Hiện nay, người phụ nữ đã có quyền tham gia bàn bac về tất cả các vấn đề trong gia đinhh n gưng quyết inh cuối cùng thuộc về người chồng. Theo điều tra cho thấy nếu ý kiến hai bên khac nhau, không thống n hất với nhau thì tiếng nói của người chồng là quyết định, người v ợ buộc phải nghe theo. Đay là một trong những biểu hiện cho thấy quan hệ quyền lực không ngang nhau giữa hai giơi trong gia đinh.
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 17195 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp (trường hợp nghiên cứu ở thị trấn Tứ Hạ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Ta có thẻ điểm qua vài con số sau:
2.1.1 Chủ hộ gia đình
Theo kết quả điều tra năm 2002 tỷ lệ gia đình có chủ hộ là nữ chỉ xấp xỉ 24% trong cả nước. Tỷ lệ này ở thành thị là 36,18% và nông thôn là 20,22%
,
Tình hình bình đăng giới ở Thừa Thiên Huế
Thực hiện các chủ trương , chính sách của nhà nước về bình đẳng giới, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế đã chỉ đạo các cơ quan ban nghành, đặc biệt hội liên hiệp phụ nữ tỉnh tạo mọi điều kiện đẩy mạnh sự phát triển của phụ nữ nhằm nâng cao vị trí chính trị xã hội của nữ giới, thực hiện bình đẳng giới. Các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho phụ nữ được tăng cường. Công tác chăm lo và bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp cho nữ giới được các cơ quan ban nghành quan tâm. Tỷ lệ nữ tham gia các hoạt động chính trị xã hội gia tăng. Toàn tỉnh có 1105 đảng viên nữ (chiêm tỷ lệ 40,6%) , có 53 chị là tiến sỹ , thạc sỹ la 532 chị. Các chị có trình độ đại học và cao đẳng là 9687 chị. Các cơ quan ban ngành trong tỉnh nêu cao khẩu hiệu vì sự tiền bộ phụ nữ và bình đẳng giới. Do đó, nữ giới có nhiều cơ hội phát huy vai trò, năng lực của mình hơn.
Tuy nhiên, sự giải phóng phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ Huế nói riêng mới chỉ dừng lại ở những cái mà cơ chế chính sách mang lại, chưa vào sâu được đời sống gia đình. Trong đời sống gia đình, bất bình đẳng giới vẫn đang tồn tại. Đặc biệt trong các gia đình ở Huế, nơi còn mang nặng những tư tưởng của chế độ phong kiến, các hiện tượng bất bình đẳng giới vẫn diễn ra hàng ngày. Thế nhưng điều này lại được ít người thừa nhận. Dương như sự bình đẳng giới trong gia đình rất ít được chú ý, cuộc sống giữa hai giới trong gia đình từ bao đời nay vẫn vậy, ít có sự thay đổi.
THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Ở TỨ HẠ.
Trong buổi làm việc đầu tiên với đại diện chính quyền địa phương, khi được hỏi “ở Tứ Hạ còn tồn tại hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình không?”. Câu trả lời “không, hiện nay nam nữ bình quyền”. Cô Lê Thị Thừa, chủ tịch hội phụ nữ thi trấn cho biết: “ở Tứ Hạ vấn đề bình đẳng giới thực hiện khá tốt, trong gia đình vợ chồng có vai trò và địa vị ngang nhau”. Nhưng đi sâu nghiên cứu ở các khu vực dân cư tôi thu được một số kết quả đáng để chúng ta chú ý:
Tình hình bình đẳng giới trong gia đình ở Tứ Hạ trước đây:
trước đây vai trò của người phụ nữ được quy định bởi “tam tòng” (tại gia tòng phụ,xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) và “tứ đức” (công, dung, ngôn, hạnh). Người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào chồng và không thể độc lập đưa ra quyết định gì, đặc biệt hạn chế tham gia các hoạt động xã hội. Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình ít được nhắc tới, người vợ vẫn giũ thói quen “phục tùng” chồng.
Các giải pháp đã thực hiện
Từ khi luật hôn nhân và gia đình ra đời, vai trò của người phụ nữ được nâng lên, đặc biệt trong thời gian gần đây nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát triển vì sự tiến bộ và bình đăng giới, nhất là từ khi luật bình đẳng giới ra đời (2006). Hưởng ứng chủ trương của nhà nước, lãnh đạo thị trấn cũng đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm thực hiện bình đẳng giới:
Mở các lớp tập huấn về bình đẳng giới.
