LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THỜI KỲ KẾ HOẠCH HOÁ TẬP TRUNG 2
I. Quan niệm về chất lượng sản phẩm, nội dung, phương pháp quản lý chất lượng và thực trạng chất lượng sản phẩm thời kỳ bao cấp. 2
1. Quan niệm về chất lượng sản phẩm. 2
2. Nội dung phương pháp quản lý chất lượng trong thời kỳ bao cấp. 3
3. Thực trạng chất lượng sản phẩm thời kỳ bao cấp. 4
PHẦN II: TÌNH HÌNH CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 5
I. Sự đổi mới và hoàn thiện lý thuyết quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp. 5
1. lý thuyết về chất lượng sản phẩm 6
2. Khái niệm, nhiệm vụ, chức năng của quản trị chất lượng 12
II. Tình hình quản lý chất lượng và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam từ 1986 đến nay. 17
1. Tình hình quản lý chất lượng. 17
2. Tình hình chất lượng sản phẩm. 20
3. Đánh giá chung. 22
PHẦN III:PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 24
1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. 24
2. Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm 24
31 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độ chất lượng tối ưu, xác định cơ cấu mặt hàng, xây dựng chiến lược con người trong tổ chức phù hợp với đường lối phát triển chung.
Hệ thống giá cả cho phép các doanh nghiệp xác định đúng giá trị sản phẩm của mình, doanh nghiệp có thể xây dựng các chiến lược cạnh tranh và tìm mọi cách nâng cao chất lượng sản phẩm mà không sợ bị chèn ép về giá.
Chính sách đầu tư quyết định quy mô và hướng phát triển sản xuất. Dựa vào đó các nhà sản xuất có kế hoạch đầu tư cho công nghệ, huấn luyện đào tạo để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Chính sách thương mại về chất lượng, tổ chức hệ thống quản lý chất lượng đều có những vai trò nhất định đối với chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp.
Tóm lại, thông qua cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo điều kiện kích thích :
- Tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp.
- Hình thành môi trường thuận lợi cho việc huy động công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản trị chất lượng hiện đại.
- Sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xoá bỏ sức ỳ và tâm lý ỷ lại, không ngừng phát huy sáng kiến cải tiến hoàn thiện chất lượng sản phẩm.
* Nhóm nhân tố bên trong.
- Lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Cho dù trình độ công nghệ có hiện đại đến đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản nhất tác động đến chất lượng các hoạt động sản xuất sản phẩm và các hoạt động dịch vụ. Trình độ chuyên môn, tay nghề kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trước hết phụ thuộc vào chất lượng của tập thể những người lao động mà đứng đầu là người lãnh đạo của doanh nghiệp.
Quan tâm đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao trách nhiệm và trình độ nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh nghiệp. Đó cũng là con đường quan trọng nhất nâng cao khả năng cạnh tranh về chất lượng của mỗi quốc gia.
- Khả năng về công nghệ máy móc thiết bị của doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rấta lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu đồng bộ, tình hình bảo dưỡng duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị công nghệ, đặc biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng loạt. Trình độ công nghệ của cãc doanh nghiệp không tách rời trình độ công nghệ trên thế giới. Muốn sản phẩm có chất lượng đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường đặc biệt là thị trường quốc tế mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp cho phép sử dụng những thành tựu khoa học trên thế giới đồng thời khai thác tốt đa nguồn công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với chi phí hợp lý.
- Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu của doanh nghiệp.
Nguyên vật liệu là yếu tố tham gia trực tiếp cấu thành nên sản phẩm. Những đặc tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản phẩm, vì vậy chất lượng của nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có chất lượng sản phẩm cao từ những nguyên liệu có chất lượng tồi. Chủng loại, cơ cấu, tính đồng bộ và chất lượng nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập hệ thống cung ứng nguyên vật liệu thích hợp trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa con người sản xuất và người cung ứng, đảm bảo khả năng cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác đúng nơi cần thiết.
- Trình độ tổ chức quản trị và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp.
