinh sống đảm bảo.Mà nhiều khi những khó khăn bất lợi ít nhiều ngẫu nhiên ảnh hưởng đến côn người. Ví dụ: bị ốm đau, bị tai nạn trong lao động, xí nghiệp giải thể hay khi tuổi già khả năng lao động giảm....Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống tăng lên, xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần có ngưòi chăm sóc, nuôi dưỡng v.v...Vì vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người phải tìm ra những cách giải quyết khác nhau: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay hoặc dựa vào sự cứu trợ của các tổ chức Quốc Tế v.v....Rõ ràng những giải pháp đó hoàn toàn thụ động và không lâu dài. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển BHXH ngày càng phát huy, bởi vì nó đã được Nhà nước đứng ra can thiệp và điều hoà. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước , mặt khác buộc cả giới thợ và giới chủ phải đóng một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia.Quỹ này còn được bổ sung từ Ngân Sách Nhà nước khi cần thiết .Nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro ,bất lợi đối với người lao động được dàn trải, cuộc sống của họ và gia đình được đảm bảo ổn định.Người chủ cũng thấy mình có lợi bởi vì việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, không bị xáo trộn khi người lao động găp rủi ro.Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc trên được gọi là bảo hiểm xã hội với người lao động. Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người sử dụng lao động.Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thường là các cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo hộ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.Cụ thể: +Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. +Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật. +Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10 tháng 12 năm 1948: " Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá, nhu cầu về nhân cách và sự tự do phát triển con người." 3. Đối tượng tham gia BHXH: BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạnv.v...Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động,mất việc làm của những ngưòi tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. 4. Nguyên tắc của BHXH: 4.1. BHXH là sự đảm bảo về mặt xã hội: Đây là nguyên tắc vừa mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điều này được thể hiện trước hết là sự đảm bảo bằng vật chất ( qua các chế độ BHXH ). Mức bảo đảm bằng cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc tham gia vào BHXH của người lao động và người sử dụng lao động. Về măt xã hội, theo nguyên tắc này, BHXH lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập là cơ sở để đảm bảo cho quãng đời không tham gia vào lao động (mất sức lao động hay nghỉ hưu ). 4.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện: Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia và mức tham gia tối thiểu (thời gian, mức đóng bảo hiểm....). Như vậy, Nhà nước đóng vai trò tổ chức, định hướng để người lao động và người sử dụng lao động hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm khi tham gia các loại hình và các chế độ bảo hiểm. 4.3. Xác định đúng mức tối thiểu của các chế độ BHXH: Mức tối thiểu của các chế độ BHXH là mức đóng định kỳ (hàng tháng), mức thời gian tối thiểu để tham gia và được hưởng một chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này , khi thiết kế thường dựa vào tiền lương tối thiểu , tiền lương bình quân , quãng đời lao động. 4.5. Công bằng trong BHXH: Sự công bằng trước hết phải đặt trong quan hệ giữa việc đóng góp và được hưởng, giữa mức đóng góp và thời gian của từng người. Điều này được thể hiện trong nội dung và điều kiện tham