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào các chương trình hành động của địa phương như chương trình dân số và sức khoẻ sinh sản…
Tổ chức tuyên truyền, phổ biến kiến thức về luật bình đẳng giới.
Hội phụ nữ thường xuyên quan tâm, theo dỏi sự phát triển của chị em.
Kết quả đạt được:
Nữ giới có cơ hội phát huy năng lực, nâng cao vai trò.
10/10 chi hội thường tổ chức sinh hoạt lồng ghép toạ đàm, sinh hoạt câu lạc bộ với nhiều nôij dung chuyên đề như chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ, cách chăm sóc nuôi dạy trẻ, cách làm ăn…Qua đó nâng cao năng lực và vai trò của phụ nữ. Họ có nhiều cơ hội tham gia phát triển sản xuất và hoạt động xã hội.
Trong lao động sản suất tạo thu nhập cho gia đình:
Chị em được tạo cơ hội vay vốn ưu đãi, hướng dẫn cách làm ăn.Thông qua các nguồn vốn vay (vốn 120 kho bạc Hương Trà,vốn xoá đói giàm nghèo),các chị có thêm vốn để đầu tư cho chăn nuôi sản xuất,mở mang ngành nghề kinh doanh dịch vụ buôn bán.Chị em phụ nữ được tham gia các lớp tập huấn hướng dẫn cách làm ăn, áp dụng khoa học kĩ thuật vào trồng trọt,chăn nuôi,tham gia các lớp chăn nuôi lợn nạc,thâm canh đồng ruộng IBM ……Từ kiến thức thu được các chị đã đưa vào sản xuất chăn nuôi,gieo trồng.Nhiều chị đã áp dụng sử dụng thức ăn công nghiệp vào chăn nuôi giống lợn siêu nạc để rút ngắn khoảng cách,nuôi được nhiều lứa mang lại hiệu quả kinh tế cao.Một số chị có vốn,kiến thức,kỹ năng đã xây dựng quy mô chăn nuôi lớn từ 40-50 lợn thịt,lợn nái từ 5-7 con,như chị Hoàng Thị Aí ở KV3,Trịnh Thị Hồng Ly ở KV10……Trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi điển hình có Dì Bùi Thị Duyên(70 tuổi ở KV4 ,mới lên làm bí thư chi bộ thôn)đã chuyển đổi thành công giống lúa L14-L18 đạt năng suất cao.Ở KV8-KV buôn bán dịch vụ,nhiều chị đã sử dụng vốn vay đầu tư vào sạp hàng,hoặc mở các cơ sở sản xuất nhỏ như chị Trịnh Cẩm Tú mở cơ sở sản xuất bún gạo,tạo việc làm cho tất cả các thành viên trong gia đình.Các chị còn được tập huấn cách hoạch toán kinh doanh,chi tiêu trong gia đình…Nhờ vậy mà chị em đã sử dụng và quản lý vốn vay có hiệu quả.Với nỗ lực của mình các chị đã đóng góp công sức tạo thêm nguồn thu nhập lớn cho gia đình,nhiều chị đã thoát nghèo,nhiều chị vươn lên làm giàu,mua sắm các trang thiết bị trong gia đình,xây dựng và sửa chữa nhà cửa như chị Nguyễn Thị Gái ở KV4……Đặc biệt một số chị tích luỹ được vố lớn,có kiến thức đã mạnh dạn mở rộng các cơ sở sản xuất,thành lập các doanh nghiệp tư nhân như chị Nguyễn Thị Hồng Thuỷ (41 tuổi) đã mở doanh nghiệp tuyển mộ nhiều chị em vào làm.
Có thu nhập tương đối ổn định,chị em không còn bị phụ thuộc kinh tế vào người chồng nữa.Do đó quyền và vai trò của họ trong gia đình phần nào được củng cố.
Phụ nữ Tứ Hạ không chỉ được nâng cao năng lực trong lao động sản xuất mà còn được tăng năng lực cho vai trò người nội trợ.Qua các buổi sinh hoạt với nội dung chăm sóc nuôi dạy trẻ,phòng chống các tệ nạn xã hội….Các chị có thêm kiến thức cho việc chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái.Nhờ vậy mà các chị đã làm tốt thiên chức người mẹ,người vợ trong gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc ấm no.