Trình độ quản trị lnói chung và trình độ quản trị chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp. Các chuyên gia quản trị chất lượng đồng tình cho rằng trong thực tế có tới 80% những vấn đề về chất lượng là do quản trị chất lượng gây ra. Vì vậy, nó đến quản trị chất lượng ngày nay người ta cho rằng trước hết đó là chất lượng của quản trị.
Các yếu tố của sản xuấta như nguyên liệu, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và người lao động dù ở trình độ nào nhưng nếu không được tổ chức một cách hợp lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của quá trình sản xuất thì không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Thậm chí trình độ quản lý tồi còn làm giảm chất lượng sản phẩm, gây lãng phí nguồn lực sản xuất dẫn đến làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trình độ tổ chức quản trị các hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện ở các phương pháp, cách thức quản trị, thiết lý quản trị, đạo đức kinh doanh, phương pháp quản lý công nghệ. Mỗi doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt bộ máy quản trị kỹ thuật và kiểm tra chất lượng, chú trọng tràng bị các phương tiện kiểm tra kỹ thuật giám định chất lượng sản phẩm. Muốn có chất lượng sản phẩm cao cần theo dõi kiểm tra toàn bộ quá trình sản xuất, giám sát việc thực hiện các quy trình quy phạm kỹ thuật để có biện pháp kịp thời khi phát hiện ra các sai sót và xử lý ngay.
Chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu và cơ chế quản trị nhận thức, hiểu biết về chất lượng và trình độ của cán bộ quản trị, khả năng xác định chính xác các mục tiêu, chính sách chất lượng và chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch chất lượng.
- Văn hoá doanh nghiệp.
Chất lượng là một vấn đề hết sức quan trọng do đó không thể phó mặc cho các nhân viên kiểm tra chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp phải coi chất lượng là vấn đề thuộc trách nhiệm của toàn bộ doanh nghiệp.
2. Khái niệm, nhiệm vụ, chức năng của quản trị chất lượng
a. Khái niệm
Cũng giống như khái niệm về chất lượng sản phẩm, hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau quản trị chất lượng. Tuy nhiên, những định nghĩa này có nhiều điểm tương đồng và phản ánh được bản chất của quản trị chất lượng.
Quan niệm chung nhất, khá toàn diện và được chấp nhận rộng rãi hiện nay do Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng thế giới đưa ra như sau: “Quản trị chất lượng là một tập hợp những hoạt động của chức năng quản trị chung nhằm xác định chính sách chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng phương tiện như lập kế hoạch, điều kiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiền chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng”.
Có thể hiểu quản trị chất lượng là việc ấn định mục tiêu, đề ra nhiệm vụ và tìm con đường đạt tới, giải quyết nó một cách có hiệu quả nhất. Mục tiêu của quản trị chất lượng trong các doanh nghiệp là đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu và chi phí tối ưu. Đó chính là sự kết hợp giữa nâng cao những đặc tính kinh tế, kỹ thuật hữu ích của sản phẩm đồng thời giảm lãng phí và khai thác mọi tiềm năng để mở rộng thị trường.
b. Bản chất
Thực chất của quản trị chất lượng là một tập hợp các hoạt động của chức năng quản trị như hoạch định, tổ chức, kiểm và soát điều chỉnh. Đó là một hoạt động tổng hợp về kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Chỉ khi nào toàn bộ các yếu tố kinh tế, xã hội, công nghệ và tổ chức được xem xét đầy đủ trong mối quan hệ thống nhất rằng buộc với nhau trong hệ thống chất lượng mới có cơ sở để nói rằng chất lượng sản phẩm sẽ được đảm bảo.
Quản trị chất lượng phải được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định bao gồm hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kinh tế kỹ thuật biểu thị mức độ thoả mãn về nhu cầu thị trượng, một hệ thống tổ chức điều kiển về hệ thống chính sách khuyến khích phát triển chất lượng. Chất lượng được duy trì đánh giá thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê trong quản trị chất lượng.
Quan niệm hiện nay về quản trị chất lượng cho rằng vấn đề chất lượng sản phẩm được đặt ra và giải quyết trong toàn bộ hệ thống bao gồm tất cả các khâu, các quá trình từ nghiên cứu thiết kế đến chế tạo, phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Quản trị chất lượng là một quá trình liên tục mang tính hệ thống thể hiện sự gắp bó chặt chẽ giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài.
c. Nhiệm vụ quản trị chất lượng.