gia trong từng chế độ bảo hiểm xã hội. 5. Chức năng của BHXH: _Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì những người lao động sẽ hết khả năng lao động khi họ hết tuổi lao động theo các quy định của BHXH. _Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. BHXH thực hiện phân phối lại theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v... _Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng xuất lao động cá nhân và năng xuất lao động xã hội. _Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Thông qua BHXH mà mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và người lao động thêm gần gũi và gắn bó. 6. Tính chất của BHXH: _Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội bởi vì : Khi sản xuất càng phát triển rủi ro và khó khăn đối với người lao động càng nhiều và phức tạp hơn, dẫn đến mối quan hệ chủ-thợ càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH . Như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế-xã hội của nước ta. _BHXH mang tính ngẫu nhiên bởi vì : những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian mà người lao động không thể biết trước được. _BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội và có tính dịch vụ. +Tính kinh tế thể hiện : quỹ BHXH muốn được hình thành là có sự đóng góp của các bên tham gia và được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. +Tính xã hội : BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội. Về lâu dài , mọi người trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH II. Quỹ bảo hiểm xã hội: 1. Khái niệm: Quỹ BHXH là quỹ dùng để chi trả trợ cấp BHXH và các chi phí khác phục vụ cho quản lý và phát triển sự nghiệp BHXH. 2. Tính chất của quỹ BHXH: Là quỹ tài chính độc lập , tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. 3. Nguồn quỹ BHXH: _Người lao động đóng góp : Thực chất sự đóng góp của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhân được là rất lớn khi gặp rủi ro. _Người sử dụng lao động đóng góp. _Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm. _Các nguồn khác: cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi . 4. Mục đích sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích. _Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH. _Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH. 5. Chức năng của BHXH 5.1. Căn cứ tính phí BHXH: Dựa vào tiền lương, thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức phí đóng ( người lao động đóng BHXH theo tỷ lệ phần trăm so với tiền lương, người sử dụng lao động đóng BHXH theo tỷ lệ % tổng quỹ lương.) Dựa trên tiền lương thực tế của từng cá nhân Nhà nước quy định mức phí đóng trước rồi từ đó xác định mức hưởng , căn cứ này cũng để thực hiện sự công bằng trong các chế độ BHXH. 5.2. Nguyên tắc xác định phí BHXH: Phí BHXH là cơ sở để hưởng các chế độ BHXH. Việc xác định phí phải đảm bảo nguyên tắc cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. 5.3. Công thức tính phí BHXH: Phí BHXH được xác định theo công thức sau: P=f1 +f2 +f3 P- Phí BHXH F1- Phí thuần tuý trợ cấp BHXH F2-Phí dự phòng F3- Phí quản lý. III. Hệ thống các chế độ bhxh: 1. Quan điểm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về hệ thống các chế độ BHXH. Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO ) quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công thức 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ: 1.Chăm sóc y tế. 2. Trợ cấp. 3.Trợ cấp thất nghiệp. 4. Trợ cấp tuổi già. 5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. 