Các chị còn được chồng con tạo điều kiện tham gia môt số hoạt động xã hội:
Tham gia vào bộ máy chính quyền: hiện nay có 2/13 nữ tham gia ban chấp hành đảng bộ thị trấn(chiếm 15,38%),5/26 nữ tham gia đại biểu HĐND thị trấn(chiếm tỷ lệ 19,23%).Đội ngũ cán bộ tham gia cấp uỷ,ban quản lý các khu v ực là 9 chị.
Tham gia vào một số hoạt động xã hội như tham gia sinh hoạt trong các câu lạc bộ,các hội thi,tham gia hiến máu tình nguyện. Đóng góp các loại quỹ do hội phụ nữ phát động như quỹ khuyến học,đền ơn đáp nghĩa…
Tích cực tham gia các dự án phát triển cộng đồng như dự án chăm sóc sức khoẻ phụ nữ,dự án của Phần Lan hỗ trợ kinh tế hộ cho các hộ nghèo trên địa bàn.
Rõ ràng vai trò của người phụ nữ Tứ Hạ hôm nay đã được nâng cao.Họ vừa tham gia sản xuất, vừa chăm sóc gia đình và tham gia các hoạt động xã hội.Vị trí của họ trong gia đình và cộng đồng đã phần nào được ghi nhận:
“Chị em phụ nữ đã thể hiện được vai trò của mình trên tất cả các lĩnh vực.Các chị không chỉ làm tốt công việc gia đình mà còn đóng góp công sức vào sự phát triển của địa phương” (Hoàng Tấn Son,bí thư đoàn thanh niên thị trấn).
“Phụ nữ giữ vai trò rất quan trọng trong gia đình,là người động viên lớn nhất,là điểm tựa cho người đàn ông”(Hoàng Tấn Tô,KV6).
Người vợ được tăng quyền trong gia đình
Trước đây quyền sở hữu tài sản trong gia đình thường thuộc về người đàn ông.Từ các tài sản lớn như đất đai,nhà cửa..đến các trang thiết bị trong nhà đều do người chồng sở hữu,kể cả các khoản thu nhập trong gia đình. Điều này sẽ gây thiệt thòi cho phụ nữ khi ly hôn. Hiện nay,trong nhiều gia đình,vợ chồng đã cùng nhau đứng tên sở hữu tài sản chung.Các khoản thu nhập được sử dụng có sự bàn bạc giữa hai vợ chồng. Nhìn chung quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình phần nào được đảm bảo hơn.
Nữ giới đã có quyền tham gia vào các quyết định trong gia đình.
Trước đây quyền quyết định mọi vấn đề trong gia đình đều do nam giới đưa ra,người vợ chỉ làm theo,phục tùng mọi quyết định của chồng từ những quyết định lớn tới những quyết định nhỏ như chi tiêu sinh hoạt trong gia đình. Hiện nay khi mà phụ nữ không còn phụ thuộc hoàn toàn về kinh tế với các ông chồng, địa vị của họ đã được nâng lên nên phụ nữ khá bình đẳng với nam giới trong các quyết định của gia đình. Đối với việc chợ búa hàng ngày và việc ăn mặc, học hành của con cái phụ nữ quyết định tương đối tự do. Còn quyết định các khoản chi lớn và các quyết định quan trọng khác đều có sự bàn bạc giữa 2 vợ chồng. Kết quả điều tra ở bảng sau cho thấy người vợ ít nhiêuu cũng có “ tiếng nói” trong những quyết định quan trọng thể hiện ở phương án “ cả hai” cùng tham gia quyết định.
Bảng1: Ai quyết định các khoản chi tiêu sau?:
Các khoản chi
Người được hỏi
Chồng
Vợ
Cả hai
Chi tiêu cho ăn uống ,sinh hoạt
Nam
0
24 80%
6 20%
Nữ
3 10%
21 70%
6 2 0%
Chi tiêu lớn như làm nhà,..
Nam
12 40%
3 10%
15 50%
Nữ
15 50%
0
15 50%
Đầu tư cho sản xuất
Nam
12 40%
3 10%
15 50%
Nữ
9 30%
6 20%
15 50%
Theo điều tra cho thấy có tới 50% ý kiến của cả nam và nữ cho rằng có sự bàn bạc giữa 2 vợ chồng trong những quyết định lớn.Đây có thể coi là một bước tiến lớn trong việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.
Sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái đã được cải thiện.
Trước đây khi mà tư tưởng trọng nam khinh nữ còn phổ biến ,sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái trong gia đình được thể hiện rõ ngay khi đứa con ra đời.Nếu đứa bé ra đời là con trai sẽ được cả họ chào đón ăn mừng,còn nếu là con gái thì chỉ có thái độ thờ ơ.Hiện nay tuy trong các gia đình ,cách đối xử giữcon trai và con gái chưa hoàn toàn bình đẳng nhhwng đã có sự rút ngắn khoảng cách đáng kể.Đứa trẻ sinh ra dù là trai hay là gái cũng đều nhận được sự yêu thương chăm sóc của gia đình.Đến tuổi đi học các em đều được tạo điều kiện học tập như nhau.Lớn lên ,tuy chịu tác động lớn của bố mẹ trong định hướng nghề nghiệp và quyết định hôn nhân,nhưng cả con trai và con gái đã có thể tự quyết định tương lai của mình.
Một bộ phận nhỏ nam giới đã biết chia sẻ việc nhà với vợ
Tuy chỉ có một bộ phận nhỏ nam giới(5-10%) chia sẻ công việc nội trợ với người phụ nữ nhưng đó cũng là dấu hiệu cho thấy việc tuyên truyền nam giơi chia sẻ công việc nhà với vợ đã có chút hiêu quả.Bởi vì vùng đất này từ trước tới nay rất hiếm khi đàn ông nhúng tay vào việc bếp núc.
Nhìn chung,bình đẳng giới trong gia đình ở Tứ Hạ hiên nay đã có những bước tiến đáng kể, góp phần nâng cao vai trò,vị trí của người phụ nữ,vì sự tiến bộ của nữ giới.Tuy nhiên, bình đẳng giới trong gia đình cũng còn quá nhiều bất cập.
Những hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình.
Qua điều tra, có tới hơn 70 % người được hỏi cho rằng không còn hiện tượng bất bình đẳng giới trong gia đình hoặc là ở mức độ không đáng kể,đó cũng là quan điểm của không ít cán bộ địa phương.Nhưng khi đi vào điều tra thực tế cho thấy bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của các gia đình ở Tứ Hạ.Song những hiện tượng bất bình đẳng đó ít được chú ý, nóược nhiều người chấp nhận như một phần tất yếu của cuộc sống gia đình.Đi sâu nghiên cứu một số hiện tượng bất bình đẳng nam nữ trong gia đình ta sẽ thấy đã đến lúc phải thay đổi cách nhìn về vấn đề này.
Vai trò của người phụ nữ trong gia đình chưa đựoc đánh giá đúng mức
Bất kì ở đâu,lúc nào người ta cũng nhìn thấy sự đóng góp to lớn của nữ
giới trong các hoạt động gia đình .Những đóng góp của họ được xem là “quan trọng”,thế nhưng địa vị của họ trong gia đình không được cải thiện so với nam giới tương ứng với những đóng góp đó.Những đánh giá về vai trò của nữ giới còn mang tính chất khuôn sáo,chiếu lệ chứ chưa thật sự ghi nhận đúng mức những đóng góp của họ.Nhiều trường hợp, khi ông chồng làm việc mọi người ghi nhận đóng góp của anh ta nhưng khi người vợ làm việc đó người ta cho là việc tất nhiên.Nhất là trong các công việc nội trợ bởi nhiều người cho rằng “nội trợ và chăm sóc con cái là thiên chức của người phụ nữ chứ không phải công việc của đàn ông’’.Kể cả khi người vợ tham gia những công việc tạo ra thu nhập đáng kể cho gia đình nhưng dường như người chồng “trả công” vợ không xứng đáng với lao động bỏ ra bằng nhưng “đánh giá không xứng đáng” của mình. Nhiều khi các chị còn bị trách cứ “làm tý việc cũng kể lể”, “đàn bà không làm những việc ấy thì làm gì”. “Tý việc” mà các ông chồng nói là hơn 60% công việc nội trợ gia đình. Nếu một gia đình khá giả ở thành phố có điều kiện nuôi người giúp phải trả công từ 400000 ngàn đồng đến 600000 ngàn đồng mỗi tháng, có cơm ăn ,quần áo mặc và chỗ ở.Thế nhưng người vợ làm nội trợ gia đình thì không ai tính công sức của họ thành tiền mà chỉ được coi là “tý việc” không đáng kể. Đây là hiện tượng có tính chất phổ biến trong các gia đình ở Tứ Hạ nói riêng và trong gia đình nông thôn Việt Nam nói chung.Điều này phần nào lý giải khi điều tra tiêu chí “Ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu nhập gia đình?” thì kết quả nghiêng về nam giới.Có tới 50% ý kiến của nam giới và 40% ý kiến của nữ giói cho rằng nam giới mang lại nguồn thu nhập chính cho gia đình,trong khi chỉ có 10% ý kiến của nam giói và 20% ý kiến của nữ cho rằng nữ giơi có đóng góp nhiều nhất vào thu mang lại cao hơn người chồng.