Nhiệm vụ của quản trị chất lượng là xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng trong các doanh nghiệp. Trong đó có:
- Nhiệm vụ đầu tiên là: xác định cho được yêu cầu chất lượng phải đạt tới ở từng giai đoạn nhất định. Tức là phải xác định được sự thống nhất giữa thoả mãn nhu cầu về thị trường với những điều kiện môi trường kinh doanh cụ thể.
- Nhiệm vụ thứ hai là: quy trì chất lượng sản phẩm bao gồm toàn bộ những biện pháp, phương pháp nhằm đảm bảo những tiêu chuẩn đã được quy định trong hệ thống.
- Nhiệm vụ thứ ba là: cải tiến chất lượng sản phẩm. Nhiệm vụ này bao gồm quá trình tìm kiếm, phát hiện, đưa ra tiêu chuẩn mới cao hơn hoặc đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của khách hàng. Trên cơ sở đánh giá, liên tục cải tiến những quy định, tiêu chuẩn cũ để hoàn thiện lại, tiêu chuẩn hoá tiếp khi đó chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp không ngừng được nâng cao.
Quản trị chất lượng phải được thực hiện ở mọi cấp, mọi khâu, mọi quá trình. Nó vừa có ý nghĩa chiến lược và mang tính tác nghiệp. ở cấp cao nhất của doanh nghiệp thực hiện quản trị chất lượng. Cấp phân xưởng và các bộ phận thực hiện quản trị tác nghiệp chất lượng và ở từng nơi làm việc mỗi người lao động thực hiện quá trình tự quản trị chất lượng. Tất cả các bộ phận, các cấp đều có trách nhiệm nghĩa vụ, quyền hạn và lợi ích trong quản trị chất lượng của doanh nghiệp.
d. Các chức năng quản trị chất lượng trong doanh nghiệp.
* Hoạch định chất lượng
Đây là giai đoạn đầu tiên của quản trị chất lượng. Hoạch định chất lượng chính xác, đầy đủ sẽ giúp định hướng tốt các hoạt động tiếp theo vì tất cả chúng đều phụ thuộc vào kế hoạch. Đây được coi là chức năng quan trọng nhất nhất là cần được ưu tiên hàng đầu hiện nay.
Hoạch định chất lượng là hoạt động xác định mục tiêu, phương tiện, nguồn lực và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu chất lượng sản phẩm. Hoạch định chất lượng tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực và tiềm năng trong dài hạn góp phần giảm chi phí cho chất lượng; nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp cho các công ty chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường đồng thời còn tạo ra được một sự chuyển biến căn bản về phương pháp quản trị chất lượng ở các doanh nghiệp.
Nội dung chủ yếu của hoạch định chất lượng sản phẩm mới bao gồm:
- Xác lập những mục tiêu chất lượng tổng quát và chính sách chất lượng.
- Xác định khách hàng.
- Phát triển các đặc điểm của sản phẩm thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
- Phát triển quá trình có khả năng tạo ra những đặc điểm của sản phẩm.
- Chuyển giao các kết quả của hoạch định cho bộ phận tác nghiệp.
* Tổ chức thực hiện.
Thực chất đây là một quá trình điều khiển các hoạt động tác nghiệp thông qua các hoạt động, những phương tiện, kỹ thuật, phương pháp cụ thể nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm theo đúng yêu cầu kế hoạch. Tổ chức thực hiện có ý nghĩa quyết định đến việc biến các kế hoạch chất lượng thành hiện thực.
Mục đích, yêu cầu đặt ra với các hoạt động triển khai:
- Đảm bảo rằng mọi người có trách nhiệm thực hiện các kế hoạch, nhận thức một cách đầy đủ mục tiêu và sự cần thiết của chúng.
- Giải thích cho mọi người biết chính xác các nhiệm vụ, kế hoạch chất lượng cụ thể cần thiết phải thực hiện.
- Tổ chức những chương trình đào tạo và giáo dục, cung cấp những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết đối với việc thực hiện kế hoạch.