6. Trợ cấp gia đình. 7. Trợ cấp sinh đẻ. 8. Trợ cấp khi tàn phế. 9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế- xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở các nước khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó , phải có ít nhất 1 trong 5 chế độ : (3) , (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong quan hệ trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế- xã hội , tài chính, thu nhập, tiền lương....Đồng thời, tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân của Quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tử vong.. 2. Đặc điểm của hệ thống các chế độ BHXH. _Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước. _Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính. _Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào đóng góp của các bên tham gia BHXH. _Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ. _Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. _Chi trả BHXH là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH. Mức chi trả còn phụ thuộc vào mức dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định. 3. Nguyên tắc hưởng các chế độ BHXH. Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí của từng người lao động, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Về nguyên tắc mức trợ cấp không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ % nhất định so với mức tiền công và tiền lương. Chương II: Đánh giá về thực trạng bhxh cho người lao động ở Việt nam. I. Tổ chức bhxh. 1. Sự ra đời và phát triển của BHXH ở Việt Nam: 1.1. Giai đoạn từ 8/1945 đến 1/1995: Đối tượng tham gia chủ yếu là cán bộ công nhân viên Nhà nước. Theo nghị định 218CP ngày 27/11/1961 quy định 6 chế độ BHXH: ốm đau, thai sản,tai nạn lao động, hưu trí , tử tuất cho công nhân viên chức . Với nguồn chi trả từ đóng góp xí nghiệp còn lại do ngân sách nhà nước cấp. Xí nghiệp phải đóng góp 4,7% tổng quỹ lương trong đó: 1% dùng để chi trả cho chế độ dài hạn; 3,7% chi trả cho chế độ ngắn hạn. Dấu ấn quan trọng của giai đoạn này là sự ra đời của nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 về các chế độ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế. 1.2. Giai đoạn từ 1995 đến nay: Cùng với bộ luật được ban hành ngày 26/01/1994 Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/CP về điều lệ BHXH trong các thành phần kinh tế. Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ thì hệ thống BHXH có những chuyển biến cơ bản đó là: 1.2.1.Phạm vi áp dụng BHXH được mở rộng áp dụng đối với người lao động làm công ăn lương ở các đơn vị , tổ chức đơn vị , tổ chức kinh tế sử dụng từ 10 lao động trở lên thuộc mọi thành phần kinh tế. Trước khi có Nghị định 12/CP số người tham gia là 3,4 triệu người , đến năm 2001 có 4.403.870 người lao động tham gia. Nếu so với năm 2001 tăng 161.140 người bằng 3,8% , trong đó khối doanh nghiệp tăng 49.873 người . Số người tham gia BHXH sau 5 năm (1995-2001) tăng 31% , riêng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh so với năm 2000 thì năm 2001 đã tăng lên 80 đơn vị . Năm 2002 cả nước có 39 triệu lao động , có 6 triệu thuộc diện tham gia BHXH nhưng chỉ có 4,1 triệu người tham gia và chủ yếu là lao động ở khu vực nhà nước. Các khu vực kinh tế khác chỉ có 15 % tham gia so với tổng số lao động phải tham gia. 1.2.2.Quỹ BHXH : Khi điều lệ BHXH được ban hành kèm theo nghị định số 12/CP ngày 26.1.1995 của chính phủ thì quỹ BHXH thực sự mới được hình thành , được hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước và được nhà nước bảo hộ. _Người sử dụng đóng 15% so với tổng quỹ lương. _Người lao động đóng 5% so với tiền lương. _Ngân sách nhà nước hỗ trợ để chi trả các trợ cấp BHXH cho những người nghỉ hưu trước ngày 01/01/1995. _Khoản thu khác : từ tài trợ, từ đầu tư quỹ nhàn rỗi... 1.2.3.Hệ thống các chế độ BHXH. (1). Chế độ trợ cấp ốm đau. Nhờ có sự đóng góp vào quỹ của