Bảng2 :Ai là người đóng góp nhiều nhất vào thu nhập gia đình?
Người được hỏi
Vợ
Chồng
Cả hai
Nam
3 10%
15 50%
12 40%
Nữ
6 20%
12 40%
12 40%
Điều này cho thấy uy tín về kinh tế của người chồng cao hơn người vợ.
3.4.2 Sự phân công lao động trong gia đình chưa hợp lý
Sự phân công lao động trong gia đình ở Tứ Hạ thể hiện khá rõ sự phân công theo giới.Trong gia đình,nữ giới thường phải chịu trách nhiệm về những công việc thiết yếu,lặp đi lặp lại và cần phải tiến hành đều đặn,trong khi nam giới đảm nhận những việc lớn, ít nhàm chán hơn.
Ở nhiều xã hội, sự phân công lao động phổ biến theo giới là giao nấu ăn cho phụ nữ, coi đó là khả năng thiên bẩm của giới nữ. Không nam giới nào cảm thấy xấu hổ mà coi là đương nhiên nếu họ không biết nấu ăn hoặc nấu ăn vụng. Nhưng nếu người vợ nấu ăn vụng sẽ bị khiển trách thậm tệ. Điều này là khà phổ biến trong các gia đình ở Tứ Hạ. Phụ nữ ở Tứ Hạ phải đam nhận hầu hết các công việc nội trợ, từ nấu ăn,dọn dẹp nhà cửa đến chăm sóc con cái.
Ngoài công việc chăm sóc gia đình, các chị còn tham gia hầu hết các hoạt động lao độong khác. Họ là những người tham gia chủ đạo và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, là nghề chính của 2/3 gia đình ở đây. Theo khảo sát địa bàn cho thấy hầu hết nữ giới đều tham gia với vai trò chính trong các công việc như làm giống, cấy, làm phân, chăm sóc…chỉ có hai công việc họ ít tham gia hơn là làm giống và làm đất. Ở nhiều hoạt động nghề phụ hay buôn bán, dịch vụ nữ gíơi đóng vai trò là lao động chính, tạo ra thu nhập đáng kể cho gia đình. Kết quả phát phiếu điều tra cho thấy:
Bảng3 :Ai trong gia đình là lao động chính trong các loại việc sau?
Loại công việc
Chồng
Vợ
Bố mẹ già
Các con
Chợ búa
3 5%
40 66,7%
7 11,7%
10 16,6%
Chăn nuôi
9 15%
36 60%
6 10%
9 15%
Làm ruộng
26 44,3%
28 46,7%
3 5%
3 5%
Làm vườn
24 40%
30 50%
3 5%
3 5%
TTCN,Dịch vụ
6 10%
36 60%
6 10%
12 20%
Qua bảng này ta thấy phụ nữ tham gia vào hầu hết hoạt động sản xuất của gia đình và mức độ tham gia nhiều hơn nam giới. Số liệu điều tra cho thấy, trung bình mỗi ngày phụ nữ làm việc tới 15 tiếng, trong khi nam giới chỉ khoảng hơn 10 tiếng. Tuy trường độ làm việc của nữ giới nhiều hơn nam giới nhưng lao động của nam giới được đề cao hơn bởi công việc của nam giới vất vả, nặng nhọc hơn. Còn lao động của nữ giới có thể được trẻ em, người già hổ trợ, trong đó có nhiều lao động không tạo ra sản phẩm (việc nhà).