- Cung cấp đầy đủ các nguồn lực ở những nơi và lúc cần thiết kể cả những phương tiện kỹ thuật dùng để kiểm soát chất lượng.
* Kiểm tra
Kiểm tra chất lượng là hoạt động theo dõi, thu nhập, phát hiện và đánh giá những trục trặc, khuyết tật của quá trình của sản phẩm và dịch vụ được tiến hành trong mọi khâu xuyên suốt đời sống của sản phẩm.
Mục đích kiểm tra không chỉ là tập trung vào việc phát hiện các sản phẩm hỏng, loại cái tốt ra khỏi cái xấu mà là phát hiện những trục trặc, khuyết tật ở mọi khâu, mọi công đoạn tìm kiếm những nguyên nhân gây ra trục trặc khuyết tật đó để tìm những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Những nhiệm vụ chủ yếu của kiểm soát chất lượng là:
- Đánh giá tình hình thực hiện chất lượng và xác định mức độ chất lượng đạt được trong thực tế của doanh nghiệp.
- So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch để phát hiện các sai lệch đó trên các phương diện về kinh tế, kỹ thuật, xã hội.
- Phân tích các thông tin về chất lượng làm cơ sở cho cải tiến và khuyến khích cải tiến chất lượng.
- Tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm khắc phục những sai lệch, đảm bảo thực hiện đúng những yêu cầu ban đầu hoặc thay đổi theo dự kiến.
Thông thường hiện nay có hai loại kiểm tra: kiểm tra thường kỳ hàng tháng hoặc kiểm tra định kỳ và kiểm tra cuối kỳ cùng vào cuối năm kinh doanh.
* Hoạt động điều chỉnh và cải tiến.
Hoạt động điều chỉnh nhằm làm cho các hoạt động của hệ thống doanh nghiệp có khả năng thực hiện được các tiêu chuẩn chất lượng đề ra đồng thời cũng là hoạt động đưa chất lượng sản phẩm thích ứng với tình hình mới nhằm giảm dần khoảng cách giữa mong muốn của khách hàng và thực tế chất lượng đạt được, thoả mãn nhu cầu khách hàng ở mức cao hơn.
Các bước công việc chủ yếu là:
- Xác định những đòi hỏi cụ thể về cải tiến chất lượng từ đó xây dựng các dự án cải tiến chất lượng.
- Cung cấp các nguồn lực cần thiết như tài chính, kỹ thuật, lao động.
- Động viên, đào tạo và khuyến khích quá trình thực hiện và dự án cải tiến chất lượng.
Khi cần thiết có thể điều đỉnh mục tiêu chất lượng. Thực chất đó chính là quá trình cải tiến chất lượng cho phù hợp với điều kiện và môi trường kinh doanh mới của doanh nghiệp. Quá trình cải tiến được thực hiện theo các bước sau:
- Thay đổi quá trình nhằm giảm quyết tật
- Thực hiện công nghệ mới
-Phát triển sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm.
II. Tình hình quản lý chất lượng và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam từ 1986 đến nay.
1. Tình hình quản lý chất lượng.
Quản lý chất lượng là một quá trình rộng lớn lâu dài và liên tục. Từ 1986 đến nay quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá ở nước ta được tách thành hai tầm quản lý rõ rệt.
ở tầm vĩ mô quá trình này được thực hiện trên cơ sở pháp lệnh chất lượng hàng hoá, nghị định của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của Bộ Khoa Học Công Nghệ Và Môi Trường. Công tác quản lý tiêu chuẩn chất lượng chủ yếu do Tổng cục TC-ĐL-CL và các bộ phận ở các khu vực và địa phương trong toàn quốc đảm nhiệm. Ngoài ra còn có các cơ quan quản lý thị trường và cơ quan quản lý chất lượng ngành cùng phối hợp quản lý. Từ ngày 8 - 12 - 1995 để tăng cường trách nhiệm của các ngành và nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá, ngoài Bộ Khoa Học Công Nghệ Và Môi Trường là cơ quan đầu mối về quản lý chất lượng hàng hoá còn có một số bộ chuyên ngành khác cũng có trách nhiệm quản lý về chất lượng hàng hoá như Bộ công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thuỷ sản, Bộ Y tế, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải và Bộ Văn hoá Thông tin.