số đông người tham gia BHXH mà quỹ BHXH có thể đảm bảo chi trả chế độ BHXH cho những người ốm đau 75% tiền lương với điều kiện người lao động đã đóng phí BHXH đủ 3 tháng trở lên có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền do Bộ y tế xác nhận. Đối với chế độ trợ cấp ốm đau dài ngày thời hạn tối đa là từ 12 tháng đến 24 tháng được hưởng trợ cấp. (2). Chế độ thai sản: Đây cũng là chế độ chi trả ngắn hạn chỉ áp dụng cho những đối tượng tham gia lao động là lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ với các trường hợp được hưởng: khám thai, sinh con, nuôi con sơ sinh.Điều kiện hưởng là người đã tham gia đóng phí BHXH. Người lao động nữ khi áp dụng chế độ này được nghỉ việc 4 tháng và được hưởng 5 tháng lương do quỹ BHXH chi trả. (3). Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. _Về tai nạn lao động: Theo thống kê thì tình hình tai nạn lao động những năm gần đây có xu hướng tăng cả về số vụ, số người và số người bịi thiệt mạng. Thực tế trong những năm qua tai nạn lao động xảy ra ở mọi ngành nghề, mọi loại hình doanh nghiệp trong tất cả các thành phần kinh tế. Từ năm 1995 đến năm 2000 số vụ tai nạn lao động xảy ra trong quá trình lao động, dao động từ 2000 đến 3000 vụ lớn, nhỏ. Năm 2000 là 3405 vụ trong đó số người chết cũng tăng lên. Đó là chưa kể đến số người lao động bị tai nạn do phương tiện giao thông gây nên trong thời gian đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc. Tỷ lệ tai nạn lao động làm chết người thường tập trung vào một số ngành nghề như ngành xây dựng, ngành điện, khai thác khoáng sản, khai thác đá, ngành hoá chất... Năm 2000 số vụ tai nạn lao động làm chết người trong các ngành nghề này chiếm 44% tổng số vụ tai nạn lao động chết người trong cả nước và số người chết do tai nạn lao động chiếm 43,2%. _Về bệnh nghề nghiệp: Theo số liệu thống kê của vụ Y tế dự phòng thì hàng năm số người được khám để phát hiện bệnh nghề nghiệp khoảng 20.000 người chiếm tỷ lệ 1,2% tổng số lao động trong các doanh nghiệp. Trong tổng số người được khám thì số người phát hiện mắc bệnh nghề nghiệp chiếm khoảng 14% và phần lớn bị bệnh bụi phổi (chiếm 50% ), sau đó là các bệnh về da, nhiễm độc chì và bị điếc. Số người mắc bệnh nghề nghiệp tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp ( chiếm 60% số người mắc bệnh trong cả nước) sau đó là ngành đường sắt (12% ). _Về điều kiện lao động: Điều kiện lao động ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhìn chung chưa tốt. Năm 1999 có tới 30% số doanh nghiệp có tình trạng nhà xưởng không phù hợp với công nghệ sản xuất . Tỷ lệ lao động phải làm việc với các công cụ thủ công chiếm 49,78% tổng số lao động; 45,7% làm việc với công cụ cơ khí và nửa cơ khí ; 4,5% làm việc với thiết bị tự động hoá. Số người lao động phải tiếp xúc với nguyên, nhiên vật liệu không đảm bảo vệ sinh lao động chiếm tới 32,3% tổng số lao động trong các doanh nghiệp sản xuất. Qua khảo sát 642 nghề thì có tới 35% có nồng độ hơi khí độc tại nơi làm việc vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép từ 1 đến hàng trăm lần, có gần 39% số nghề có hàm lượng bụi đo được vượt tiêu chuẩn từ 1 đến 50 lần... _Về công tác an toàn lao động: Theo kết quả điều tra của Bộ lao động thương binh- xã hội: trên 625 doanh nghiệp quốc doanh , 968 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 120 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì có tới 53,29% số lao động ngoài quốc doanh, 29,25% số lao động làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh khi làm việc không có các phương tiện bảo hộ các nhân.... (4) Chế độ hưu trí: Tuổi hưu trí căn cứ vào luật lao động: Nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên thì được hưởng lương hưu hàng tháng. Nhưng quy định này chưa hợp lý với một số ngành độc hại, nguy hiểm thì phụ nữ không thể làm đến độ tuổi 55 và họ muốn hưởng mức trợ cấp ít ỏi từ xí nghiệp để chờ hưu đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp và bản thân họ. Việc chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH trước ngày 15 hàng tháng . Với số tiền hàng năm trên 6000 tỷ đồng phần lớn bằng tiền mặt , ở hầu khắp các xã phường trong cả nước. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam thì có hơn 80 vạn người hưởng hưu trí hoặc trợ cấp một lần. Đến năm 2001 cơ quan BHXH chỉ trả cho 39972 người hưởng chế độ trợ cấp hưu trí. 1892 người hưởng trợ cấp cán bộ xã, phường. (5) Chế độ tử tuất. Chế độ này áp dụng cho thân nhân của đối tượng lao động khi đối tượng lao động chết theo quy định của luật lao động. Chỉ tính đến năm 1994 chính sách BHXH đã đảm bảo trợ cấp cho hơn 30 vạn người hưởng tiền tuất hàng tháng. Năm 2001 đã đảm bảo trợ cấp cho 20370 người hưởng chế độ tử tuất. 2. Tổ chức quản lý quỹ BHXH: Theo Nghị định 218/CP ngày 27/01/1961 quy định Tổng công đoàn Việt Nam quản lý quỹ và sự nghiệp BHXH. Đến quyết định 31/CP ngày 30/03/1993 công tác quản lý quỹ và sự nghiệp BHXH do hai tổ chức: Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ Lao động thương binh- xã hội. Nghị định 19/CP ngày 12/02/1995 sự nghiệp quản lý BHXH do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý và Bộ Lao động thương binh- xã hội là cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH có trách nhiệm : -Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện điều lệ BHXH của tổ chức BHXH Việt Nam ở tất cả các cơ quan đơn vị , doanh nghiệp có đối tượng tham gia trên phạm vi cả nước. -Có trách nhiệm đề xuất với Chính phủ sửa đổi, bổ sung những quy định về BHXH. -Có thẩm quyền kiến nghị với các cơ quan chức năng của Nhà nước để xử lý những việc làm vi phạm pháp luật. -Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam là cơ quan quản lý cao nhất của BHXH Việt Nam. Những năm gần đây đã đạt được một số thành tựu trong công tác quản lý BHXH: Năm 2001 cơ quan BHXH đã cấp 487.513 sổ BHXH , đưa tổng số đã cấp lên 3.872.594 sổ BHXH , giải quyết chế độ hàng tháng cho 66.356 người tăng 14% và 137.094 người hưởng chế độ 1 lần tăng 11% so với năm 2000. Trong 2 năm 2000-2001 toà án thụ lý hơn 1.400 vụ, số vụ khởi kiện riêng về đòi người sử dụng lao động trả trợ cấp BHXH chỉ chiếm dưới 10% (khoảng 102 vụ) ,phần lớn các vụ kiện này nằm trong các vụ kiện về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và sa thải lao động trái pháp luật kết hợp với đòi bồi thường BHXH. II. Những nguyên nhân làm hạn chế thực hiện chính sách bhxh. 1. Về tổ chức quản lý BHXH. Công tác tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật về BHXH chưa được các ngành, các cấp quan tâm đúng mức. _Pháp luật về BHXH còn ở dạng văn bản dưới luật, tính pháp lý chưa cao, chưa đồng bộ và thiếu nhất quán, thiếu những chế tài mạnh để các cơ quan chức năng buộc người vi phạm phải thực hiện khi tranh chấp xảy ra. _Công tác thanh tra, kiểm tra còn quá mềm mỏng , đôi khi bị buông lỏng, chế tài sử phạt đối với người có sai phạm quá nhẹ, họ sẵn sàng nộp phạt vài ba triệu để tránh những khoản nộp hàng tỷ đồng. 2. Về phía người lao động: Bản thân người lao động trình độ còn hạn chế, họ chỉ muốn có công ăn , việc làm, có thu nhập cho nhu cầu đời sống hàng ngày, họ chưa hiểu hết về các chế độ ,chính sách xã hội cũng như quyền lợi của người lao động. Vì vậy, nhiều người không tham gia vào BHXH. 3. Về phía doanh nghiệp: Tình hình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp Nhà nước tăng trưởng chậm, vì vậy chủ doanh nghiệp không đăng ký đóng BHXH cho người lao động theo quy định. Có đến 30% doanh nghiệp tư nhân làm ăn thua lỗ, doanh nghiệp không có trụ sở, vố ít, không mở sổ sách kế toán để hach toán theo quy định hiện hành của Nhà nước nên không biết đóng BHXH theo mức nào. Người lao động thì đa số hợp đồng theo thời vụ hoặc hợp đồng theo công việc. Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm thực hiệntốt hơn chính sách bhxh ở nước ta. 1. Đối tượng tham gia: Tăng cường khai thác , mở rộng đối tượng tham gia BHXH, trọng tâm là lao động ngoài quốc doanh, tiếp tục mở rộng ra khu vực công lập. 2. Công tác thu BHXH: Mức thu hiện tại 20% trong khi đó chi ra một lần thì rất nhiều, Nhà nước phải bù đắp, vậy có nên tăng mức thu BHXH so với tổng quỹ lương. 3. Vai trò quản lý Nhà nước về BHXH: -Cần chấn chỉnh, sửa đổi, tăng cường kiểm tra tình hình thực hiện công tác thu BHXH, xử lý nghiêm khắc các trường hợp cố tình vi phạm, dây dưa tồn đọng nợ hoặc né tránh việc đóng BHXH cho người lao động. Coi nộp BHXH như một sắc thuế. -Nhà nước sớm ban hành luật BHXH, sửa đổi nội dung các chế độ BHXH : người lao động đóng BHXH theo nền tiền lương nào thì được hưởng theo mức lương đó. -Thực hiện chế độ BHXH tự nguyện, tuyên truyền cho người lao động để họ tự nguyện tham gia BHXH. -Phân cấp giải quyết chế độ BHXH cho BHXH cấp huyện, cho phép BHXH huyện thẩm định xong và chi trả ngay sau đó mới đưa lên BHXH cấp tỉnh thẩm định lại nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống thường ngày cho người lao động. Đào tạo đội ngũ cán bộ ngành BHXH , nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ ngành BHXH, đồng thời ngành BHXH phải cử cán bộ thường xuyên tiếp xúc với doanh nghiệp để họ hiểu được quyền lợi mà người lao động được hưởng và trách nhiệm của người sử dụng đối với người lao động. Nhà nước nên trang bị hệ thống máy vi tính cho BHXH các cấp để thực hiện công tác quản lý BHXH được thuận tiện cho việc thanh tra , kiểm tra thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động được công bằng. Bên cạnh đó, tổ chức tập huấn thường xuyên cho đội ngũ cán bộ ngành BHXH đặc biệt khi bảo hiểm y tế sát nhập với BHXH và ngành bảo hiểm y tế phải nhận thức đúng đắn bản chất của BHXH và BHYT để việc thực hiện được đảm bảo. Kết luận Xã hội càng phát triển thì càng có nhiều sự cố bất ngờ xảy ra mà con người không thể lường trước được. Vì vậy để đảm bảo cho nhu cầu sống của mình con người không chỉ lo cho hôm nay mà còn phải lo cho ngày mai. Cùng với truyền thống "lá lành đùm lá rách" Đảng và nhà nước ta đã có một chính sách trong tổng thể các chính sách xã hội, đó là chính sách BHXH với năm chế độ cơ bản. Nhu cầu an toàn được bảo vệ trong xã hội phát triển được người lao động và người sử dụng lao động xã hội rất quan tâm. BHXH sẽ giúp họ nên làm gì và nên làm thế nào để được bảo vệ về mặt vật chất. Trong nền kinh tế thị trường bảo hiểm xã hội bảo vệ quyền lợi cho người lao động và người sử dụng lao động đồng thời thực hiện cân bằng trong phân phối lại thu nhập. Bên cạnh đó nhà nước khẳng định được chức năng quản lý nhà nước về BHXH và vai trò điều tiết của mình . Tài liệu tham khảo Tiến Anh- Tạp chí lao động và xã hội- Số 8/2000 - BHXH trong các giai đoạn phát triển-trang 15 TS. Mai Quốc Chánh - PGS. PTS, Nhà giáo ưu tú Phạm Đức Thành Giáo trình Kinh tế lao động -BHXH-Nhà xuất bản giáo dục - trang 19. Hà Văn Chi- Tạp chí lao động và xã hội- Số 11/2000- Một số nét thực hiện BHXH theo bộ Luật Lao động - trang 4. Trịnh Thị Hoa- Vũ Thị Thành - Tạp chí BHXH - Số 9-2002- Thực trạng và giải pháp về chế độ TNLĐ và BNN - trang 12. Nguyễn Đức Thắng - Tạp chí BHXH - Số 1/2001 - Tranh chấp BHXH và những giải pháp. Tạp chí BHXH -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35499.doc
Tài liệu liên quan