Trường độ làm việc lớn khiến ngươiì phụ nữ không có thời gian để nghỉ ngơi, thư giãn và chăm sóc bản thân. Các chị ở KV8,9,10 chủ yếu là cán bộ, tiểu thương, tiểu chủ còn có chút thơi gian để nghỉ ngơi, phụ nữ các khu vực thuần nông, nhất là phụ nữ nghèo phải làm việc triền miên, hết việc đồng áng, làm thêm lại đến việc nhà. Thời gian biểu hàng ngày của một phụ nữ có làm thêm nghề phụ ở Tư Hạ sẽ phần nào minh hoạ cho gánh nặng công viẹc của người phụ nữ nông thôn.
4.00 sáng
Thức dậy nấu cháo bánh canh, dọn dẹp nhà cửa, cho lợn ăn
5.30
Chuẩn bị hàng và dọn hàng lên quán
6.00-8.30
Bán hàng
8.30-9.00
Dọn hàng về
9.00-10.30
Đi chợ mua hàng, thức ăn
11.00-12.00
Nấu ăn, cho lợn ăn
12.00-1.00
Ăn trưa nghỉ ngơi cùng gia đình,
1.00-2.30
Nhào bột, cắt bột thành sợi
2.30-5.00
Ra vườn chăm sóc hoa màu
5.00-7.00
Nấu ăn, cho lợn ăn, tắm rửa và giặt giũ
7.00-7.30
Ăn tối và dọn ndẹp nhà cửa
7.30-8.30
Kiểm tra việc học của con
8.30-10.00
Làm thịt vịt, chuẩn bị bột để sáng nấu cháo, nấu cám và chuẩn bị rau cho lợn
10.00
Đi ngủ
Bảng 4:thời gian biểu hàng ngày của một phụ nữ làm thêm nghề phụ ở Tứ Hạ
Đây là những hoạt động diễn ra hàng ngày suốt hai năm nay của chị Nga (ở KV 3). Kể từ khi làm thêm nghề bán bánh canh lịch làm việc hàng ngày của chị dày hơn, chị vẫn phải đảm đương công việc nhà như trước đây. Khi phỏng vấn sâu chị cho biết thêm:
Hỏi:anh có giúp đỡ chị công việc nhà không?
TL: Thỉnh thoảng anh có chở đi chợ và phụ giúp làm thịt vịt
Hỏi: Còn những công việc nhà như nấu ăn, giặt giũ… thì sao ạ?
TL: Đó là công việc của đàn bà, ít khi anh động tay vào.
H: Chị có thấy công việc quá sức không?
TL: Làm cả ngày, không có thời gian nghỉ ngơi nên nhiều lúc rất mệt mỏi.
H: Chồng con có động viên chị không?
TL: Ít lắm, việc ai nấy làm, tui quen rồi.
H: Chị có ý định bỏ nghề không?
TL: Thì cũng phải dăm năm nữa, đợi mấy đứa nhỏ học hết chắc tui sẽ đỡ vất
vả hơn.
Nhiều chị đi làm thêm , hoặc tham gia chạy chợ buôn bán kiếm thêm thu nhập nhưng vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong công việc gia đình. Nếu không chu toàn sẽ bị chồng và gia đình nhà chồng trách móc, áp lực gia đình càng nặng nề hơn. Điều này ảnh hưởng rất lơn đến sự phát triển thẻ chất va tinh thần của người phụ nữ. Nếu không có thời gian nghỉ ngơi, giải trí những người phụ nữ này rất dể măc phải stress. Thực tế qua điều cho thấy, nếu như người đàn ông một ngày trung bình có khoảng 6 tiếng nghỉ ngơi thì phụ nữ chỉ có khoảng 1 tiếng. Nhìn vào biểu đồ sau ta sẽ thấy rõ sự chênh lệch này
Sự bất công còn thể hiện ở việc sử dụng thời gian rảnh rỗi của 2 giới. Theo điều tra có tới 80% nam giới được hỏi cho biết họ sử dụng thời gian rổi để tụ tâp cà fê, ăn nhậu hoăc đánh bài. Trong khi đó 80% nữ được hỏi cho biết thời gian rổi họ thường kiểm tra con cái học bài hoặc may vá quần áo. Họ chỉ tranh thủ nghỉ ngơi giải trí khi xem một bộ phim hay hoặc một chương trình yêu thích.
Rõ ràng sự phân công trách nhiệm trong gia đình còn có sự bất bình đẵng giữa nam và nữ, mà phần thiệt luôn thuộc về nữ giới.