Quản lý Nhà nước về chất lượng hàng hoá cho đến nay đã thực hiện được những nội dung sau:
- Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn cho sản phẩm. Tính cho đến năm 1999 thì Việt Nam đã xây dựng được 11 tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm tương ứng với Bộ ISO 9002.
- Tổ chức đăng ký chất lượng hàng hoá.
- Thanh tra việc kiểm tra thực hiện đăng ký chất lượng hàng hoá.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Chứng nhận hàng hoá phù hợp tiêu chuẩn.
- Chứng nhận hệ thống chất lượng.
- Tổ chức giải thưởng hàng Việt Nam Chất Lượng Cao.
Những biện pháp quản lý này đã tạo ra cơ sở pháp lý chung làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nói chung và hoạt động quản lý chất lượng của các doanh nghiệp nói riêng đi vào nề nếp . Khuôn khổ đó một mặt tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp quản lý chất lượng nghiêm túc, sản xuất kinh doanh chính đáng vươn lên đạt hiệu quả kinh tế cao, dần hội nhập với các doanh nghiệp khu vực và trên thế giới. Đồng thời tạo nên sức ép buộc các doanh nghiệp quản lý chất lượng kém, sản xuất kinh doanh không lành mạnh, phải thay đổi cách nghĩ cách làm, chủ động nâng cao chất lượng để tồn tại và phát triển.
Kết quả có sự chuyển biến tốt trong các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp không thể thay đổi cách quản lý trì trệ trong chất lượng sản phẩm, sản xuất kinh doanh không phát triển đã buộc phải đóng cửa. Còn lại nhiều doanh nghiệp đã vận động bằng cách mở rộng liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài. Đổi mới công nghệ học tập cách quản lý mới và vươn lên. Không ít doanh nghiệp đã chủ động đào tạo nhân lực, đổi mới công nghệ, tìm kiếm mở rộng thị trường, thậm chí chuyển hướng sản xuất kinh doanh, nố lực nâng cao chất lượng và đã trụ vững, vươn lên.
ở tầm vi mô, trong những năm đổi mới vừa qua các doanh nghiệp nước ta phải đương đầu với các thách thức lớn như: Cung lớn hơn cầu. Hàng ngoại nhập tràn lan. Thị trường trong và ngoài nước yêu cầu khắt khe về chất lượng Đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm ngày càng nhiều cho chất lượng sản phẩm hàng hoá của mình. Trong quá trình đổi mới sản xuất kinh doanh, quản trị chất lượng ở các doanh nghiệp nước ta đã có những chuyển biến tích cực thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
*Thay đổi nhận thức về vai trò và nội dung quản lý chất lượng.
Nếu như trước đây các doanh nghiệp đồng nhất quản trị chất lượng với kiểm tra chất lượng và coi việc đảm bảo, nâng cao chất lượng là trách nhiệm của người sản xuất và người kiểm tra chất lượng, coi quản lý chất lượng là công việc của bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm, thì ngày nay các doanh nghiệp đã hiểu quản trị chất lượng đầy đủ hơn. Nhiều doanh nghiệp sản xuất đã coi quản trị chất lượng là trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức trong doanh nghiệp. Quản trị chất lượng gồm tổng hợp các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức, xã hội văn hoá được tiến hành đồng bộ ở tất cả các khâu của chu trình sản xuất và cung ứng dịch vụ, từ marketing, thiết kế, chế tạo, sản xuất, lắp ráp đến sử dụng, bảo hành nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng.
* Xác định đúng vài trò của lãnh đạo doanh nghiệp đối với quản trị chất lượng. Ngày nay nhiều doanh nghiệp sản xuất đã xác định 80% đến 90% trách nhiệm đảm bảo nâng cao chất lượng là thuộc về giám đốc. Bởi vậy quản trị chất lượng trở thành trách nhiệm của mọi người, mọi bộ phận trong doanh nghiệp. Nhận thức được điều này nhiều doanh nghiệp đã cơ cấu lại bộ máy quản trị doanh nghiệp và bộ máy quản trị chất lượng theo mô hình giám đốc trực tiếp nắm và chỉ đạo công tác quản trị chất lượng. Chẳng hạn ở Xí nghiệp Bánh mứt kẹo Hà Nội, giám đốc trực tiếp nắm phòng kế hoạch, kỹ thuật và kiểm tra chất lượng. ở công ty Rượu Vang, Nước Giải Khát Thăng Long, giám đốc nắm và chỉ đạo ban áp dụng ISO 9000. Hơn 50 giám đốc và tổng giám đốc tham gia thường xuyên câu lạc bộ chất lượng. Có giám đốc tự tay viết chính sách chất lượng và hồ sơ chất lượng cho công ty.
a.Các biện pháp nâng cao chất lượng.
Trong quá trình đổi mới quản trị chất lượng tuỳ từng điều kiện và tình hình của mình các doanh nghiệp đã triển khai những biện pháp chủ yếu của quản trị chất lượng như sau.
*Đổi mới công nghệ.
Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam hiện nay còn thua kém thế giới 2 - 3 thế hệ nên đổi mới công nghệ được coi là nền tảng, là khâu đột phá trong hệ thống các biện pháp đảm bảo nâng cao chát lượng. Bởi vì không đổi mới công nghệ thì không đổi mới được thiết kế (sản phẩm, công nghệ) và không thể nâng cao được các thông số kinh tế - kỹ thuật của sản phẩm.
* Tiêu chuẩn hoá sản phẩm
Tiêu chuẩn hoá là cơ sở đảm bảo, nâng cao và quản trị chất lượng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất đã tăng cường và đổi mới công tác tiêu chuẩn hoá theo hướng xây dựng và thực hiện 3 loại tiêu chuẩn chủ yếu (hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với từng loại sản phẩm, các qui định về qui trình, qui phạm sản xuất; xác định mức phế phẩm cho phép) và mở rộng, nâng cao tỷ trọng các tiêu chuẩn do doanh nghiệp quản lý.
* Phấn đấu theo hệ thống quản lý chất lượng TQM, ISO 9000, HACCP.
Nhiều doanh nghiệp sản xuất, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã tích cực phấn đấu để được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000. Nếu năm 1990, Việt Nam mới bắt đầu tuyên truyền áp dụng ISO 9000 và không ít doanh nghiệp chưa hiểu ISO 9000 là gì thì nay ISO 9000 đã trở thành mục tiêu phấn đấu của nhiều doanh nghiệp. Số lượng các doanh nghiệp được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000 tăng lên không ngừng. Năm 1997 chỉ có vài doanh nghiệp, năm 1998 có 28 doanh nghiệp, năm 1999 có 75 doanh nghiệp, cuối năm 2001 có trên 500 doanh nghiêp được cấp chứng nhận ISO 9000. Đối tượng được công nhận ISO 9000 mở rộng, trước đây chỉ có xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài được nhận thì ngày nay ngoài các doanh nghiệp kể trên (60% năm 1999) còn nhiều doanh nghiệp sản xuất (32%) và cả doanh nghiệp tư nhân (8%) cũng được nhận.
Một số doanh nghiệp đang phấn đấu thực hiện hệ thống quản lý chất lượng TQM và HACCP. Hiện nay có 2 doanh nghiệp là công ty Nhựa Tiền Phong Hải Phòng và công ty Cơ Khí Xăng Dầu Thành Phố Hồ Chí Minh đang thực hiện hệ thống quản lý chất lượng TQM. Đến cuối năm 1999, có 18 doanh nghiệp thuộc ngành chế biến thủy sản đã đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Mỹ.
2. Tình hình chất lượng sản phẩm.
Chất lượng hàng tiêu dùng Việt Nam mấy năm qua đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Những tiến bộ chất lượng nổi bật được thể hiện ở khía cạnh sau
* Đa dạng, phong phú về chủng loại, kiểu dáng.