Thái độ của nam giới đối với công việc nội trợ
Nhiều nam giới ở xư Huế vẫn con quan niệm “đàn ông ngoài nhà đàn bà trong bếp” họ cho rằng vị trí của người đàn ông là gánh vác những trọng trách của gia đình và xã hội, còn viẹc bếp núc là của đàn bà. Xã hội đang lên tiếng kêu gọi nam giới chia sẻ công việc nhà với phụ nữ, nhưng ở Tứ Hạ qua điều tra chỉ có 20% ngươiì được hỏi thỉnh thoảng phụ giúp vợ nấu ăn, còn hơn 80% cho biết họ chưa từng vào bếp và có đến hơn 90% trả lời chưa bao giờ giặt giũ cho vợ con cả. Với tiêu chí “nam giới có cần phải chia sẻ công việc nhà với nữ giới không?”, chỉ có 30% nam giới trả lời là có, 40% trả lời không và 30% là ý kiến khác. Và có tơi 50% ý kiến của nữ giới mong muốn nam giới chia sẻ công việc nội trợ, chỉ có 20% ý kiến trả lời không.
Bảng 5: Nam giới cần chia sẻ việc nhà với nữ giới không?
Người được hỏi
Có
Không
Ý kiến khác
Nam
9 30%
12 40%
9 30%
Nữ
15 50%
6 20%
9 30%
Lý giải nguyên nhân không giúp đỡ vợ làm viêc nhà, các bậc nam giới cho răng: “Nấu nướng là thiên chức của người đàn bà, đàn ông còn phải làm nhiều viêc khác”.
“Nhà có đàn bà, đàn ông nhúng tay v ào con ra thể thống gi?”
Đa phần nam giới cho rằng nấu nướng là công v iệc của phụ nữ, đàn ông có nhúng tay vào cũng chỉ là “trợ giúp” hoặc “tạm thay”
Nấu ăn thể hiên quyền lực không ngang nhau giữa hai giới. Người vợ thường phải chiều theo ý chồng, nấu mon gì đều phải theo sở thích v à khẩu vị của người chồng. Nếu người vợ không làm theo dễ dẫn tới mâu thuẫn giữa vợ chồng. Để giữ gìn hạnh phúc gia đinh người phụ nữ thường nhận phần thiệt về mình.
3.4.4Quyền ra quyết định chính trong gia đình.
Hiện nay, người phụ nữ đã có quyền tham gia bàn bac về tất cả các vấn đề trong gia đinhh n gưng quyết inh cuối cùng thuộc về người chồng. Theo điều tra cho thấy nếu ý kiến hai bên khac nhau, không thống n hất với nhau thì tiếng nói của người chồng là quyết định, người v ợ buộc phải nghe theo. Đay là một trong những biểu hiện cho thấy quan hệ quyền lực không ngang nhau giữa hai giơi trong gia đinh.
3.4.5 Bạo lực trong quan hệ vợ chồng.
Đó là bất kỳ hành động nào trong gia đình do chồng (hoặc vợ) gây ra, làm tổn thương đến sức khoẻ thể xác, tinh thần hoặc xâm phạm quyền tự do củ người ban j đờ của mình. Nạn nhân của bạo lực trong quan hệ vợ chồng thường là phụ nữ.
Theo thống kê của UBND thị trấn thì số v ụ bạo hành không nhiều, môt năm chỉ có vài ba vụ. Nhưng đó c hỉ là những vụ gây ra hậu quả nghiêm trọng mới đựoc thống kê lên trên. Trong thực tế con số đó chắc chắn sẽ n hiều hơn rất nhiều. Qua điều tra 30 chị thì có ba chị thưòng xuyên bị chồng đánh chửi; 12 chị cho biết thỉnh thoảng bị chồng mắng nhiếc. Điều tra cho thấy khong có trường hơp nào nam giới bị vợ đabhs chửi. Qua thăm dò dư luận thì số lượng cac c ăp v ợ chồng mâu thuẫn chòng đánh chửi vợ khá nhiêu. Nhất là ở khu vưc 8 trong thời gian qua có các vụ đánh chửi nhau phải có sự can thiêp củ cán bộ khu vưc. Lý do gây mâu thuẫn chỉ là n hững b ất đồng trong gia đình, do ghen tuông do say rượu…Đặc biệt có một lý do nhay cảm it ai nhắc tới n hưng có ảnh hưởng rất sâu trong quan hệ vợ chồng, đó là sự không hoà hợp về tình dục, người chồng bắt ép vợ phải chiều mình…
Tiến hành phỏng vấn sâu một số đối tượng “ngoài danh sach đièu tra” tôi thu thập được một số thông tin:
Hỏi: tại sao chu đánh gi?
TL: do ổng say rượu, không vừa ý, tui về muộn cơm nước chưa kịp nấu nên ổng làm ầm lên.
Hỏi: Thế chú có hay đánh, mắng gì không?
Tl: tháng vài ba lần.
hỏi: khi chú đánh gì có ai can thiêp không?
TL: mâu thuân vợ chồng ai hơi đâu mà can thiệp vào
Hỏi: trong khu vực mình có nhiều trường hợp chồng đánh vợ không?
Tl: chửi bới nhau thì nhiều, còn đanh nhau thì chỉ có một số căp.
Hỏi: có cặp nào đanh nhau vì chồng “đòi hỏi” mà vợ “phản đối” không?
Tl: tui không biết, chắc là có nhưng không ai nói ra, người ta cười chết.
(phỏng vấn sâu gì Oanh ở kv3)
Nhìn chung, tình trạng bạo hành phụ nữ trong các gia đình ở TỨ HẠ vẫn còn tồn tại nhưng lai được ít người thừa nhận họ chỉ coi đó là mâu thuẫn vợ chồng. Kết quả điều tra cho thấy:
Bảng 6 : chồng đánh vợ có bị coi là nghiên trọng không?
Người được hỏi
có
không
Ý kiến khác
Nam
6 20%
15 50%
9 30%
Nữ
9 30%
9 30%
12 40%
Nhìn vào bảng có thể nhận thấy phần lớn người dân đều cho rằng chồng đánh, mắng vợ không phải là vấn đề nghiêm trọng. Bởi lẽ nhiều người còn quan niệm rằng xung đột vợ chồng là điều khong thể tránh khỏi trong đờ sống gia đình. Họ cho rằng đến bat đĩa trong chạn có lúc con bị xô đẩy huống hồ quan hệ vợ chông, đó là chuyện bình thường trong cuộc sống. Cho nên nhiều người dân, kể cả cán bộ chính quyền có xu hướng coi bạo lực trong quan hệ voqj chồng là chuyện riêng tư, không nên can thiệp. Chỉ khi người vợ b ị đánh thành thương tích hoặc bị đánh thường xuyênthì người ta mới nhờ đến chính quyền địa phương. Nếu họ chỉ mới chửi mắng nhau thì họ không cần giúp đỡ việc nhà nào nhà ấy lo “đóng cựa bảo nhau”, không ai muốn và cũng không ai có khả năng can thiệp vào. Chính ngời phụ nữ bị đánh và người thân của họ cũng có suy nghĩ như vây.
Đặc biệt có một hình thức bạo hành phụ nữ ít ai thừa nhận,đó là bạo hành tình dục.Đa số các chị dù “không muốn” nhưng vẫn phải “chiều chồng”,họ nghĩ đó là trách nhiệm của mình.Hơn nữa họ sợ chồng theo gái.Và không ai lên tiếng về vấn đề này cả
Chính những nhận thức đó của người dân vô hình chung đã tạo điều kiện cho nạn bạo hành phụ nữ tiếp diễn.Họ không nghĩ là làm như vậy là đã vi phạm đến quyền bình đẳng giới,đã tự mình tạo ra sự bất bình đẳng trong gia đình.
3.4.6 Phân biệt đối xử giữa con trai và con gái
Khoảng cách phân biệt đối xử giữa con trai và con gái mới chỉ được rút ngắn chứ chưa được xoá bỏ hoàn toàn.Trong tư tưởng của nhiều bậc làm ,làm mẹ vẫn mong muốn có con trai hơn con gái, mà thích nhất là có cả con trai và con gái.Có tới 80% ý kiến mong muốn có cả trai và gái,15% ý kiến chỉ thích con trai và 5% ý kiến thích con gái.Các bậc cha mẹ, ông bà có cách đối xử và dạy dỗ con trai khác con gái.Các bé trai thường được cha mẹ chiều chuộng hơn.Không mấy ai đòi hỏi con trai thạo việc nhà nhưng đòi hỏi người con gái phải thành thạo công việc nội trợ,phải ngoan, lễ phép,chịu nhịn.Tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề bình đẳng giới trong gia đình, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp tại thị trấn Tứ Hạ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên - Huế.doc