Nếu trước đây, một số cơ sở thường chỉ sản xuất một số ít mặt hàng với số lượng kiểu dáng rất hạn chế thì giờ đây, các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng đã sản xuất khá nhiều loại hàng với nhiều mẫu mã, kiểu dáng ở nhiều phẩm cấp chất lượng khác nhau. Điều đó thể hiện các nhà sản xuất đã biến định hướng chất lượng vì người tiêu dùng , chất lượng là do yêu cầu của khách hàng vì thế cố gắng thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng như các loại vật liệu xây dựng, sứ dân dụng, sứ vệ sinh, quạt điện, hàng may mặc, các loại mỹ phẩm, nước giải khát, bánh kẹo…v.v
* Thẩm mỹ được nâng lên.
Trong thời gian qua, chất lượng sơn, mạ, chất lượng các chi tiết nhựa đã được các nhà sản xuất quan tâm và đầu tư đáng kể nên chất lượng thẩm mỹ hàng Việt Nam không còn thua kém hàng hoá cùng loại trong khu vực. Bao bì nhãn mác (đặc biệt đối với các hàng hoá thực phẩm, mỹ phẩm, chất tẩy rửa.v.v.) cùng được cải tiến để hoà nhập được với hàng nhập khẩu.
* Kết cấu sản phẩm:
Xu hướng chế tạo hàng hoá có kết cấu gọn nhẹ, thanh thoát, tiện dụng trong sử dụng đã được các nhà sản xuất đặc biệt quan tâm và triển khai có kết quả. Như các mặt hàng cơ khí gia dụng, đồ gỗ, quạt điện, dụng cụ điện.v.v. Từ xu hướng trên, không những giúp các nhà sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn giảm được tiêu hao vật tư, năng lượng.
* Các chỉ tiêu về tính năng sử dụng:
Phần lớn các hàng hoá của Việt Nam sản xuất thời gian qua đủ nâng cao được các chỉ tiêu liên quan đến hiệu quả sử dụng. Các sản phẩm đã đạt chất lượng đăng ký với xu hướng tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều hàng hoá tiêu dùng của ta đã đạt và vượt qua các ứp cùng loại của khu vực và được người tiêu dùng tín nhiệm như các loại vật liệu xây dựng (xi măng lò quay, gạch xây, gạch lát của Thạch Bàn, Hữu Hưng…) , sứ vệ sinh (Thanh trì, Thiên thanh), dây điện (Cadivi, Trần phú…), quạt điện (Điện cơ thống nhất) , bánh kẹo (Vinabico, Hải hà…), hàng lắp ráp điện tử, mỹ phẩm..v.v.
* Độ bền và an toàn.
Nhiều hàng tiêu dùng của Việt Nam được người tiêu dùng ưa chuộng bởi đã đáp ứng được các yêu cầu về an toàn trong quá trình sử dụng và có độ bền đảm bảo như gạch lát nền Hữu Hưng, sứ vệ sinh (Thanh trì, thiên Thanh) quạt điện cơ Thống nhất, một số loại khí cụ điện, đồ cơ khí gia dụng như bàn ghế Xuân hoà, bóng đèn và phích nước rạng Đông.
Có thể nói một cách khái quát rằng, chất lượng hàng hoá Việt Nam mấy năm qua đã có sự vươn lên mạnh mẽ. Nhiều hàng hoá đã từng bước ổn định và nâng cao chất lượng với xu hướng tiếp cận hàng hoá chung của thế giới do đó đã được người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng và đánh giá cao.
3. Đánh giá chung.
Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đã có những tiến bộ lớn so với thời bao cấp. Song so với chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp của các nước trong khu vực và thế giới, chúng ta còn thua kém nhiều mặt. So với yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam còn đơn điệu, giá cao, mẫu mã chưa hấp dẫn. Ngoại trừ các doanh nghiệp đã áp dụng hệ thống quản trị chất lượng còn lại các doanh nghiệp ít cải tiến sản phẩm. Chất lượng sản phẩm thiếu ổn định.
Trong những năm 90 thị trường trong nước còn có một thực trạng đáng lo ngại là tệ nạn làm hàng giả, hàng nhái và hàng kém chất lượng. Những doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc chiụ đầu tư tìm kiếm phát triển sản phẩm tốt được người tiêu dùng công nhận thì một thời gian ngắn sau là bị làm giả. Điển hình như các sản phẩm Diêm thống nhất, Nư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E0083.doc